← Quay lại trang sách

Chương 2

TÔI MỞ MẮT, kinh hoàng, tay bấu chặt tấm vải trải giường. Nhưng tôi không đang chạy qua những con đường trên phố hay những hành lang trong tổng hành dinh phái Dauntless. Tôi đang nằm trên một cái giường ở tổng hành dinh Amity, và có mùi mùn cưa phảng phất trong không khí.

Tôi trở mình, và nhăn mặt khi bị thứ gì đó đâm vô lưng. Tôi với ra sau và ngón tay vô tình móc quanh khẩu súng.

Trong một tích tắc, tôi nhìn thấy Will đứng trước mặt tôi, súng của chúng tôi chĩa vào nhau – tay cậu ấy, tôi đã có thể bắn vào tay cậu ấy, tại sao tôi lại không làm vậy, tại sao? – và suýt nữa tôi đã thét gọi tên cậu ấy.

Và rồi cậu ấy biến mất.

Tôi trở dậy và dùng một tay nhấc tấm nệm lên, lấy đầu gối đỡ nó lại. Rồi tôi nhét khẩu súng xuống dưới và phủ tấm nệm lên trên. Một khi nó đã khuất mắt và không còn đâm vô người tôi, đầu óc tôi sẽ tỉnh táo hơn.

Bây giờ khi cơn cuồng adrenaline hôm qua đã xẹp đi, và cái thứ gì đó giúp tôi ngủ đã hết tác dụng thì cơn đau âm ỉ và vết đạn bắn trên vai tôi lại trở đau muốn trào nước mắt. Tôi vẫn đang mặc bộ quần áo tối hôm qua.

Một góc cái ổ cứng thò ra dưới gối, chỗ tôi đã vùi nó trước khi chìm vào giấc ngủ. Trong đó là dữ liệu của trình mô phỏng đã điều khiển cả phái Dauntless, và chứng thực về những gì phái Erudite đã làm. Có cảm giác như nó quá quan trọng đến nỗi ngay cả đụng tôi cũng không dám đụng tới, nhưng tôi không thể để nó nằm chỏng chơ ở đây, cho nên tôi vớ lấy nó và nhét vào cái khe giữa cái tủ áo và bức tường. Một phần trong tôi cho rằng hủy béng nó đi luôn cũng là một ý kiến xuất sắc, nhưng tôi biết nó chứa những thông tin duy nhất về cái chết của ba mẹ tôi, vậy nên tôi sẽ chỉ giấu nó đi thôi.

Ai đó gõ cửa phòng tôi. Tôi ngồi xuống thành giường và cố vuốt cho tóc xẹp xuống.

“Vô đi,” tôi nói.

Cửa mở, và Tobias bước một chân vô trong, cánh cửa chia người anh làm hai nửa. Anh vẫn mặc cái quần jeans ngày hôm qua, nhưng đã thay cái áo thun đen bằng một một cái khác màu đỏ đậm, chắc là mượn của Amity nào đó. Anh mặc màu này nhìn lạ hoắc, sáng sủa quá, nhưng khi anh ngửa đầu tựa vào khung cửa, tôi phát hiện ra màu này làm cho màu xanh của mắt anh có vẻ nhạt hơn.

“Nửa tiếng nữa phái Amity sẽ có một buổi họp.” Anh nhướn mày và thêm vào một cách cường điệu, “Để quyết định số phận của tụi mình.”

Tôi lắc đầu. “Em chưa bao giờ mơ tới chuyện số phận của tụi mình lại nằm trong tay một đám Amity cả.”

“Anh cũng vậy. À, anh có mang cho em thứ này.” Anh vặn nắp một cái chai nhỏ và chìa ra một cái ống nhỏ giọt đựng đầy một chất lỏng trong suốt. “Thuốc giảm đau.

Cứ sáu tiếng uống một ống.”

“Cảm ơn anh.” Tôi bóp cái ống cho thuốc nhỏ xuống cổ họng. Mùi như trái chanh để lâu ngày.

Anh thọt một ngón tay cái vào trong con đỉa quần và hỏi, “Em thấy sao rồi, Beatrice?”

“Anh mới gọi em là Beatrice đó hả?”

“Thử coi sao đó mà.” Anh cười. “Không tốt sao?”

“Có lẽ chỉ những dịp đặc biệt thôi. Ngày Nhập Môn, ngày Lễ Chọn...” tôi dừng lại. Tôi tính huyên thuyên thêm vài ngày lễ nữa, nhưng chỉ có phái Abnegation mới ăn mừng chúng. Phái Dauntless có những ngày lễ riêng, tôi đoán vậy, nhưng tôi không biết đó là ngày gì. Mà đằng nào đi nữa, cái ý tưởng rằng chúng tôi sẽ ăn mừng lễ lạc gì ngay lúc này thật lố bịch quá thể nên tôi không nói tiếp nữa.

“Thỏa thuận rồi nhé.” Nụ cười của anh biến mất. “Em thấy sao rồi, Tris?”

Câu hỏi không có gì lạ, sau những gì chúng tôi đã trải qua, nhưng người tôi căng ra khi nghe anh hỏi, lo rằng anh sẽ bằng cách nào đó mà nhìn thấu tâm trí tôi. Tôi chưa kể với anh chuyện về Wil. Tôi muốn lắm, nhưng không biết phải kể làm sao. Nội nghĩ tới chuyện nói thành lời thôi cũng đủ để tôi thấy nặng nề tới mức muốn đổ sụp xuống sàn rồi.

“Em...” tôi lắc lắc đầu. “Em không biết nữa, Số Bốn.

Em đang tỉnh. Em...” Tôi vẫn đang lắc đầu. Anh đưa tay vuốt má tôi, một ngón tay xoa xoa sau tai tôi. Rồi anh nghiêng đầu hôn tôi, gửi một cơn đau ấm áp đến cơ thể tôi. Tôi vòng tay ôm lấy tay anh, giữ anh ở đó lâu đến chừng có thể. Khi anh chạm vào tôi, cảm giác trống trải trong lồng ngực và dạ dày tôi không còn đáng bận tâm nữa.

Tôi không cần phải nói với anh. Tôi có thể cố mà quên đi – anh có thể giúp tôi quên đi.

“Anh hiểu,” anh nói. “Xin lỗi em. Đáng ra anh không nên hỏi.”

Trong một khoảnh khắc, tất cả những gì tôi nghĩ được là, làm sao mà anh có thể hiểu được chứ? Nhưng có gì đó trong biểu hiện của anh nhắc tôi nhớ rằng anh có biết về mất mát. Anh mất mẹ từ khi còn nhỏ. Tôi không nhớ bà ấy ra đi như thế nào, chỉ nhớ là chúng tôi có dự đám tang của bà.

Rồi đột nhiên tôi nhớ lại hình ảnh anh đang nắm chặt cái rèm cửa trong phòng khách, khoảng chín tuổi, mặc đồ xám, đôi mắt sẫm màu nhắm chặt. Hình ảnh đó lướt vụt qua, hoặc có thể chỉ là tưởng tượng của tôi thôi, không phải là một ký ức.

Anh buông tôi ra. “Anh sẽ để em chuẩn bị.”

Phòng tắm nữ ở cách hai phòng. Sàn nhà được lát gạch màu nâu đậm, mỗi buồng tắm đều có tường bằng gỗ và một tấm màn bằng nhựa ngăn cách nó với gian chính bên ngoài. Một tấm biển treo trên bức tường đằng sau ghi: HÃY NHỚ: ĐỂ TIẾT KIỆM TÀI NGUYÊN, VÒI TẮM CHỈ CHẢY TRONG NĂM PHÚT.

Nước lạnh ngắt, vậy nên tôi cũng chẳng tha thiết tắm thêm một phút nào nữa ngay cả khi được phép. Tôi chà rửa vội bằng tay trái, tay phải cứ để thõng bên mạn sườn.

Liều thuốc giảm đau Tobias cho tôi công hiệu rất nhanh – cơn đau trên vai tôi đã phai dần, chỉ còn thốn nhẹ.

Tắm xong, tôi thấy một chồng quần áo đã xếp sẵn trên giường. Trong đó có đồ màu vàng và đỏ của phái Amity, màu xám của phái Abnegation, những màu hiếm khi tôi thấy đi cùng nhau. Nếu phải đoán, tôi đoán là một trong những Abnegation đã để chúng đó cho tôi. Đây là dạng việc mà họ nghĩ là nên làm.

Tôi tròng vô người một cái quần màu đỏ bằng denim(* )

– hơi dài quá nên phải xắn lai tới ba lần – và một cái áo thun màu xám Abnegation rộng thùng rộng thình.

Tay áo phủ tới ngón tay nên tôi cũng phải xắn lên nốt.

Cử động tay phải đau thấu trời, nên tôi ráng nhích từng chút từng chút một.

Có người gõ cửa. “Beatrice?” Giọng nói nhẹ nhàng của Susan.

Tôi mở cửa cho nhỏ. Nó bê theo một khay đồ ăn và đặt lên giường. Tôi quan sát nét mặt con nhỏ để tìm kiếm dấu hiệu của sự mất mát – ba nó, một thủ lĩnh Abnegation, đã không sống sót trong cuộc tấn công –

nhưng tất cả những gì tôi thấy chỉ là thái độ điềm tĩnh đặc trưng của phái cũ của tôi.

“Tiếc là quần áo không vừa vặn cho lắm,” nhỏ nói.

“Mình chắc là sẽ tìm ra được bộ khác tốt hơn nếu phái Amity cho phép chúng ta ở lại đây.”

“Không sao,” tôi đáp. “Cảm ơn bồ.”

“Mình nghe nói bồ bị bắn. Cần mình giúp cột tóc lên không? Hay mang giày giúp?”

* Denim: Serge de Nimes là một loại vải sản xuất tại miền Nam nước Pháp, rất bền, dùng để may quần jeans.

Tôi định từ chối, nhưng đúng thật là tôi cần giúp đỡ.

“Ừ, cảm ơn bồ.”

Tôi ngồi xuống một cái ghế đẩu đặt trước gương, và nhỏ đứng đằng sau tôi, đôi mắt được huấn luyện nghiêm túc để chỉ chứa nhiệm vụ trước mắt thay vì hình ảnh phản chiếu nào. Chúng không nhìn lên, ngay cả chỉ trong tích tắc, trong lúc con nhỏ chải tóc cho tôi.

Và nó không hỏi han gì về vết thương trên vai, hay tôi bị bắn như thế nào, chuyện gì đã xảy ra khi tôi rời căn nhà an toàn của phái Abnegation để tìm cách phá hủy trình mô phỏng. Tôi có cảm giác nếu lóc tới tận xương tủy nó thì sẽ vẫn thấy nó là một Abnegation từ trong ra ngoài.

“Bồ đã gặp anh Robert chưa?” tôi hỏi. Anh trai của nhỏ – Robert – đã chọn Amity khi tôi chọn Dauntless, nên hẳn anh đang ở đâu đó trong khu này. Không biết cuộc đoàn tụ của hai người có giống tôi với anh Caleb không.

“Có một chút, tối qua,” nó đáp. “Mình để cho Robert đắm chìm trong đau buồn với phái của anh ấy như mình đắm chìm với nỗi đau khổ của phái mình vậy. Dù gì được gặp lại anh trai cũng tốt.”

Tôi nghe giọng con nhỏ có mùi một dấu chấm hết, báo hiệu rằng chủ đề này chấm dứt tại đây.

“Thật tệ khi chuyện lại xảy ra ngay lúc này, Susan nói.

“Những thủ lĩnh của tụi mình đang chuẩn bị làm điều gì đó tuyệt vời lắm.”

“Thật không? Chuyện gì?”

“Mình không biết.” Susan đỏ mặt. Mình chỉ biết là có chuyện gì đó đang diễn ra. Không phải mình tò mò đâu; chỉ là mình để ý vài thứ thôi.”

“Mình không trách gì đâu, ngay cả khi bồ tò mò thật.”

Nhỏ gật đầu và tiếp tục chải tóc. Tôi thắc mắc không biết những thủ lĩnh Abnegation – gồm cả ba tôi – đã đang làm gì. Và tôi không thể ngăn mình thấy ngạc nhiên trước kết luận của Susan rằng họ đang làm điều gì đó tuyệt vời. Ước gì tôi có thể lại tin tưởng vào mặt tốt của con người ta.

Cứ như thể tôi đã từng tin.

“Những Dauntless thường để tóc xõa phải không?”

nhỏ hỏi.

“Thỉnh thoảng,” tôi nói. “Bồ biết thắt bím không?”

Thế là những ngón tay của con nhỏ khéo léo đan tóc tôi thành một bím dài tới nửa sống lưng. Tôi nhìn chằm chặp mình trong gương cho tới khi con nhỏ làm xong.

Tôi cảm ơn nó, và nó mỉm cười ra khỏi phòng, khép cửa lại sau lưng.

Tôi tiếp tục nhìn trừng trừng, nhưng không phải nhìn hình mình trong gương. Tôi vẫn còn cảm thấy ngón tay của con nhỏ chạm vào gáy tôi, giống những ngón tay của mẹ, vào buổi sáng cuối cùng hai mẹ con tôi ở bên cạnh nhau. Mắt ngân ngấn nước, tôi cứ lắc lư trên ghế, cố gắng đẩy ký ức đó ra khỏi đầu. Tôi sợ rằng nếu lỡ khóc bây giờ, tôi sẽ chẳng bao giờ ngừng được cho đến khi da dẻ nhăn nhúm lại như trái nho khô.

Tôi chợt thấy có một cái giỏ đựng đồ may vá trên kệ tủ. Trong đó đựng hai cuộn chỉ màu, đỏ và vàng, và một cái kéo.

Khi tháo tung bím tóc và chải lại tóc, tôi thấy rất điềm tĩnh. Tôi rẽ tóc làm hai phần và giữ cho nó thật thẳng thớm. Tôi đưa kéo ngang cằm và cắt một nhát thật ngọt.

Làm sao mà tôi có thể trông không có gì thay đổi khi mẹ đã mất và mọi thứ đã khác đi rồi? Tôi không thể.

Tôi cố cắt đều hết mức có thể, lấy hàm làm chuẩn.

Phần khó nhằn nhất là phía sau đầu do tôi không thấy rõ lắm, vậy nên tôi sờ thay vì nhìn và cắt đại. Từng chùm tóc vàng rớt xuống sàn nhà tạo nên một vòng cung xung quanh tôi.

Tôi rời khỏi phòng mà không nhìn lại diện mạo mình trong gương.

Khi Tobias và anh Caleb đến, bọn họ trân trối nhìn tôi như thể tôi không dính dáng gì đến con người hôm qua họ biết vậy.

“Em cắt tóc rồi,” anh Caleb nhướn mày. Nhận biết sự thật trong mớ hỗn độn gây sốc là một phẩm chất rất ư Erudite của anh. Tóc bên phía anh nghiêng qua khi nằm ngủ dính bết vào da đầu, và mắt thì đỏ ngầu.

“Ừ,” tôi nói. “Trời... nóng quá mà.”

“Nói sao biết vậy thôi.”

Chúng tôi cùng nhau băng qua hành lang. Sàn nhà kêu ken két theo bước chân của chúng tôi. Tôi nhớ tiếng bước chân mình vang vọng trong khu tập thể Dauntless; Tôi nhớ cái không khí mát lạnh dưới lòng đất. Nhưng trên hết, tôi nhớ những nỗi sợ hãi mới mấy tuần trước, chẳng là cái đinh gì so với nỗi sợ hãi hiện tại.

Chúng tôi ra khỏi tòa nhà. Không khí bên ngoài làm tôi choáng ngợp. Nó có mùi tươi mới, như mùi của một chiếc lá khi bị xé làm đôi.

“Mọi người có biết cậu là con trai của chú Marcus không?” anh Caleb hỏi. “Ý tôi là phái Abnegation ấy?”

“Theo tôi biết thì không,” Tobias liếc nhìn anh Caleb.

“Và tôi sẽ rất biết ơn nếu như anh không đề cập đến chuyện này.”

“Không cần tới tôi mở miệng. Ai có mắt cũng tự thấy được mà.” Anh Caleb cau mày. “Nhân tiện, cậu bao nhiêu tuổi rồi?”

“Mười tám.”

“Và cậu không nghĩ mình hơi lớn để cặp với đứa em bé nhỏ của tôi hả?”

Tobias buột miệng cười. “Em ấy không phải là cái gì bé nhỏ của anh hết.”

“Thôi đi. Cả hai người,” tôi nạt. Một đám đông những người mặc đồ màu vàng và đỏ đi đằng trước chúng tôi, hướng về một ngôi nhà thấp và rộng làm hoàn toàn bằng kính. Nắng chói lên những tấm kính làm tôi đau mắt. Tôi lấy tay che mặt và tiếp tục bước đi.

Những cánh cửa dẫn vào nhà đang mở toang. Xung quanh rìa ngôi nhà kính hình tròn, cây cỏ và những cây to mọc bao xung quanh một cái giếng hay một cái vũng nước gì đó. Hàng tá quạt được đặt quanh căn phòng chỉ có tác dụng thổi khí nóng vòng quanh căn phòng nên chưa gì mà tôi đã mồ hôi mồ kê nhễ nhại rồi. Nhưng tâm trí tôi nhanh chóng quên đi cái nóng lúc đám đông phía trước giãn ra và tôi nhìn thấy phần còn lại của căn phòng.

Ở trung tâm căn phòng là một cái cây khổng lồ. Cành cây vươn đến hầu khắp mọi góc cái nhà kính, và rễ cây nổi lên gồ ghề trên mặt đất, tạo thành một tấm lưới rậm rạp bằng vỏ cây. Ở những khoảng trống giữa mấy cái rễ không phải là đất mà là nước, và những sợi dây kim loại đang giữ rễ cây yên vị. Đáng ra tôi không nên ngạc nhiên mới phải – phái Amity dành cả đời họ theo đuổi những kỳ công về nông nghiệp như thế này, với sự trợ giúp của phái Erudite về kỹ thuật.

Cô Johanna đang đứng trên một chùm rễ, tóc xõa che đi nửa phần mặt có sẹo. Tôi đã học trong môn Lịch Sử Môn Phái rằng, phái Amity không công nhận một thủ lĩnh chính thức nào – họ bỏ phiếu về tất tần tật, và kết quả thường là nhất trí gần hết. Họ giống như nhiều phần khác nhau của một bộ não duy nhất, và cô Johanna là người phát ngôn của họ.

Những thành viên Amity ngồi xuống sàn, phần lớn khoanh chân lại, ngồi thành cụm và bó, với tôi nhìn từa tựa như đám rễ cây. Nhóm Abnegation ngồi sát nhau thành một hàng cách tôi vài mét về phía bên trái. Tôi đưa mắt tìm kiếm trong đám đông một lúc trước khi nhận ra điều mà mình đang tìm kiếm: ba mẹ.

Tôi nặng nhọc nuốt nước bọt và cố xua ý nghĩ đó ra khỏi đầu. Tobias khẽ chạm vào lưng tôi, dẫn tôi tới vòng ngoài của khu hội họp, phía sau phái Abnegation. Trước khi chúng tôi an tọa, anh khẽ nói vào tai tôi, “Anh thích tóc em như vầy.”

Tôi mỉm cười và ngồi dựa vào anh, hai cánh tay chạm vào nhau.

Cô Johanna giơ hai tay lên và cúi đầu. Toàn bộ những cuộc đối thoại trong phòng lập tức chấm dứt trước khi tôi kịp thở hơi tiếp theo. Xung quanh tôi, những Amity ngồi trong yên lặng, vài người nhắm mắt, vài người lẩm nhẩm gì đó tôi không nghe được, vài người thì nhìn xa xăm vô định.

Mỗi giây trôi qua làm tôi thêm khó chịu. Khi cô Johanna ngẩng đầu lên thì tôi đã bồn chồn tới tận xương.

“Ngày hôm nay, chúng ta có một câu hỏi khẩn cấp cần phải giải đáp,” cô ta bắt đầu nói, “đó là: là những người luôn mong muốn hòa bình, chúng ta phải hành xử như thế nào trong giai đoạn hỗn loạn này?”

Tất cả những Amity trong phòng liền quay qua người kế bên và bắt đầu bàn luận.

“Làm sao mà bọn họ giải quyết được chuyện này hở trời?” tôi nói, khi thời gian chít chát mãi chưa thấy kết thúc.

“Họ không quan tâm tới hiệu quả,” Tobias giải thích.

“Họ quan tâm đến sự đồng thuận. Nhìn mà xem.”

Hai người phụ nữ mặc váy màu vàng cách đó vài thước đứng dậy và nhập chung với một nhóm ba người đàn ông. Một anh trẻ trẻ nhích sang bên để cái nhóm nhỏ của anh ta nhập chung với nhóm kế bên thành một nhóm lớn. Khắp căn phòng, những nhóm nhỏ cứ càng ngày càng phình lên, và càng lúc càng ít tiếng nói vang lên hơn, cho đến khi chỉ còn ba hay bốn người còn đang nói mà thôi. Tôi chỉ nghe lõm bõm cái gì mà: “Hòa bình... Dauntless... Erudite... nhà an toàn... liên quan...”

“Thiệt là quái dị,” tôi nhận xét.

“Anh thấy nó hay đó chứ,” anh đáp.

Tôi lừ mắt với anh.

“Sao chứ?” Anh khẽ cười. “Mỗi người họ đều có vai trò như nhau trong chính quyền; họ thấy có trách nhiệm như nhau. Và điều đó làm họ tận tâm, làm họ tử tế. Anh thấy nó hay mà.”

“Em thì thấy nó không bền vững,” tôi nói. “Dĩ nhiên với phái Amity thì công hiệu. Nhưng lỡ như không phải ai cũng muốn đánh trống banjo và trồng trọt cây cối thì sao? Lỡ như có ai đó làm nên chuyện gì thật kinh khủng mà chỉ nói suông không thì chẳng giải quyết được vấn đề gì thì sao?”

Anh nhún vai. “Anh đoán mình sẽ biết ngay bây giờ thôi.”

Cuối cùng vài người từ mỗi nhóm lớn đứng dậy và tiến tới bên cô Johanna, cẩn trọng vượt qua đám rễ của cái cây khổng lồ. Tôi tưởng họ sẽ phát biểu với đám người còn lại chúng tôi, nhưng thay vào đó, họ chỉ đứng thành một vòng tròn với cô Johanna cùng với những người phát ngôn khác và thầm thà thầm thì. Tôi bắt đầu có cảm giác là còn khuya mới biết được bọn họ đang nói những gì.

“Họ sẽ không để chúng ta tranh luận với họ, đúng không?” tôi hỏi.

“Anh nghi ngờ chuyện đó,” anh trả lời.

Chúng tôi ngừng ở đó.

Khi mấy người đó đã trình bày xong phần của họ, họ lại ngồi xuống, để cô Johanna một mình tại trung tâm của căn phòng. Cô ta hướng về phía chúng tôi và khoanh tay lại trước ngực. Chúng tôi sẽ đi đâu nếu họ bảo chúng tôi phải rời đi? Quay lại thành phố, nơi không có gì là an toàn?

“Như chúng tôi còn nhớ được thì, từ rất lâu rồi, phái chúng tôi đã có mối quan hệ mật thiết với phái Erudite.

Chúng tôi cần nhau để sinh tồn, và chúng tôi luôn hợp tác với nhau,” cô Johanna nói. Nhưng chúng tôi cũng có một mối quan hệ bền chặt với phái Abnegation trong quá khứ, và chúng tôi không nghĩ, rút lại cánh tay tình bạn ngay lúc này là việc làm đúng đắn, nhất là khi chúng đã được đưa ra trong một thời gian khá dài rồi.”

Giọng cô ta ngọt như mật, và cũng lên xuống trầm bổng như mật, từ tốn và cẩn trọng. Tôi phải lấy mu bàn tay chùi mồ hôi đang rỉ ra từ các đường chẻ tóc.

“Chúng tôi thấy rằng cách duy nhất để duy trì tình bằng hữu với cả hai phái là duy trì vị thế công bằng và trung lập,” cô ấy nói tiếp. “Sự hiện diện của quý vị tại đây, dù được chào đón, nhưng lại làm cho vị thế này trở nên phức tạp.”

Tới rồi, tôi nghĩ.

“Chúng tôi đã đi đến quyết định rằng chúng tôi sẽ kiến lập tổng hành dinh của chúng tôi thành một ngôi nhà an toàn cho thành viên của tất cả các phái,” cô ấy nói, “với một vài điều kiện. Thứ nhất, không ai được mang bất kỳ loại vũ khí nào trong khu tập thể. Thứ hai, nếu xảy ra bất kỳ xung đột nghiêm trọng nào, dù bằng lời nói hay chân tay, tất cả các bên liên quan sẽ được yêu cầu rời khỏi đây. Thứ ba, các mâu thuẫn không được đề cập tới, thậm chí một cách bí mật, trong phạm vi khu tập thể. Và thứ tư, tất cả những ai sống tại đây đều phải đóng góp cho lợi ích của môi trường này bằng cách lao động. Chúng tôi sẽ thông báo việc này đến phái Erudite, Candor và Dauntless sớm nhất có thể.”

Ánh mắt của cô ta lướt đến Tobias, và tôi, rồi giữ nguyên tại đó.

“Các vị được phép ở lại đây khi và chỉ khi các vị tôn trọng luật lệ của chúng tôi,” cô ta tiếp tục. “Đó là quyết định của chúng tôi.”

Tôi nghĩ đến khẩu súng đang giấu dưới tấm nệm và tình trạng căng thẳng giữa tôi và Peter, Tobias và ông Marcus, và miệng tôi khô khốc. Tôi không giỏi tránh xa những vụ xung đột.

“Chúng ta sẽ không ở đây lâu được đâu.” Tôi thì thào với Tobias.

Một giây trước, anh còn đang cười mỉm. Giờ khóe miệng anh cau lại. “Đúng vậy.”