← Quay lại trang sách

Chương 1 1

Sáng mai họ sẽ bay đi xa, và thượng sĩ Cesario Flores muốn nói vài câu từ giã. Ông làm công việc này đúng cách, cũng như ông từng làm mọi việc, không nói quá nhiều, hay quá ít, không lôi một cá nhân nào ra để khen ngợi hay khiển trách. Ông bảo họ là những quân nhân giỏi, và nếu có hôm nào nghe tin họ làm tốt một nhiệm vụ thì ông sẽ chẳng hề ngạc nhiên. Ông nhắc nhở họ đến lần thứ một trăm rằng những người lái máy bay không thể làm giỏi hơn các toán cơ khí viên bảo trì dưới đất. Rồi ông nói “Từ giã các bạn,” dừng lại, có vẻ suy tư, đẩy kính lên một chút trên sống mũi. Câu đùa cuối cùng của ông đã được dùng nhiều lần: ông không mong nhận được tin tức cửa từng người một, nhưng nếu có nhận được, thì yêu cầu anh em tha cho ông những tấm hình con heo Đông phương, vì ông đã nhận được quá nhiều từ những khóa trước. Khi ông mỉm cười, người ta có thể biết chắc ông người gốc Mehico, giòng họ De Las Flores.

Các binh sĩ cười lớn, xì xầm, rồi nhận ra ông đang nhìn họ, chờ đợi. Lúc tất cả im ắng trở lại, ông nói:

- Các bạn đại diện cho một đại cường quốc, đừng bao giờ quên điều đó.

Ông có vẻ định nói thêm một câu chua chát nào đó, nhưng lại thôi. Đủ rồi. Ông bước về phía các khóa sinh, hai mươi bảy người, bắt tay từng người một, gọi họ bằng tên riêng, cấp bậc. Đây là cách mà thượng sĩ Flores dùng để chúc may cho họ.

Thân hình đồ sộ quay lui, đúng điệu. Viên thượng sĩ sửa lại mũ và đi ra khỏi xưởng, bước dọc theo hành lang ra cửa. Trên cửa, một tấm bảng dài viết: NHỮNG CƠ KHÍ VIÊN GIỎI NHẤT THỂ GIỚI ĐÃ BƯỚC QUA CÁNH CỬA NÀY rồi đến tấm bảng thứ hai, do chính viên thượng sĩ yêu cầu viết BẠN HÃY HÃNH DIỆN. Bây giờ ông bước đến bãi đậu xe tráng nhựa bên hông dãy nhà, có ghi rõ tên ông trên đó. Xe của ông là một chiếc Dodge màu nâu, thuộc tài sản của không quân. Thượng sĩ Flores sửa lại kính chiếu hậu cho đúng cách, buộc dây an toàn, dù từ đây đến văn phòng chỉ huy trưởng chỉ có ba trăm mét.

Đại tá Francis Dowd, chỉ huy trưởng căn cứ và quân trường nhìn lên khi Flores bước vào trao cho ông bản báo cáo về toán khóa sinh sắp ra đi. Ông nói:

- Anh không phải vội vàng như vậy! Tôi cũng chưa cần đọc nó, ít nhất từ nay đến cuối tuần!

Thượng sĩ Flores mỉm cười, “Thưa đại tá, vâng.”

Ông khoái lão đại tá Dowd này. Mỗi lần gặp lão ta ông đều có cái vẻ đặc biệt của người gốc Latinh, như một chàng trai vừa từ vùng Sonora đến, nét mặt tươi cười nửa thèm thuồng, nửa châm biếm đối với du khách Hoa Kỳ giầu sang. Đại tá Dowd nhìn Flores với vẻ mặt nghiêm nghị. Đó là cái lối biểu diễn tình thân giữa hai người. Ông ta nói:

- Anh đúng là một thằng điên, anh biết không?

- Thưa đại tá, vâng.

Đại tá Dowd từng phục vụ ở nước ngoài, và nhiều lần ông nói với vợ rằng trong cả quân đội chỉ có một người lính duy nhất ý thức được hiện quốc gia này đang phải đương đầu với một cuộc chiến tranh lớn. vì vậy lúc nào hắn cũng làm việc hết sức mình. Ông nói với vợ: “Đó là một tên lính nhà nghề. Loại này không có được bao nhiêu. Những lính giỏi thường yểu tử, và chỉ có những thằng lính tồi mới dễ trở về.”

- Thượng sĩ Flores? - Đại tá Dowd nói như hét:

- Thưa đại tá? - Viên thượng sĩ đứng nghiêm.

- Anh hãy dẫn vợ con đi chơi, câu cá. Lớp khóa sinh tiếp thứ hai mới tập trung, như vậy có nghĩa là thứ ba, và đôi với anh, có nghĩa là anh không phải lo gì đến chúng nó, cho đến chừng nào xong các thủ tục, tức là thứ tư, vậy anh nên đi nghỉ vài ngày. Mệnh lệnh đấy.

- Thưa đại tá, tôi thích đời sống nơi căn cứ này..

Flores đáp.

♣ ♣ ♣

Căn cứ không quân Collins thuộc tiểu bang New Mexico, về phía nam Albuquerque, sát với thành phố sa mạc. Đây là cả một thế giới. Đứng giữa vùng này, người ta chỉ thấy những cơ sở của không quân. Xung quanh, khắp các phía, là những dãy núi xa xôi, như những phông cảnh sân khấu. Một du khách dễ dàng có ngay cảm tưởng nơi đây, chỉ không quân là tồn tại.

Hiện thời, căn cứ có đủ mọi thứ: một sân túc cầu, một sân côn cầu, một rạp hát, một hiệu sách, một siêu thị, một tiệm thuốc, một trạm đổ xăng, hai chi nhánh ngân hàng, ba nhà thờ và một tiệm làm tóc. Không có lý do gì để phải đi ra ngoài. Thỉnh thoảng gia đình Flores lại vấp vào lầm lỗi là đi nghỉ mát ở đâu đó bên ngoài căn cứ. Song họ luôn luôn thấy khoan khoái khi trở về, đi qua cổng chính, qua tấm bảng có dòng chữ: HÒA BÌNH LÀ SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA. Đây là quê hương của họ.

Các hàng hóa bán trong căn cứ rẻ hơn ở ngoài một phần ba, và lại được chọn nhặt theo sở thích, ở đây, mọi người đều biết Flores chứ không phải bà vợ đi mua đồ ăn thức uống cho gia đình. Ông đi qua lượn lại các quầy hàng, trả giá, hỏi cách nấu nướng nữa. Nhờ không quân, Flores đã có thể biết làm món ăn Đức, Pháp, Bỉ và Panama, những nơi ông phục vụ một thời gian ngắn.

Khi thiên hạ hỏi Flores thích làm món ăn kiểu gì nhất, ông trả lời thích lối nấu nướng riêng của mình hơn cả. Sự thật là Flores thích ăn ngon, mà bà Flores, tức Elsa, thì ít nghĩ tới chuyện ăn. Bà chỉ thích uống bia, với chút đỉnh thức ăn cho có, và thích nhất là thêm được bà hàng xóm cùng uống và cùng nhấm nháp.

Bà Flores người Đức, nhũ danh Elsa Matz, Cesario (Flores) gặp bà sau ngày Chiến thắng, trong một buổi khiêu vũ của tổ chức USO tại Bad Tolz vùng Bavaria. Thời đó, nhiều cô gái Đức làm vợ lính Mỹ, tức GI, thật chớp nhoáng. Chỉ sau một lúc, Cesario đã tin Elsa yêu chàng vì giỏi vuốt ve trước khi làm tình, điều mà theo người ta nói, đàn ông Đức không quan tâm. Nhưng sự thật là Elsa chấp nhận chàng vì những lý do sinh tử.

Munich, thành phố Elsa chào đời, bị tổn thất nặng nề. Mẹ nàng, nữ ca sĩ giọng cao trong một nhà hát nhạc kịch, đã chết khi ngôi nhà cũ kỹ của bà đổ sụp. Tai họa đến trong lúc chồng bà, Matz, quản lý khách sạn Vier Jahreszeiten đang làm việc, sáng hôm sau về nhà mới biết. Elsa, con gái họ, may mắn thoát chết.

Vì lo lắng cho con, Matz trở nên quá cưng chiều và làm Elsa thành hư hỏng. Ông xin được căn phòng trong khách sạn, và Elsa ngủ trên một chiếc giường nhỏ đặt cuối giường bố. Ông nhờ những cô hầu hằng ngày lo ăn, lo chải chuốt cho con gái. Trong cái xã hội những người bồi của khách sạn, Elsa được đối xử như khách hàng.

Đạo quân chiến thắng của Mỹ đặt một căn cứ lớn ở Bad Tolz, cách Munich một giờ xe về phía nam. Matz đã tính toán kỹ, khi ông thu xếp để Elsa, lúc đó vừa tròn mười tám, lứa tuổi nảy nở của con gái, đến nghỉ hè tại nhà một bà cô ở đó, ông đã thuộc bài học lịch sử: kẻ thất trận có thể sống sót, bằng cách lấy kẻ chiến thắng.

Khi luật lệ cấm thân thiện với dân Đức trở nên lỏng lẻo, những kẻ săn lùng niềm vui của cơ quan USO bèn đi tuyển lựa vũ nữ cho đội quân chiếm đóng ở khắp các thành phố lân cận, và khám phá ra Elsa. Nàng thật ngon lành với chiếc mũi hếch; mái tóc vàng, và nàng thừa hưởng của mẹ cái hào quang của một công chúa ở câu chuyện thần tiên trong các vở nhạc kịch. Nàng bận quần áo theo cách của mẹ; nàng có giọng cười của người mẹ, trong như pha lê vỡ, và lên cao dần.

Vào tuổi mười tám, bức tượng bằng sứ này chưa hề bị trầy trụa. Cesario tìm thấy ở Elsa tất cả những gì hy vọng thấy nơi một cô gái Mehico - no tròn ở những chỗ đáng no tròn, nhưng trắng nuột như sáp nhà thờ.

Elsa để ý thấy lính tráng cùng đơn vị Cesario đều nhìn lên chàng. Ở tuổi hai hai, chàng là một hạ sĩ quan, một lính nghề, hơn hẳn những gã lính mười chín đôi mươi dưới quyền. Chàng có màu da sạm nắng, điệu bộ kiểu cách, hát hay, nhất là bản Las Manantitas. Mỗi khi nghe chàng hát bản đó, nàng không khỏi chảy nước mắt. Chàng khiêu vũ giỏi nữa. Chỉ cần ở trong vòng tay chàng là đủ cho nàng cảm thấy yên ổn.

Ông Matz giao phó đứa con gái cho chàng như giao một gia tài, hoàn toàn tin tương nơi con rể mình.

Trong nhiều năm, họ không có con, mặc dù Cesario rất muốn, và cả hai đều đã nỗ lực. Elsa biện hộ cho sự thất bại của nàng. Không quân buộc họ phải di chuyển khắp nơi, mà nàng lại luôn cần có một ngôi nhà. Như ở Triều Tiên, Okinawa thì không thể gọi là nhà được.

Rồi Cesario được trở lại Đức, căn cứ Wiesbaden. Chín tháng sau, Elsa sinh hạ một bé gái, Juana. Rồi họ lại thuyên chuyển đến California, và Cesario cho đây là giới hạn cuối cùng. Chàng xin ra khỏi lực lượng.

Những năm làm việc với tư cách cơ khí viên bảo trì cho một hãng hàng không lớn thật là sự khốn khổ cho Cesario, bởi thiếu lối sống trật tự của không quân, và chàng hay nổi cơn giận dữ, sinh ra uống rượu, gây gổ. Rồi họ có thêm một đứa con gái, Linda. Sự ra đời của nó không giúp cải thiện bầu không khí gia đình. Chàng muốn có một đứa con trai.

Chính Elsa khuyên chồng tái đăng, trở thành một quân nhân chuyên nghiệp. Ngay sau đó, Elsa thụ thai, và lần này cho ra đời một bé trai, Diego. Ngày đứa bé sinh, Cesario thề chừa rượu.

Ở đây - đất Mỹ - có mấy việc khiến Elsa ngơ ngác. Khi nàng lấy Cesario ở Bavaria thì chàng là người Mỹ. Nhưng bây giờ, tại chính nước Mỹ, chàng lại là người Mehico. Ở Bavaria chàng giầu sang, những người giúp việc giành nhau từng đồng đôla của chàng. Nhưng ở Mỹ thì gia đình chỉ đủ ăn đủ mặc là may, lấy đâu ra tiền mướn người giúp việc, ở Bavaria chàng là một anh hùng, ở Mỹ, chàng chẳng là gì cả.

Sự tôn thờ tan biến. Chẳng cần có một lý do nào khác. Những khám phá đó chỉ làm cho chuyện phải đến sẽ đến nhanh hơn mà thôi. Khi đã đạt được những mục đích cụ thể, Elsa không cần phải diễn nữa. Được sinh ra từ cái thể chế để tôn thờ sức mạnh, nàng không buồn giấu giếm nỗi thất vọng đối với người chồng bây giờ, dưới mắt nàng, tầm vóc đã nhỏ hẳn lại.

Như tất cả chúng ta, họ đánh mất những gì đã là lý do đem họ đến với nhau. Chẳng cần thêm gì khác.

Nàng quyết định con gái mình lớn lên phải thành giai nhân, khiến đám đàn ông có địa vị, quyền hành phải thèm muốn, để có tấm chồng khá hơn mẹ nó. Kiểu mẫu để nàng theo là đám ái nữ của các kỹ nghệ gia Đức mà nàng từng thấy trong Vier Jahreszeiten Hotel. Cái đám ấy không rửa chén đĩa mà cũng chẳng phải điều khiển máy giặt.

Hai ái nữ của nàng còn quyết tâm hơn cả mẹ.

Nàng nhớ lại, và áp dụng lề thói độc đoán của cha mình, ông Matz. Nàng lớn lên trong cơm bưng nước rót, bây giờ cái nền nếp đó phải trở lại, dù từ chồng nàng.

Những trò đàn bà đó Cesario chẳng coi ra gì, chấp nhận hết. Chàng khám phá ra, ở Mỹ, khi ta không thuê nổi đám giúp việc rẻ tiền thì bữa sáng sẽ toàn đồ làm sẵn, bữa trưa cũng bằng những thứ làm sẵn, còn bữa tối thì chờ người cha về làm.

Elsa đã ý thức sẵn về cái cung cách mà nàng và hai cô con gái phải như thế nào khi xuất hiện trước đám đông. Mỗi đầu mùa thời trang, nàng đi ra ngoài căn cứ để mua sắm những gì thích hợp, phần lớn là đồ diêm dúa và mỏng manh của phụ nữ tầng lớp quí phái. Song nàng không thật hài lòng với những thứ có thể ở cái địa phương này. Thế là nàng bèn đưa ra những kiểu y phục theo quan niệm thẩm mỹ riêng của nàng, nhờ bà vợ một cơ khí viên, vốn là thợ may khá, để bà ta cắt may cho, bằng những loại vải lụa mỏng, rẻ tiền và mau rách.

Vì vậy mỗi lần Elsa sắm bộ thì đúng là nàng phải ra đường. Còn lại, nàng nằm suốt ngày trong nhà, bận chiếc áo ngủ, và nom như “trái cà chua úa,” nói như trung sĩ Jack Jones, người hàng xóm. Elsa có hai lối để đương đầu với thế giới, lối thứ nhất là của “con mụ hàng thịt,” vẫn như trung sĩ hàng xóm kia nói.

Bây giờ, ở tuổi bốn mươi, Cesario và Elsa đã tìm ra cách thích ứng với thế giới, và với nhau. Nàng có thể càu nhàu với chàng hàng giờ, và chàng phản ứng bằng bộ mặt đăm chiêu, nhưng chẳng nghe gì. Vốn ít nói, chàng trở thành luôn ít nghe, hay đúng hơn chẳng nghe gì. Vả lại, những gì nàng nói bao giờ cũng như bao giờ, của kẻ luôn luôn chỉ nhìn thấy vết bẩn trên quần áo lót người khác. Thay vì nghe nàng liên miên nói về chuyện xấu thiên hạ, Cesano huýt gió và nấu bếp, hoặc mở tivi thật lớn, để át tiếng nói của Elsa, và cứ như thế cho đên giờ đi ngủ. Lúc đó, chàng có thể dùng nàng vào một việc chính đáng, và cũng có thể không cần dùng đến nàng. Quan trọng gì đâu.

Cesario có một đam mê, lớn hơn cả về công việc của chàng, đó là đứa con gái lớn: Juana. Trong lúc những đứa con khác giống như ông bố vợ, hay bà mẹ vợ cộng thêm chút ít nâu nhạt trên làn da thì Juana hoàn toàn mang giòng máu Aztec, một tộc người khởi thủy từ Mehico nay đã thành dân tộc thiểu số, kiểu như dân da đỏ ở Mỹ. Juanna có đôi mắt tuyệt đẹp, gần như đen tuyền, tuy có hơi hẹp, nhưng chính thế mà khiến cho cái nhìn trở nên đắm đuối hơn. Nàng còn có chiếc mũi như đã được tạc trên những pho tượng đá ở kim tự tháp cổ tại Chichén Itzá. Trông nàng y hệt bà nội trong tấm ảnh chụp khi bà còn trẻ, đứng trước bức tường trắng.

Dĩ nhiên Elsa vẫn lại than phiền là chồng cưng chiều đến mức làm hư đứa con gái lớn của họ. Mười bảy tuổi, Juana vẫn ngồi trên đùi cha, được phép đòi hỏi bất cứ cái gì nàng muốn, như một nữ chúa lạc vào cái căn cứ không quân đặt giữa vùng sa mạc này.

Đối với Cesario thì Juana chính là di sản Mexico của ông còn lại, và ông không thể không cưng chiều nó. Ra phố, đôi khi ông chặn lại một người đàn bà lạ để hỏi đã mua ở hiệu nào chiếc áo hoặc váy đang mặc, hoặc món trang sức đang đeo. Thoạt tiên bà ta nghĩ ông trai lơ hoặc mưu toan gì song khi nhìn lên khuôn mặt băn khoăn, đôi mắt nặng trĩu lo âu của Cesario cộng vẻ chất phác của ông, bà ta bắt đầu nghe ông trình bày, rằng những thứ đó, nếu đứa con gái lớn của ông được dùng thì nó sẽ trỏ nên xinh đẹp biết bao... Khi ông về nhà, Juana chắc chắn sẽ có những món đồ ấy.

Dần dà, Juana trở thành đề tài tranh luận, và hơn thế, xích mích của bố mẹ nàng. Nhiều hôm vừa về đến nhà, Cesario đã thấy Elsa chờ sẵn để than phiền về cô con gái lớn. Trong lúc ông chồng vẫn không ngừng tay dọn dẹp bàn ăn bừa bãi, sau đó bày ra bữa chiều bằng những món ăn làm sẵn thì Elsa khai hỏa:

- Em có điều quan trọng cần nói, anh nghe không?

Cesario đang cọ cái chảo còn đầy vết trứng tráng từ sáng, cái đầu chẳng ra lắc hoặc gật. Elsa nói tiếp:

- Em bực bội quá nên không nghĩ đến việc rửa cái chảo đó. Cesrario, lần này anh phải nghe em đây. - Ông gật đầu, dùng mũi dao cạo lòng chảo đầy trứng. - Em không thể nói một chuyện quan trọng khi anh vừa nghe vừa cọ chảo như vậy.

Bà nhìn sang phòng khách, nơi có chiếc TV màu cỡ bự gần như không có phút giây ngơi nghỉ. Lúc này, một trong hai cô con gái, và bé trai Diego, đang ngồi xem.

- Anh tưởng mỗi ngày chúng chỉ được coi ti vi một giờ đồng hồ? Chúng làm bài ở nhà chưa? - Cesario nói.

Bà giật chiếc chảo ra, kéo chồng vào phòng riêng của con gái, đóng cửa lại:

- Chúng sẽ lập tức gây gổ nhau như quân thù, ngay khi em vừa tắt TV.

Bà nói, bước lại chiếc tủ đặt ở góc phòng, lục lọi, rồi lôi ra một chiếc quần đàn bà, giơ cao lên. Chiếc quần màu tím, và có vết trắng đục ở đáy.

- Mời anh nhìn đi.

- Quần của ai vậy?

- Anh dư biết của ai mà!

- Nó làm sao vậy?

Bà gí chiếc quần gần như sát mắt chàng:

- Anh không nhìn thấy sao?

Đũng quần, phía trước, có những vết trắng đục, giờ đã khô cứng. Những vết bẩn đúng như Cesario tưởng.

- Em đã bảo đừng để nó làm ở chỗ đó nữa nhưng anh đâu chịu nghe. Với anh, bất cứ chuyện gì con nhỏ muốn anh đều chiều hết. - Ý bà muốn nói việc Juana làm-đêm ở bãi đậu xe Big Boy Hamburger Joynt của lão Bennie. - Cesario, anh phải nghe em, ít ra từ bây giờ! - Ông vẫn không nói gì. - Nếu không, con gái anh sẽ thành con điếm mất. Khi đó thì đã muộn.

- Elsa, em đừng nói như vậy về con.

- Em cảnh cáo anh thôi. Có ngày, bà chúa của anh sẽ tênh hênh ra trên sàn thang máy kéo đồ với những thằng tài xế taxi...

- Nó là một đứa con gái ngoan.

- Bây giờ anh đến ngay chỗ đó mà kiếm con anh đi.

- Anh sẽ đến đó lúc hai giờ rưỡi. Con nó đã dặn thế.

Bennie, gã chủ quán Big Boy Hamburger Joynt bán đồ ăn nguội cho cánh lái xe đang đứng nói chuyện với một cảnh sát ngồi trên xe thì Cesario đến. Quán của gã vừa bị mất trộm mấy đêm trước, cảnh sát không tìm ra dấu vết gì để truy tìm thủ phạm nhưng hằng đêm vẫn ghé qua cho đủ lệ bộ, và Bennie luôn mau mắn đãi hạng khách này như thế một ly. Vả lại, chỗ này cũng rất tiện để ghé làm một ly, châm một điếu thuốc.

Sự có mặt của cảnh sát chẳng ảnh hưởng gì tối khách khứa. Vào hồi hai giờ ba mươi sáng, khu quán của Bennie là nơi ồn ào nhất trong vùng phía tây thành phố. Thấy Flores, Bennie chạy vội lại:

- Hi, thượng sĩ!

- Ê, Bennie, sao?

- Ờ, công việc làm ăn vẫn vậy. Vụ trộm hôm nọ làm khách, vì tò mò, lại kéo đến đông hơn. Nhưng tôi chẳng khoái đông khách theo kiểu đó. Này, nếu tôi có con gái lớn như anh thì tôi phải để ý đến nó hơn một chút.

Cesario thấy Juana đang trò chuyện với một người lái xe, quanh họ là đám con trai tóc dài. ông hỏi:

- Chúng nó là gì vậy? Sinh viên?

- Sinh viên, cựu sinh viên, bỏ học, ma cô, điếm đực, buôn ma túy... đủ thứ, sao kể hết được. Này, anh có đứa con gái xinh lắm đó, nếu nó là con gái tôi, nhất định tôi sẽ không cho nó lảng vảng ở chỗ này.

- Cám ơn.

Cesario đi lại phía đó. Tất cả những gã trai trẻ đều vây quanh nàng, trừ một tên đứng tựa cửa xe với vẻ bất cần đời. Song hắn lại là kẻ mà con gái ông để ý đến.

Cesario đi vào giữa đám đó, choàng tay qua vai con gái, trước khi nó kịp thấy ông.

- Đến giờ về rồi, con.

- Kìa, ba.

Nàng nhìn quanh, cả bọn im lặng. Juana không biết tên ai, hay không muốn giới thiệu ai với bố? Nàng chỉ vào người ngồi trong xe:

- Ba có biết anh Marvie không?

- Marvie, hân hạnh. Thôi, về con.

Nàng nhìn đám kia.

- Mấy anh ấy định đưa con về đó ba.

- Khỏi cần!

Thượng sĩ Flores run lên vì tức giận. Ai cũng thấy điều đó. Không ai dám nhìn ông. Không ai dám nói gì.

- Lên xe đi!

Ông nói nhỏ, gần như không ai ngoài cô con gái có thể nghe được. Juana im lặng bước về chiếc xe hơi.

Cesario đứng yên tại chỗ, xung quanh ông là những gã trai tóc dài. Rồi bỗng cơn giận dữ trong ông lắng xuống, và ông bỏ đi.

Lái xe về nhà, Cesario thấy mình như vừa làm một việc gì không được đúng lắm. Có phải vì Juana không nói chuyện với ông, hay là vì con gái ngồi xa ông quá, sát cửa xe bên kia và nhìn ta ngoài trời đêm?

Cơn giận dữ đến có thể giết người để lại cho ông dư vị là sự nhức đầu. Một lần, ông đã gần như không tự chủ được mình như thế, và suýt giết chết người bạn thân khi đập đầu gã nhiều lần xuống nền sân xi măng. Người ta phải lôi ông ra mới cứu được gã đó.

Cesario nhìn sang, ông sẽ chẳng để tâm gì khi vợ không chuyện trò với ông, nhưng ông không chịu nổi khi con gái ngậm miệng thế này. Có điều, chẳng thế nhượng bộ nó mãi được. Lần này phải để nó mở miệng trước. Nhưng rồi ông vẫn thua nó.

- Có phải tại ba gay gắt với mấy tên con trai kia? - Không một tiếng đáp. - Nếu phải vậy, cho ba xin đi. Chỉ tại ba lo lắng cho con quá thôi. - Im lặng đáp lại ông. - Juana, ba muốn nói... này, con có biết giữ mình không? - Vẫn không một tiếng trả lời. - Ba muốn nói là... con không nên tin vào một đứa con trai nào cả. Hắn sẽ nói với con, em yên trí lớn, em đừng lo, để mọi việc cho anh, con hiểu ba muốn nói gì không? Đó là những lời mà đàn ông thường nói khi họ nổi hứng. Nhưng con đừng tin những lời đó, con có hiểu ba muốn nói gì không con?

- Có phải mẹ nghĩ như vậy không? - Câu nói đầu tiên là thế.

- Mẹ con hơi cuống, bởi vì...

- Ba, con chưa đi đâu với ai cả! - Juana cười lớn.

- Được rồi. Tốt, Ba rất vui.

- Vậy ba cũng nghĩ như thế nữa sao? - Nàng cười lớn, mắt có cái vẻ đen láy của người Ấn Độ, màu mắt chỉ nàng với ông là có, nói tiếp. - Con để dành cho ba!

- Con đừng nói chuyện kiểu đó, Juanita. - Nhưng ông lại nắm cánh tay nàng, kéo lại sát với ông.

Họ im lặng cho đến khi về tới nhà, trong khu cư xá Winson.

Ông vừa nằm lên giường thì Juana kéo mạnh cửa phòng ngủ ra, đưa cao chiếc quần tím về phía Elsa:

- Ai xé chiếc quần này của tôi? Có phải bà không?

Elsa quay mặt lại. Juana nói như lên án.

- Đây là chiếc quần đẹp nhất của tôi!

Cesario nhỏ nhẹ:

- Để ba mua cho con chiếc khác y hệt.

Elsa gằn giọng:

- Đi về phòng ngủ. Ngay lập tức!

- Tôi không cần quần mới. Tôi muốn bà để quần áo tôi yên một chỗ.

Elsa đã tỉnh táo hẳn:

Này, bao giờ mày còn sống trong nhà tao thì tao còn có quyền chăm sóc mày, đừng quên điều đó.

- Chăm sóc?

- Đúng vậy! Và đừng bao giờ vào phòng tao hò hét kiểu này, nghe chưa? - Quay sang chồng, bà hét. - Anh để nó ăn nói với tôi vậy à, Cesario?

Ông can ngăn vợ, nghĩ rằng một hạ sĩ quan cần phải biết tề gia.

- Xxxì...

- Bao giờ mày mới đi học lại?

- Tôi sẽ đi học lại khi tôi muốn đi.

Elsa lại quay sang chồng:

- Anh nghe nó nói gì không? Anh tính làm gì đây? Cứ câm mồm vậy là con nó sẽ ngoan được à?

Juana gào lên:

- Tôi không muốn sống cùng bà nữa. Tôi không thể sống trong căn nhà này một giờ một phút nào nữa.

Elsa đứng lên, túm lấy con gái mà lắc và Cesario phải giằng hai người đàn bà ra, quàng tay qua vai con gái, đẩy nhẹ nó khỏi phòng:

- Thôi con. Dù sao mẹ con cũng là người mẹ tốt. Bà giận dữ như vậy chỉ vì lo lắng cho con đó thôi.

Cả hai nghe tiếng Elsa nói:

- Chúng nó hút hết đời sống của tôi, những con ranh đó. Tôi không thể nào khá khẩm lên gì được nữa. Nó là con gái anh, anh lo cho nó di.

♣ ♣ ♣

Sáu tuần sau, thượng sĩ Cesario Flores vào gặp sĩ quan chỉ huy, đại tá Dowd để xin thuyên chuyển.

- Đi đâu? Đến đâu?

- Thưa đại tá, đâu cùng được hết. Tây Ban Nha, Đức. Nhật. Bất cứ nơi nào đang trống chỗ.

Đại tá Dowd nhìn về phía trung sĩ Jones, ngồi sau bàn giấy ở góc phòng và đang lắng nghe. Jones hiểu chuyện gì đang làm Flores khổ tâm. Đại tá Dowd hỏi:

- Ở đây anh có gì không hài lòng?

- Thưa đại tá. tôi không có gì phải than phiền cả.

- Vậy thì...

- Thưa đại tá, đây là một vấn đề gia đình.

Đại tá Dowd lại nhìn trung sĩ Jones. Flores nói:

- Đại tá chấp thuận? Xin cảm ơn đại tá.

- Chờ một chút. Anh không thể vào gặp tôi rồi xin thuyên chuyển theo kiểu đó được. Còn phải có những thủ tục nữa chứ. Mà này, tại sao anh lại nổi chứng bất tử vậy hả? - Cesario mím chặt môi. Đại tá Dowd muốn trì hoãn vụ này. Những thủ tục của không quân sẽ giúp ông làm việc đó. - Anh tới gặp hạ sĩ Fenton lấy mẫu đơn và điền vào. Rồi đem lên đây cho tôi ký đã.

- Xin cám ơn đại tá. - Flores đi ra.

- Này, nó có chuyện gì vậy? - Đại tá hỏi Jones.

- Thưa đại tá, tôi không rõ.

- Ê, đừng dại chơi trò đó với tôi. Trung sĩ Jones, lại đây. - Jones bước tới trước bàn đại tá Jack, - Tôi không muốn mất một anh em nào ở đây cả, hiểu không?

- Thưa, con gái ông ấy bỏ nhà đi ba tuần nay rồi.

- Bây giờ nó ở đâu?

- Ông ta không tìm được nó.

- Anh bảo hắn tôi cần gặp. Nhanh!

- Xin đại tá đừng cho ông ta biết là tôi nói...

- Sao lại không? Mặc tôi.

Lúc hai người bước lại vào văn phòng và Jones, nhân đứng khuất mắt vị đại tá, đã làm một cử chỉ xin lỗi với Cesario trước khi bỏ đi.

- Thượng sĩ, Jack vừa cho tôi biết là con gái lớn của anh bỏ nhà đi.

- Thưa đại tá, vâng. - Flores cúi thấp đầu.

- Ờ, chuyện đó... xảy ra với nhiều người chứ đâu riêng gì anh! Flores, tôi đang nói chuyện với anh đây!

- Thưa đại tá, tôi muốn đổi đi nơi khác.

- Thượng sĩ Flores, nếu có vấn đề khó giải quyết, Không Quân sẵn sàng giúp đỡ anh.

- Thưa đại tá, vâng.

- Nếu tôi xen vào việc riêng của anh, là vì tôi coi trọng anh, và không muốn mất anh, anh hiểu không?

- Thưa đại tá, tôi hiểu.

- Nếu vậy, anh trả lời câu hỏi của tôi đây. Nếu nó bỏ nhà đi, thì tại sao anh lại xin thuyên chuyển đến Tây Ban Nha?

- Tôi muốn đưa nó đi khỏi chỗ này.

- Ở đâu cũng có con trai cả. Vậy là chuyện gì?

- Thưa, việc này không thuộc quyền của đại tá.

- Flores, tôi hỏi anh như một người bạn.

- Thưa tôi nghĩ rằng nó... hít... chắc đại tá hiểu?

- Thì ba phần tư bọn học trò dưới kia đều hít...

- Nhưng nó là con gái tôi. - Đoạn Flores quay sang phía Jones, lúc đó đã vào ngồi sau bàn làm việc. - Này, anh cười gì vậy?

- Hắn chỉ mỉm cười thông cảm với hoàn cảnh của anh. Cesario, anh làm sao vậy? Hắn muốn giúp anh.

- Đây là việc riêng của tôi.

- Cesario, tôi muốn được nghe mọi việc xảy ra.

- Một buổi sáng, cả nhà tôi thức dậy thì không thấy nó trên giường.

- Làm sao anh biết nó hít?

- Tôi có nói chuyện với vài ba đứa, bọn sinh viên sinh viếc gì đó. Thưa đại tá, tôi làm phiền đại tá quá nhiều. Đáng lý tôi phải có bổn phận ổn định gia đình.

- Flores, tôi sẽ nhờ phòng tình báo của căn cứ tìm con gái giúp anh. Tôi sẽ...

- Mong đại tá không làm vậy. Tôi sẽ tự tìm nó.

Ông cúi thấp đầu, thở một cách khó khăn. Dưới mắt Dowd, ông ta có vẻ nặng nề hơn lên, và thẹn thùng, xấu hổ hết cỡ, và giọng thật nhỏ:

- Tôi sẽ đưa lên cho đại tá ký. - Rồi bỏ di.

Đại tá càu nhàu:

- Tôi không muốn mất người này. Có thể tìm đâu ra một chuyên viên bảo trì giỏi như hắn?

- Đại tá không mất hắn đâu.

- Gọi sĩ quan tình báo lên đây.

Hai mươi đêm đã trôi qua, kể từ hôm Juana bỏ nhà đi, Cesario chưa đêm nào ngon giấc. Đêm nay, không cần để đồng hồ báo thức, ông dậy lúc hai giờ kém mười lái xe ra khỏi căn cứ.

Ông dừng lại ở quán Bennie. Chủ quán biết vài ba chỗ tụ họp của bọn trẻ, gợi ý cho Cesario nên tìm những nơi nào, nhưng không tin ông sẽ có kết quả gì,

- Chúng nó như thú rừng, ngày ngủ, đêm mới sinh hoạt, có khi chỉ ở đây vài hôm, rồi biến sang Tuscon, hay Nogales, chặng đầu của đường dây buôn cần sa vào đây, hay đến Los Angeles để lấy bạch phiến. Bây giờ đang mùa hè, nên tôi đoán chừng chúng sang bên kia đèo Pathes Felipe, ở đó có vài chỗ trong sa mạc chúng thích ở lại. Chúng sống giữa trời, như thú vật. Không có cách gì tìm ra chúng, chỉ nên chờ đợi và hy vọng.

Bennie hứa sẽ giới thiệu ông với một người bạn gốc Ý của mình hy vọng hắn giúp được gì.

- Gia đình đó không ưa bọn xì ke ma túy. Họ sợ mang tiếng,

Mãi không thấy gã người gốc Ý đến, Bennie hứa:

- Sợ hắn nghi anh là nhân viên bài trừ ma túy. Tôi sẽ nói chuyện với hắn. Vậy nhé. Tôi đóng cửa quán đây.

- Tôi ở lại đây một lúc, ngồi trong xe.

Bennie đưa cho ông ly cà phê, rót từ đáy bình nên rất đặc. Cesario ngồi uống chừng mười lăm, hai mươi phút. Rồi ông lặng lẽ lái xe qua những đường phố vắng, nhằm hướng đèo Father Felipe, cách thành phố năm dặm về phía bắc. Mặt trời bắt đầu lên, từ sau dãy núi.

Cesario về nhà thì trời đã sáng hắn.

Một lá thư của Juana chờ ông ở nhà, chỉ vài dòng, rằng nàng khỏe, đang sống với một người bạn, và có thể viết thư cho nàng, nếu ông muốn. Nàng cho biết địa chỉ cô bạn gái ở chung, xin lỗi đã làm gia đình buồn phiền, nhưng nàng muốn tìm lối sống riêng của mình.

Vừa cạo râu, ông vừa nhìn địa chỉ trên phong bì:

- Đó là nơi nào vậy?

- Khu nam thành phố. Nơi sinh sống của những con điếm gốc Mehico. - Bà vợ đáp.

- Chữ nó viết đẹp đó chứ?

Cạo râu xong, Cesario vào phòng ngủ bận chiếc áo dài của dân Mehico, rồi soi gương, Elsa mỉa mai:

- Anh muốn làm mọi da đỏ à? - Cesario lặng thinh, chải đầu cẩn thận. - Này, anh có biết nếu ba em ở vào trường hợp này ông sẽ làm gì không. Còn anh?

- Tôi làm theo cách của tôi. - Ông đi ra cổng.

- Cách của anh? Con nhỏ Elizabeth đã lây cách của anh rồi đó. Nó đòi nghỉ học! - Cesario gật đầu. - Anh gật đầu cái gì? Này, bỏ học là bước thứ nhất của chúng.

Trung sĩ Jones và vợ ngồi trước cổng. Flores nhắc.

- Này, họ đang nhìn chúng mình đó.

- Họ cần gì phải nhìn. Họ cười anh đó.

Ông lên xe, quay lại dặn vợ:

- Gọi điện thoại đến sơ nói sáng nay anh tới trễ.

- Anh có biết là cả căn cứ đang cười anh, chứ đâu riêng gì Jones. Cả căn cứ, nhớ không?

- Tôi biết thừa.

Trên kính trước, treo lủng lẳng hai chiếc giầy trẻ con tí hon màu trắng, một địa bàn tháo từ chiếc máy bay phế thải, và bức ảnh Đức Mẹ.

Ông khó khăn lắm, và mãi đến trưa, mới tìm được địa chỉ. Trước cửa nhà, một gã béo mập, mặt đỏ gấc, với những nét của dân gốc Ý, đang ngồi. Gã chính là chủ nhà. Trên bãi cỏ chồng chất những đồ đạc. Trong nhà, thợ sơn đang làm việc. Một xe chở rác vừa chạy tới.

Một cảnh sát đứng gác nói:

- Bọn chúng thiếu hai tháng tiền nhà. Rồi chúng bỏ đồ đạc lại, chuồn mất. Nhìn thử cái chơi. Tôi chưa bao giờ được thấy cái cảnh kỳ cục như vậy.

Dưới ánh nắng chói, trông những vật đó thật bệ rạc. Có chiếc bàn ba chân, tấm nệm lớn một góc bị cháy xém, hàng đống lon bia rỗng, những gói đồ khô ăn dở, những mẩu pho mát đã lên rêu, những tạp chí thể thao, một cuốn Sưu tập chuyện lạ thế giới rách bìa. Đàn ruồi bu lại trên đống vải có vẻ là những chiếc tã trẻ con.

- Chúng nó dọn đi đâu vậy? - Cesario hỏi:

- Ai mà biết được? Trong thành phố, thiếu gì chỗ thế này. Đã tìm thấy cả cần sa, lọ ma túy rỗng. Chúng nó không những hít mà còn buôn. - Viên cảnh sát đáp.

- Vậy sao các ông không có biện pháp gì?

Người chủ nhà nghe được câu chuyện, chen vào:

- Chúng nó phá hoại căn nhà của tôi! Bắt buộc phải sơn quét lại hết. Những con mèo chết dưới gầm giường. Hôi thối kinh khủng. Buôn thuốc phiện lậu. Tại sao mấy thầy không tống cổ chúng nó ra khỏi thành phố giùm một chút? Cảnh sát? Đồ ăn hại!

Người cảnh sát không có vẻ giận khi bị chửi.

- Mấy bạn tôi tháng trước bắt được một tên. Phòng trọ của chúng còn tệ hơn đây nhiều. Hắn lại là con trai ông Nghị sĩ! Chẳng ai dám lãnh những chuyện phiền phức đó vào mình. Chúng nó đều là sinh viên đại học và chúng đem thuốc vào lớp bán. Có giáo sư không hiểu tại sao lớp học của ông mỗi ngày lại đông học trò, té ra...

Người cảnh sát chợt, nhận ra Cesario không buồn nghe bèn nhìn ông, tò mò.

- Ông tìm ai sao?

- Không, tìm ai đâu.

Hôm sau là thứ bảy, Cesario ở nhà. ông không nói gì với bất cứ ai, và không cử động - ngoại trừ một lần. Elsa nói một lời ông không thích, bèn cho bà cái tát. Rồi cả nhà không ai dám chạm đến ông. Ông bỏ bữa tối, không nấu thức ăn cho vợ con.

Sáng chủ nhật, ông dậy trước cả mặt trời, pha cà phê. Ngồi trong bếp, ông chậm rãi uống hết bình cà phê đựng sáu ly. Sau đó, ông cạo râu cẩn thận, bận quân phục diễu hành, và khi mặt trời vừa nhú, ông ra cổng, ngồi im lặng trên ghế, như kẻ sắp vĩnh biệt đê đi xa.

Lúc thức dậy, Elsa nhìn thấy cảnh đó. hỏi:

- Anh đi đâu vậy?

- Nhà thờ.

- Làm gì có lễ lúc sáu giờ sáng? Này, anh nhìn mắt em coi! Bây giờ trông đẹp chưa?

Ông không nhìn lại.

Elsa đánh thức hai con dậy, lấy quần áo đẹp nhất cho chúng mặc. Những ai thấy thượng sĩ Flores và gia đình bước vào nhà thờ sáng hôm đó đều tỏ ra nể trọng họ. Tấm mạng mỏng che vết sưng trên mắt Elsa.

Lúc đến bàn quì, Elsa để ý thấy Cesario không làm dấu thánh giá như mọi ngày. Bài thánh ca đầu tiên là:

Xin Chúa hãy cứu linh hồn con

Và ban cho con sức mạnh

Dân Chúa nguyện cầu Chúa đoái thương

Và ban cho sự sống đời đời

Giữa những khoảng ngắt nghỉ, Elsa nghe chồng lẩm bẩm gì đó. Hình như ông nói tiếng Tây Ban Nha, hay tiếng dân bản địa Mehico gì đó, bà không chắc.

Cesario như kẻ mộng du hay xuất thần gì đó. Những người ngồi quanh bắt đầu chú ý. Elsa với tay qua cô bé Elizabeth lay vai chồng, khẽ nhắc. “Xxxxì...”

- Anh xin lỗi.

Ông đứng lên, đi qua cô bé Elizabeth, qua Elsa, qua lối đi giữa hai hàng ghế. Lúc đó, dàn đồng ca nhà thờ đang hát:

Một đám nhân chứng đứng vây quanh.

Theo dõi các việc làm của bạn

Hãy quên đi những bước đã qua

Và tiến thêm những bước mới

Đến cửa, Cesario chợt thấy tay vẫn cầm cuốn sách lễ. Ông đặt nó lên hộp tiền nơi cửa, rồi ra khỏi nhà thờ.

Ông lên xe và lái về hướng nam, qua bãi để máy bay phế thải, qua xóm nhà nghèo nàn dành riêng cho dân bản địa phía bên kia hàng rào. Ông chạy thật chậm, dừng lại thật lâu ở những ngã tư. Ông muốn có thêm thì giờ suy nghĩ.

Hôm nay ông không cần tôn giáo, mà cần phép lạ.

Khu phố Chicano của đám dân gốc Mehico nằm vể phía nam. Trong khung cảnh này, cái khung cảnh thời thơ ấu của ông, Cesario thấy như về với quê hương. Mặc dầu mới chỉ đến đây một lần ông cũng dễ dàng tìm được nơi muốn tìm.

Ngôi thánh đường cổ, ngoài một khung đặt tượng nhỏ và một bàn thờ, hoàn toàn trống trải. Và cũng chẳng thấy ai ngoài hai bà già mặc đồ đen đến đây tưởng niệm những kẻ quá cố. Cesario bước chậm rãi về phía khung để tượng Đức Mẹ, quì xuống, và bằng thứ tiếng Tây Ban Nha của vùng Sonora, ông khấn nguyện,

Ông khấn với Đức Mẹ rằng; nếu Đức Mẹ giúp ông trong cơn nguy khốn này, và ông biết Đức Mẹ sẽ giúp, nếu Đức Mẹ dẫn ông đến nơi con gái lớn của ông đang ở, và ông biết Đức Mẹ đủ quyền năng để làm việc đó, và nếu Đức Mẹ thương xót ông, cầu xin với Chúa, dùng quyền uy của Đức Mẹ để giúp đỡ ông đưa con gái trở về với gia đình, thì ông sẽ đền ơn Mẹ bằng một cách chứng minh đức tin của ông khiến tất cả những ai nhìn thấy, hay nghe nói đến đều phải kinh ngạc, nghĩa là ông sẽ quỳ gối rồi lết bằng hai đầu gối từ căn cứ, qua khu phố nghèo, đến tận dưới chân tượng Đức Mẹ, nơi ông đang quỳ đây. Đó là cách ông tạ ơn Đức Mẹ, và tuyên dương lòng tin mới tìm lại được của ông.

Lúc ông về đến nhà thì đại tá Dowd đang chờ trước cửa. Đây là một vinh dự cho ông và gia đình.

Đại tá Dowd đã quyết định kể ra mọi chuyện với người trưởng ban bảo trì của ông, nghĩ rằng nếu một vấn đề được giải quyết sớm bao giờ cũng bớt khó khăn hơn. Khi không gặp Cesario ở nhà, ông đã tính về, khi nhớ lại những mô tả của trung sĩ Jones về bà vợ hàng xóm. Nhưng Elsa khẩn khoản mời ông dùng cà phê, dẫn con vẫn mặc quần áo đẹp ra chào, cả bé Diego nữa.

Cậu bé đưa tay chào, như ba cậu đã dạy, cả nhà đứng trước mặt ông, người bưng cà phê, kẻ bưng đường, bưng bánh, với một vẻ săn đón mà ông không tìm được trong gia đình mình. Bà Flores thành khẩn:

- Cesario là người rất tốt. Một tâm hồn lớn. Lúc tôi mới gặp thì trông ông ta hơi man dại một chút. Nhưng chúng tôi đã sửa chữa dần, đã chế ngự được. Bây giờ thì tôi hơi lo. Chỉ một người là có thể... - Bà nhìn đại tá Dowd với vẻ bối rối. - Anh ấy kính phục đại tá vô cùng!

- Tôi nghĩ có thể giúp ông ấy được...

Cesario cùng đại tá dạo bộ một quãng. Lúc lên xe, hai người nhìn thấy Jones đứng trước cửa nhà. Trong cổng ngôi nhà bên cạnh, cả vợ chồng lẫn bà mẹ vợ đều thắc mắc không biết vì sao mà Chỉ huy trưởng căn cứ lại đến đây, và không hiểu ông ta nói chuyện gì.

Đại tá Dowd nhận xét:

- Dân chúng cả cư xá Winson sẽ có cái để bàn tán trong bữa ăn chiều chủ nhật này. À, anh đi đâu về vậy?

- Nhà thờ.

- Tôi không đi lễ. Dành chuyện đó cho vợ tôi.

- Thưa đại tá, vâng.

- Đôi lúc, sáng chủ nhật, tôi đọc những cuốn sách ưa thích. Sáng nay tôi đọc lại một tác phẩm của Jack London, và nó làm cho tôi nhớ đến anh.

- Cám ơn đại tá. Thưa, Jack London là ai, đại tá?

- Tôi không nghĩ lớp trẻ bầy giờ thích ông nhà văn này. Dân Nga thì rất ưa ông ta. Cũng dễ hiểu, vì họ là một dân tộc thực tế, Jack London nhìn vào xã hội loài sói. và nhờ đó mà hiểu xã hội loài người,

- Ý kiến có vẻ hay.

- Ông ta đưa ra cái tư tưởng này. Đời sống con người có khi lên cao, có khi xuống thấp, và nếu bạn không biết tự vệ, dù bạn là người hay là một quốc gia đi nữa. thì rồi một ngày bạn sẽ nhận ra mình xuống thấp hơn là mình muốn. Bạn phải biết bảo vệ những gì của mình. Loài sói làm việc đó bằng nanh vuốt của chúng. Người và sói giống nhau ở cái nguyên tắc: nếu bạn không làm gì để giữ gìn thì kẻ thù của bạn chắc chắn sẽ giật nó khỏi tay bạn,

- Tôi không hiểu những gì đại tá nói.

- London còn mô tả những con sói đực trẻ trung sống ngoài đàn sói. Thỉnh thoảng chúng nhào vào đàn và lôi một con đi.

- Một con gì?

- Một con sói cái. Tôi ám chỉ đến con gái anh, song không có ý châm biếm nào cả,

- Tôi hiểu mà.

- Này, anh có thấy bạn anh là Jack Jones đứng trước cửa, và cả những người khác trong cư xá không?

- Kệ xác chúng nó. Xin lỗi đại tá,

- Họ đang phán đoán anh đó. Sự thật là, dù nền văn minh làm mọi cách để che đậy chuyện đó. thì mọi người cũng vẫn bị phán xét thường xuyên, Những người Mehico đã xây dựng cả một nền văn hóa trên một định đề căn bản, cho rằng mỗi người tùy thuộc vào khả năng tình dục của họ. Đúng vậy không?

- Cesario cười lớn.

- Đại tá đã hiểu rất đúng.

Đại tá Dowd lấy từ túi quần ra một mảnh giấy gấp nhỏ, được giữ lại bằng mảnh băng keo trong suốt.

- Đây là lần đầu tiên Phòng Nhì của tôi làm việc có vẻ khá. Con gái anh đang ở đây này. - Cesario cầm lấy mẩu giấy. - Theo tôi nghĩ, anh quá dè dặt. Mọi người trong căn cứ đều nghĩ vậy.

Họ dừng lại bên chiếc xe. Dowd chìa tay ra, nói:

- Này, anh biết không, tôi mến vợ anh. Và mấy đứa con anh nữa. - ông lái xe đi.

Cesario mở tờ giấy. Ngôi nhà ở đường Nữ Vương.

♣ ♣ ♣

Cesario có bức hình mà ông ưa thích nhất, hình chụp ông ở thủ đô Panama, hai mươi sáu năm trước, do nhiếp ảnh gia của Bộ Tư lệnh. Bức hình đã lên trang nhất tờ nhật báo của căn cứ, cho người ta thấy kẻ chiến thắng trong trận so tài đêm đó, một đêm thứ sáu, không phải trên, mà là ngoài vũ đài. Trong bức hình, kẻ chiến thắng đang được bốn quân cảnh giữ chặt hai tay, khuôn mặt có một lỗ hổng lớn, là miệng hắn đang cười gằn, và từ đó, dòng máu đặc chảy xuống như xốt cà chua. Cesario đã chiến thắng trong trận so tài, cùng như ông đã chiến thắng trong tất cả những dịp khác, bằng cách chịu đựng tất cả những ngón đòn của đối thủ trong năm sáu hiệp đầu, cho đến lúc đối thủ tưởng chỉ cần đưa ra một quả đấm thi ân là hạ ông đo ván.

Đó là điều ông lấy làm hãnh diện nhất hồi đó, cái tài chịu đòn của mình. Lúc đối thủ đã trở nên kiệt sức vì ra đòn, không nhấc tay nổi nữa thì Cesario mới bắt đầu đánh trả. Và gã kia đã ăn đòn nhừ tử, như chưa từng ăn đòn bao giờ, lảo đảo như người say, và nhận lại gấp mấy lần số vốn hắn xuất ra trước đó ít phút. Bạn bè, cùng đứa em song sinh của gã từng hò reo khích lệ, chỉ cho gã đánh phải thế này thế kia thì nay chính gã phải chịu những cú đánh đúng thế kia thế này.

Thực ra, tình cảm của những người vây quanh võ đài trận này không phải do vấn đề chủng tộc xui khiến, mà chỉ là vì số khán giả này đã quá tin tưởng vào tên “Loco,” đối thủ của Cesario và cá vào gã những số tiền đáng kể, giờ thì đang chứng kiến tiền của họ “ra đi.”

Cesario khoái nhất hiệp cuối, khi đã làm đối thủ loạng choạng nghiêng bên này ngả bên kia tùy theo ý ông muốn, một mắt gã sưng và híp lại, mắt kia chỉ còn hấp háy. Mỗi lần đối thủ sắp đo ván Cesano lại nhẹ tay đòn, chờ hắn tỉnh táo lại đôi chút để có thể tiếp tục trừng trị. Màn kết trận đấu thật tuyệt hảo, và bây giờ, khi đang lái xe đến đường Nữ Vương, ông nhớ lại thật rõ ràng. Khi hồi chuông cuối reo lên, “Loco” ngã sấp xuống và xỉu luôn. Lập tức, những kẻ ủng hộ gã nhào lên võ đài định trả thù cho gà của mình, nhưng họ cũng chẳng cần nhọc công đến thế, vì Cesario đã xông tới...

Phải đến bốn quân cảnh mới vãn hồi được trật tự. Lúc họ lôi chàng ra, cũng là lúc bức hình được chụp.

Khi đi tới đường Nữ Vương, Cesario mong có dịp tái diễn trận đánh lộn đó, mình ông chống cả đám khốn kiếp mà ông đã thấy chúng vây quanh Juana đêm nào.

Ngôi nhà một tầng, với nhiều cửa sổ mở ra bãi cỏ, và những hàng cây cảnh, trông cũng không tệ lắm.

Ông gõ vào cánh cửa. Không ai trả lời. Ông đập mạnh rồi nghe có tiếng nhạc bên trong, nhưng vẫn không ai ra mở. ông thử vặn nắm đấm. Không khóa. Ông kéo hé ra chút, gọi vào trong. “Có ai ở nhà không?”

Điệu nhạc vang vang, loại nhạc Juana ưa thích.

Rồi cũng có người đi ra. Cánh cửa mở rộng thêm, một nhóc chưa quá mười lăm nhìn ông và bộ quân phục của ông, như dò xét. Cesario nói:

- Tôi tìm cô Juana.

- Michael, có người tìm Juana. - Nó gọi vọng vào.

Bên trong có tiếng đáp song Cesario không nghe rõ. Cậu bé nói:

- Cô ấy không có đây.

- Chắc vậy không?

Cậu bé lại gọi vào trong:

- Ông ta muốn biết có chắc vậy không?

Hắn lại nghe tiếng trả lời gì đó, quay lại nói với Cesario. “Chắc chắn!” Rồi đóng cửa lại.

Cesario không đến đây để nhận những câu trả lời ấm ớ như vậy, ông bước vào trong.

Căn nhà tối om. Ánh sáng duy nhất là từ khuôn mặt cô đào xinê Joan Crawford trên TV toát ra. Cesario nhìn thấy Garfield và Crawford mấp máy môi, nhưng âm thanh mà ông nghe được lại là nhạc rock. Lúc cuốn phim đến đoạn chuyển từ cảnh đêm sang cảnh bình minh, Cesario nhìn thấy hai người, một cô gái nằm trên nền nhà, không nhìn lên truyền hình, những nút quần trên cùng mở ra, và lưng quần được buộc bằng một sợi dây vải. Có thai?

Kẻ thứ hai là một gã trai gần hai mươi tuổi, nằm trên chiếc ghế dài, cởi trần, người gầy gò đến nỗi từng chiếc xương sườn lòi hẳn lên. Gã mỉm cười với Cesario, một nụ cười dễ thương chào mời, rồi quay lại xem TV.

Cả hai đang hút chung điếu thuốc quấn tay, và Cesario biết đó là loại thuốc gì. Gã trai hít một hơi, chuyển cho cô gái nằm dưới chân. Cô ta hít một hơi rồi trả lại gã. Việc trao đổi chậm chạp, lặng lẽ, thành thạo.

Điệu nhạc lên đến cao trào, dồn dập, rồi đứt. Gã trai gầy gò lại nhìn lên và mỉm cười với Cesario. Cái vẻ chào mời của gã có gì đó làm ông mất tự nhiên.

Chẳng còn ai khác. Chú nhóc ra mở cửa cũng biến đâu mất, Cesario nói. “Tôi là cha Juana.”

Cô gái ngẩng nhìn, rồi lại ngả đầu xuống nền nhà. Cesario lặp lại. “Tôi là cha Juana. Nó đâu rồi?”

- Ngoài sa mạc.

Gã trai đáp. Trên TV, Garfield bắt đầu chơi vĩ cầm, nhưng âm thanh mà họ nghe được lại là tiếng hát của Jim Morrison. Gã trai gầy gò gật đầu theo điệu nhạc.

- Ở đâu vậy? Anh có thể cho tôi biết? - Cesario hỏi.

- Dĩ nhiên. Song hơi khó chỉ. Một vùng đồi núi phía sau nhà dòng Thánh Issacio, ông biết chỗ đó không? Gần cuối khu dành riêng cho dân da đỏ đó mà. Ông có biết đèo Father Felipe ở đâu không?

- Biết. Gần đây.

- Phía sau một chút, nhưng không nằm bên đường đâu. - Cesario cho rằng gã cố tình nói mập mờ. Song gã lại nói tiếp. - Chúng tôi sắp đến đó. Nếu muốn, ông có thể đi theo.

Vẻ mặt gã có cái gì khiến cơn giận dữ của Cesario dịu xuống. Gã mỉm cười với ông, không có gì là mỉa mai cả. Đôi kính cận gọng kim khí càng làm cho gã có cái vẻ ngây thơ và đáng tin. Cesano hỏi:

- Bao giờ anh đi?

- Do con nhỏ này. Tôi muốn nó đi theo, và nó đang đắn đo. – Gã chỉ vào cô gái. Tay gã cầm chiếc ống píp bằng đồng, gã nhét những vụn thuốc vào, bật lửa, hít hai hơi, rồi đưa mời Cesario. - Thử coi.

- Tôi tưởng Juana ở đây? - Cesario từ chối hút thử.

- Nó ở đây. Nhưng đôi khi nó đi ra ngoài đó.

- Thằng bạn trai của nó đâu?

- Vinnie? Hắn phải đi San Francisco. Vì vậy khi có mấy đứa quyết định ra sa mạc, Juana bèn đi theo.

- Lúc ở đây, thì nó ở phòng nào?

- Ông muốn xem không?

- Tiện không?

Theo tôi, - Gã đứng lên. - ông thực sự không muốn thử thứ này à? - Gã lại mời. - Khá lắm. Thử đi.

- Không. Cám ơn. Dù sao cũng cám ơn anh.

Cesario theo gã đi qua hành lang đến cuối ngôi nhà. Một người đàn ông trần truồng từ đằng kia đi lại. Hắn nhìn Cesario với vẻ thản nhiên, bước đến chiếc tủ lạnh, mở ra, và than phiền:

- Michael, không còn hộp bia nào sao?

- Vừa cạn.

Đoạn gã bấm nhẹ vào cùi chỏ Cesario, kéo ông tới chỗ hai căn phòng đối diện nhau qua hành lang. Trong một căn, chú nhóc ra mở cửa cho Cesario đang bận rộn gì đó. Michael chỉ vào phòng đối diện.

Cả căn phòng được choán hết bởi hai tấm nệm dầy trải lên nền, chẳng tấm nào có ga phủ. Vo thành đống ở đầu nệm là chiếc áo khoác vải sọc mà Cesario thấy lần đầu tiên trong một hiệu buôn đã mua về tặng Juana.

Ông nhìn sang chiếc nệm kề bên. Ai đó đang ngủ, chẳng rõ trai hay gái, vì chăn trùm kín. Gã trai hỏi bia trở lại, lật chăn lên, nằm xuống cạnh người đang ngủ.

Cesario quay nhìn Michael nhưng không thấy gã đâu nữa. Những người nằm trong chăn trở mình, cong lại như con tôm, rồi im lìm, Ông trở ra ngoài.

Mắt ông bây giờ đã quen với thứ ánh sáng mập mờ, nhận ra cậu bé ở phòng bên kia đang làm gì, Nó đang xé cọng những chiếc lá khô, rồi chồng những tầu lá lên nhau, cho vào con dao cắt. Cậu bé buôn cần sa mười lăm tuổi ngẩng nhìn ông, nhấc một chân lên, đạp cửa cho đóng sập lại. Ông về căn phòng lúc đầu.

Michael đang cười, cúi sát cô gái, thì thầm gì đó.

Cesario nghe cô gái nói:

- Được. Được rồi. Em không chiếm giữ hắn ta đâu.

Michael đứng lên. “Ông Flores, chúng ta đi.”

Cô gái đóng lại chiếc túi bằng da có vẻ như tự may:

- Em để cái này lại đây.

- Hai người đi bằng gì? - Cesario hỏi:

Michael như không nghe thấy, vẫn nói với cô gái,

- Ra ngoài đó, em không cần thứ này. – Gã khoác lên thân hình trơ xương chiếc sơ mi trắng, rồi trả lời Cesario, - Chúng tôi xin quá giang. Chờ một lúc là có.

- Tôi có xe ngoài kia.

- Vậy chúng ta có thể mang theo vài thứ. – Michael mỉm cười, quay sang cô gái. - Em còn tiền không?

Cô gái lắc đầu. Michael gật gù, làm như đó là điều mà gã đã biết trước, rồi nói với Cesario:

- Đây là Rosalie. Trước nó cặp với thằng Vinnie, khi chưa có Juana.

Lúc rời khỏi thành phố, Cesario dừng lại trước một siêu thị, hỏi Michael:

- Ngoài đó có bao nhiêu người?

- Tôi không biết, cần nhiều bia, bánh mặn, bánh mì, pho mát, đại để vậy đó, cả nước ngọt nữa. – Nhìn cô gái nằm dài trên ghế sau, gã bảo. - Nó ngủ rồi.

- Đứa con trong bụng nó là của ai vậy?

- Tôi không hỏi, nhưng đoán là của Vinnie.

Sự kinh ngạc khiến Cesario nhớ đến mục đích của chuyến phiêu lưu hôm nay. Ông vừa thú vị vì những gì đang trải qua vừa hồi hộp, vừa nôn nóng.

Ông vào cửa hiệu, chờ đến lúc hoàn toàn bình tĩnh, mua đồ ăn đủ cho trên mười người, tự nhủ phải đóng vai trò thân thiện cho đến khi gặp được Juana.

Khi bước ra, mỗi tay ông ôm một túi giấy tổ bố, lại còn giữ trước ngực gói thứ ba, và ông thấy một cảnh sát đang cúi đầu vào xe, hỏi gì Michael. Gã nhìn người cảnh sát với vẻ mặt thật hiền lành. Cesario bước lại.

- Cám ơn hạ sĩ. Không có gì đâu.

Viên hạ sĩ cảnh sát đứng thẳng lên nhìn viên thượng sĩ không quân, rồi nhìn lại vào gã trai đang nhìn ông ta mỉm cười. Cesario chợt hiểu ra – lúc này ông đã trở lại với xã hội bình thường, – cái cảnh Michael ngồi ở băng trước một chiếc xe không quân, với mái tóc dài phủ chấm vai, gầy gò đến nỗi xương mặt như muốn đội lớp da trắng xanh lên, và bộ râu viền quanh chiếc miệng đang mở rộng để cười với cảnh sát, quả thật là một hình ảnh trái khoáy. Lần đầu tiên, Cesario nhìn thấy một viên ngọc thạch trên tai gã. Và gã nói.

- Ông ta muốn biết chiếc xe của ai? của ai vậy?

- Của không quân Hoa Kỳ. Tôi là thượng sĩ Flores. Có cần xem căn cước không?

Ông cảm thấy ngạc nhiên vì mình vừa tỏ thái độ che chở đối với Michael. Viên cảnh sát lắc đầu. “Khỏi.”

Lúc xe chạy, Cesario hỏi tiếp chuyện cô gái:

- Tên hắn là Vinnie? Hắn không biết cô gái đang mang thai con hắn ư?

Cesario nói như thì thầm, nhưng quả thực chẳng cần phải thế, vì Rosalie vẫn ngủ say cả lúc người cảnh sát đến xét hỏi.

- Không ai biết những gì Vinnie biết.

- Nếu biết, có thể hắn không bỏ rơi cô ta thế này.

- Thực ra hắn đâu muốn bỏ rơi. Này, ông biết con gái mình thuộc típ phụ nữ ưa tấn công không? Nó quyết định giành Vinnie khỏi... – Gã chỉ vào cô gái phía sau. - Và nó làm được. Rosalie nói với Vinnie lúc nào muốn đi thì cứ việc, nhưng trong lòng không khỏi không buồn phiền. Vì vậy nó không muốn trở lại nữa.

- Tôi không tin cái chuyện Juana ưa tấn công.

- Tùy ông. - Michael cười lớn.

- Nó chưa bao giờ gần gũi một người đàn ông nào.

- Được rồi. - Michael tiếp tục cười.

- Anh cười gì vậy?

- Nếu ông nói vậy thì chắc phải như vậy. Dù sao, tôi cũng không có ý nói xấu,

- Nó hoàn toàn chưa. Anh có tin tôi không?

- Nếu ông muốn tôi tin, thì dĩ nhiên là tôi tin.

Cesario sắp nôi sùng, nhưng dằn xuống được.

Chiếc xe đã qua những hàng phố cuối cùng, trước khi lên con dốc vào đèo Father Felipe. Cesario dừng xe trước một quán rượu, và bước vào. Michael can:

- Thứ đó không lợi lộc gì, nó chỉ làm ông thối ruột.

Cesario không đáp. Ông nghĩ, hắn vậy mà dám khuyên ai đó chừa rượu, trời đất! ông cảm thấy dễ chịu hơn khi cầm theo nguyên một chai lên xe.

♣ ♣ ♣

2

Cesario lái xe lên con đường dốc ngoăn ngoèo dẫn tới đỉnh đèo. Ông thay đổi đề tài, và Michael sẵn sàng nói về mình.

- Trước tôi theo ban hóa học, ông tin không? Đại học Pennsylvania. Tôi từng mơ ước trở thành kỹ nghệ gia khai thác rồi chế biến ra những hóa chất, hợp chất mới. Trong một thời gian, tôi học khá lắm. Luôn luôn hạng ưu. Nhưng rồi tôi hiểu ra hầu hết những hóa chất mà chúng ta chế tạo được đều dùng để giết chóc - giết côn trùng và người, hoặc đất đai, hoặc giết bất cứ thứ gì miễn là có lợi. Vì vậy có lúc tôi ngồi lặng đi suốt cả buổi học. Thiên hạ tưởng tôi mất trí, khùng điên. Có lúc tôi nói chuyện một mình. Bởi vì tôi t?