Chương 2 1-Trong không quân, kẻ bất mãn mang mặt nạ.
Sáng hôm sau, lúc đại tá Dowd xuống ăn sáng, Marian con gái ông, và Alan Kidd, con rể ông đã có mặt. Trung úy Kidd thuộc bộ tham mưu của ông Chánh án phòng Quân pháp, bộ phận luật pháp của căn cứ. Chàng mặc đồ chơi quần vợt.
Cái lối đại tá Dowd nhìn chàng trai làm cho bà Dowd thấy cần phải bênh vực con rể. Bà nói với chồng:
- Hôm nay chúng ta có bánh dâu, và em nhớ Alan rất thích...
Đại tá Dowd hỏi:
- Alan, sáng hôm nay anh chơi quần vợt à?
- Thưa ba, sáng nào con cũng tập. - Alan đang trét bơ lên miếng bánh, bỗng nhận thấy vẻ do dự của ông, liền làm một cử chỉ mòi mọc. - Ba ăn luôn đi.
- Anh đọc báo hôm nay chưa? - Đại tá hỏi:
- Con cố không đọc báo trước khi chơi. Bởi nó làm con không chú tâm đúng mức vào trái bóng. Con nghe nói vừa xảy ra vụ náo động gì đó trong căn cứ...
- Alan, con định đùa hay sao chứ?
Alan ngửa người ra thành ghế. Chàng thuộc mẫu người Mỹ gốc Anh, cao trên mét tám, nặng tám tư ký, hai lăm tuổi, một người thờ ơ, thụ động song không do công việc tạo ra mà do bản tính. Tóc chàng màu vàng, rẽ chính giữa, hai mái xõa xuống hai thái dương. Tổng thống William H. Taft đã từng để kiểu tóc này, cũng như Bộ trưởng Quốc phòng Henry L. Stimson vậy.
- Nghe nói anh có đến quân y viện căn cứ đêm qua. Ngay trước lúc tôi đến. - Đại tá Dowd nói.
- Vâng. Con nghe ồn ào, đi một vòng, có ghé qua đó.
- Và chính anh mang kem vào cho Flore?
- Thưa vâng. Hắn muốn ăn kem dâu dại. Hơi kỳ.
Đại tá nhìn đồng hồ. Alan đổ cà phê vào tách:
- Sáng nay chắc con chỉ kịp chơi vài hiệp.
Vị đại tá bỏ qua, chịu thua, ông quay sang vợ:
- Tôi đã nói với bà là đừng cho tôi ăn tôm hùm Mehico đông lạnh, tối hôm qua!
- Đâu phải tôm hùm Mehico, và cũng không hề đông lạnh nữa.
- Đó là tôm hùm Mehico, và nó đang đóng băng lại trong bụng tôi đây.
- Ba nói đúng đó, mẹ. Loại tôm này khác một chút là đuôi xòe rộng. - Vuốt ve cha vợ xong, chàng quay sang mẹ vợ, tán thưởng. - Nhưng nó ngon tuyệt. - Rồi lại quay sang đại tá. - Ba nên uống một liều an thần. Sáng nay ba có vẻ mệt mỏi.
Người nấu bếp chưa nghe lời phê về món tôm hùm, bưng bánh lên đặt xuống trước mặt đại tá. Ông nói:
- Mary, hôm nay tôi không ăn bánh, cho tôi ly cà chua ép là được.
- Ba để con ăn thay cho. - Alan nói.
- Hả, làm sao con có thể chơi quần vợt với sáu chiếc bánh dâu trong bụng?
- Anh ấy vẫn chơi tốt, ba. - Marian bênh chồng.
Nàng đang đọc báo, đọc tất cả các mục. Alan nói:
- Con chẳng bao giờ bị rắc rối vì cái bụng no cả. Đó là biệt tài của con.
Sau khi trét kem vào các cạnh của miếng bánh, chàng lấy lọ mật ong. Đây là thứ mật ong hiệu Heidi Heather, món ưa thích nhất của vị chỉ huy trưởng căn cứ, do người anh trong Ngân hàng Hoa Kỳ ở Hà Lan gửi tặng. Alan cho thìa vào hai lần, cạo đến tận đáy lọ.
- Quá nhiều mật của cây trường khế. - Đại tá Dowd nhận xét. Ông còn biết đây là loại cây có nhựa ngọt, cô được thành mật hay đường, mọc nhiều ở Canada, và lá của nó được chọn làm biểu hiện của quốc gia này.
- Thưa đại tá, loại mật trường khế hiệu Dũng sĩ Thanh Sơn của ngài, do áp lực của chính phủ Liên bang, đã phải xác nhận một cách kín đáo rằng mật của họ gồm phần lớn các hóa chất, đường, màu, và hương vị. Lúc nào rảnh rỗi, đại tá thử đọc nhãn dán ngoài. Sẽ rất ích lợi.
- Đại tá phì cười, ông thấy khoái Alan. Những hôm công việc rảnh rỗi, ông thường tìm chàng. Những nhận xét, bình phẩm của chàng thật thú vị, dễ thương. Và sau vài ly buổi tối, Alan chỉ cần một chút khuyến khích của Dowd để ngồi vào chiếc dương cầm, rồi bằng giọng cao và nhẹ của chàng, cất lên những bài hát xa xưa, như Xin hãy uống mừng ta thôi và Những hồi chuông xanh vùng Scotland mà ông ưa thích.
Những lúc đó, đại tá Dowd thấy thật gần gũi con rể. Ông đã sống đủ lâu trong khá nhiều giai tầng xã hội để có thể nhìn thấy tham vọng là động lực chính trong đời của ai đó. Thực ra, Dowd có đôi chút khuynh hướng hưởng lạc trong người, nhưng bây giờ đã chết vì không được chăm sóc, và vì những đòi hỏi gắt gao của nhiệm vụ. Song nó đã để lại một dòng kỷ niệm mong manh trong ký ức. Chẳng vì một lý do nào đáng kể, ông chợt nhớ đến nhưng lúc cảm thấy không hạnh phúc ông lại nhớ đến nàng, nhớ đến lớp lông mịn màng, thẳng và đen nơi bụng dưới nàng. Ông nhớ khi cùng nàng tắm nước nóng chung, và nhớ lối quan tâm của nàng, Em có làm anh thích không? mỗi khi làm tình với nhau. Ông quay nhìn vợ, Muriel và con gái, Marian, cả hai đều xinh đẹp, đều có những nét quí phái trên khuôn mặt. Cả hai đang nhìn ông, cố gắng đọc những ý nghĩ trong đầu ông.
Marian đặt tờ báo xuống.
- Con muốn nói chuyện với ba.
Alan ăn sạch những gi có trên đĩa chàng.
- Về chuyện gì? - Đại tá Dowd hỏi con gái.
- Về những gì ba đang suy nghĩ trong đầu.
- Trời đất! Làm sao con biết những gì trong đầu ba.
Bà bếp chạy vào. “Omaha gọi điện thoại đến.”
Đại tá đi lên cầu thang. Bà vợ nói với theo:
- Ông nên lấy lại hơi trước khi nói chuyện với họ. Rồi quay sang con gái, bà bảo:
- Marian, hãy để ba yên, hôm nay ba con đang bực.
- Mẹ, mẹ biết con đâu ở trong không quân, và con đâu có bổn phận phải hòa hợp thái độ của mình vào tâm trạng thất thường của ba.
Alan đứng lên. “Anh đi đây.”
Giọng Marian nửa nũng nịu nửa phiền trách:
- Alan, anh nên có mặt khi em nói chuyện với ba.
- Cám ơn mẹ về bữa sáng. Con ăn ngon miệng lắm.
Alan nói, lờ vợ đi, chào mẹ vợ rồi xách túi đựng vợt bước nhanh ra cửa.
- Alan, kìa anh! - Marian không buông.
Chàng quay lại, nhìn nàng:
- Em đến đây một chút. Mẹ bỏ qua cho con.
Marian bước lại gần chồng, như đứa bé sắp bị rầy la. Chàng nhìn vợ, mỉm nụ cười thiên thần của chàng, vừa trịch thượng, vừa che chở, rồi đột ngột vỗ nhẹ chiếc vợt lên tóc nàng, nói:
- Anh thực tình không muốn dính líu đến vụ này. Đừng để bản tính thờ ơ của anh làm phiền cả căn cứ. Hãy để cơ hội tạo danh vọng cho những ai ham hố nó.
Chàng nhìn nàng, tự gật đầu tán đồng thay cho nàng, rồi nghiêng một cách khả ái, như mọi hành động của chàng vẫn luôn khả ái, hôn nhẹ lên môi nàng, và nhảy ra ngoài, để nàng đứng lại với nỗi đắm say chồng.
Dù vậy, nàng vẫn chờ đợi ba nàng xuống.
Trong phòng ngủ, đại tá Dowd nằm trên giường, sẵn sàng đón nhận điều mà ông nghĩ sẽ là một cuộc đàm thoại lâu. Nhưng khi ông trình bày xong nội vụ cho thượng cấp, thì chỉ nghe mỗi một tiếng, “Trời đất!”
- Sao? - Đại tá hốt hoảng.
- Chúng tôi phải họp bàn kỹ về vụ này, rồi sẽ gọi cho anh sau. Đừng làm bất cứ việc gì cho đến khi chúng tôi gọi tối. Trong lúc chờ đợi, tôi muốn anh hãy nói vào máy ghi âm tự động đầu đường dây điện thoại này tất cả những gì xảy ra, và những biện pháp mà anh cho là nên có. Frank, gắng gọn gàng và đầy đủ. Bây giờ... khi nghe tín hiệu, anh sẽ nói nhé.
Bíp. Đại tá Dowd bắt đầu tóm tắt những chuyện xảy ra trong đêm, rồi đúc kết.
- Sẽ rất khó thắng vụ này. Nếu thượng sĩ Flores, nhờ sự giúp đỡ của chúng ta, được trắng án, thì chắc chắn sẽ tạo ra dư luận là không quân, hải quân và cả lục quân đang hưởng đặc quyền của xã hội này. Song, nếu chúng ta mặc cho thủ phạm bị trừng phạt – và xin nhấn mạnh đây là một vụ cố sát trong trường hợp quan trọng hạng nhất – thì chúng ta sẽ khiến cộng đồng nổi giận. Họ đều đã quá chán với bọn con nít đó, bọn híp pi, ý tôi là vậy. Chúng ta còn phải quan tâm đến một khía cạnh tế nhị khác nữa, nghiêm trọng hơn. Và đây chính là căn nguyên để tôi nói rằng chúng ta không thể thắng được, tức là, cách nào đi nữa, thì vẫn tạo ra cảm tưởng, là những nhân viên của chúng ta được huấn luyện kỹ lưỡng như thế chỉ để tự giải quyết lấy các vấn đề của họ bằng cách sử dụng súng ống trong khi đang cố gắng tạo ra hình ảnh binh chủng của chúng ta gồm toàn những công dân đàng hoàng, biết tôn trọng luật pháp, xin nhắc lại, những công dân, như những thường dân vậy. Thế đó, quí ngài đã thấy vấn đề phức tạp cỡ nào, đúng không? Tôi cần được chỉ thị, nhanh và rõ ràng. Tôi sẽ phải chịu áp lực của báo chí cũng như của dân chúng địa phương, và chắc chắn mỗi lúc một gia tăng. Xin hãy gọi lại sớm nhất, với một giải đáp rõ ràng. Xin chờ. Hết.
Dưới nhà, Muriel đã để sẵn bắp rang chờ ông. Chánh án trưởng phòng Quân pháp căn cứ, trung tá Earl McCord cũng đang chờ ông, cầm theo những tò báo phát hành sáng sớm. Dowd hỏi:
- Earl, khỏe không? Báo chí viết những gì vậy?
- Cám ơn, đại tá khỏe chứ? Không đến nỗi tệ lắm.
- Ông dùng cà phê? - Bà vợ đại tá hỏi.
- Vâng! - McCord gật đầu cám ơn, rồi nói, - Tôi nghĩ đại tá muốn bàn qua với tôi, trước khi đến văn phòng. Tôi muốn nói là sau khi đại tá đọc qua những câu này.
Mắt ông nhìn về phía vợ và con gái đại tá. Muriel đứng lên, nhìn về phía Marian:
- Thôi chết, tôi đang dở tay mấy việc.
- Con thì chẳng dở dang gì cả. - Marian nói.
McDord bắt dầu. “Tôi không có ý...”
Marian ngắt lời, nói với ông ta.
- Tôi biết ý ông là gì. Bây giờ, nếu ba để con nói ra điều con cần nói, và chú ý nghe một chút, thì ba sẽ khỏi bị con làm phiền nữa,
Dowd đang liếc qua những hàng tít của trang nhất, rồi lật sang trang thể thao.
- Ba, nghe con một chút đã nào.
- Marian, sáng nay ba có công việc quan trọng.
- Công việc quan trọng đó nằm trên trang thể thao?
Trung tá McCord cười để che đậy sự lúng túng. Ông sung sướng vì không gặp phải những người đàn bà kiểu này, đặc biệt cô con gái. McCord nói.
- Có lẽ tôi nên chờ dịp khác.
Ông nhìn thượng cấp, chờ chỉ thị. Marian nói:
- Mời chú ngồi xuống. Chuyện cháu sắp nói liên quan đến cả chú nữa. Ba!
- Marian, gì vậy con? - Dowd đặt báo xuống.
- Con muốn ba cho Alan một cơ hội trong vụ này. Con nghĩ ba đã hiểu lầm, – nàng nhìn McCord, – cả chú nữa, thưa chú, vì cái lối thờ ơ dễ dãi của anh ấy, và vì vậy ba đã không để ý Alan là kẻ đặc biệt...
- Marian, có bao giờ ba nói là chồng con kém thông minh không? - Đại tá nóng nảy ngắt lời.
- Ba, Alan chưa bao giờ có một cơ hội, ba đừng nhìn con kiểu đó. Chú McCord nữa. Con biết con hơi cá nhân, nhưng con là vợ anh ấy, - Nàng dừng lại một lúc để trân tĩnh. - Ba, con biết ba sẽ làm tất cả để thượng sĩ Flores được hưởng mọi sự che chở mà Không quân có thể có được, đối với ông ta...
- Không quân cho đến nay chưa biết... - Dowd nói.
- Ba khỏi cần chối. Vụ này rất quan trọng với Alan.
- Thôi được, Marian. khi khác chúng ta sẽ nói tiếp.
- Alan còn trong quân đội hai năm nữa. Con chắc ba cũng mong anh ấy xuất ngũ với một tiếng tăm, một vị thế nghề nghiệp nào đó. Ba nghe con thêm chút nào!
Trung tá McCord cầm lấy mũ. Marian quay sang:
- Trung tá McCord, chú luôn chỉ coi chồng cháu như một kẻ sành ăn chơi, trong lúc anh ấy thực sự có một đầu óc lỗi lạc và độc đáo hơn chú nhiều, nếu chú tha thứ cho cháu nói ra điều đó.
- Con cút khỏi đây, ngay lập tức! - Dowd giận dữ.
Nàng vẫn tiếp:
- Đây là lần đầu tiên con xin ba một điều, ba. Con biết mình đang làm trò cười, nhưng con bất cần...
- Ba hiểu tình yêu của con với chồng.
- Vụ này sẽ được lên trang nhất các báo, lên truyền hình nữa, và đây là một cơ hội cho Alan. Anh ấy quá tự ái để có thể xin xỏ gì, vì vậy con làm ơn xin ba, con đem lại cho ba cái cơ hội để làm một người cha tốt.
Sau khi Marian đi khỏi, Dowd quay sang McCorđ:
- Tại sao anh không ưa con rể tôi?
- Có gì đâu, cứ mỗi khi tôi trao cho nhiệm vụ gì thì anh ta nhận nó mà như thi ân cho tôi vậy. - Dowd mỉm cười. McCord tiếp. - Tuy nhiên, tôi thương con gái anh. Tôi khoái thấy một người đàn bà bênh vực, lo lắng cho chồng như vậy.
- Anh chưa trả lời câu hỏi của tôi. - Dowd nhắc.
- Ờ, ông muốn biết thật à? - Dowd gật đầu. - Anh ta không phải là một quân nhân.
- Nó mặc quân phục,
- Đi giầy thấp, kiểu môcatxanh, không buộc dây.
- Nhưng giầy màu đen. Điều đó còn nằm trong giới hạn quân kỷ. Anh nghĩ sao khi nói hắn không phải là quân nhân? Thế nào là một quân nhân?
- Đại tá, tôi lớn lên trong trại lính, và có thể cũng mù quáng như mọi quân nhân mãn đời khác. Trung úy Kidd sẽ hợp hơn khi là một nhà kinh doanh. Anh ta vui tính, khả ái, dễ kết thân với hạn bè, gọn gàng, sạch sẽ, đại lượng, hiểu biết, thông minh... tôi không bỏ sót điều gì chứ. Và thật bảnh trai nữa. Đúng như thế. Nhưng anh ta lấy quyền gì để có thái độ trịch thượng đó?
- Hắn là con một ông Chánh án nổi tiếng, Anh đã nghe tiếng Chánh án Nicolas Kidd chưa?
- Dĩ nhiên là tôi đã nghe.
- Và hắn xuất sắc từ trung học đến Luật khoa...
Chúng ta còn chuẩn bị đương đầu với một trận chiến tranh toàn diện nữa hay thôi? Ông có thể tưởng tượng một Không quân gồm toàn những tay chơi tenis? Một ngày nào đó, sẽ có người phải đứng lên, tin tưởng vào những lời hắn nói ra, và chết để bảo vệ lời nói đó. Trung úy Kidd đứng ngoài tất cả, hay là... tôi không hiểu chuyện gì cả. Ngài có hiểu nổi không?
♣ ♣ ♣
Muriel thấy con gái ngồi trước cửa sổ căn phòng con gái của nàng. Muriel là người đàn bà tế nhị, được huấn luyện để hòa hợp với tâm trạng buồn vui mỗi lúc của kẻ khác. Bà đến bên con gái, và cũng nhìn ra ngoài.
- Bỗng dưng Alan trở nên không có tham vọng gì nữa. Con không còn biết làm sao. - Marian nói.
- Bề ngoài thì nó đã có tất cả những gì nó muốn.
- Như thế thật nguy hiểm. Hai năm nữa, chuyện gì sẽ xảy ra sau khi anh ấy rời khỏi Không quân?
- Đàn ông mỗi thời kỳ mỗi khác. – Muriel trầm ngâm. - Lúc ba con từ Nhật về, họ tưởng ông sẽ không bao giờ còn cần đến mẹ nữa. Nhưng rồi...
- Con vẫn tự hỏi phải chăng đó là lỗi ở con? Anh ấy như chiếc xe đang lao về đích bỗng dưng mất tốc độ.
- Ờ, nó vẫn luôn luôn...
- Không. Alan trước đây không vậy. Mẹ này, anh ấy luôn đứng đầu ở trung học, lên đại học cũng luôn hạng ưu. Lắm lúc con cho là mình hiểu anh ấy, nhưng nếu nghĩ cho đúng, thì con lại là một phần của nguyên nhân. Giống như Alan đang chết lần mòn vì một chứng bệnh dịu dàng nào đó, thứ bệnh mà anh ấy muốn, bởi đột nhiên anh ấy quyết định bỏ rơi tất cả. Vì vậy con nghĩ là nếu ba...
- Con à, nó còn yêu con không, mẹ muốn nói về... tình dục?
- Không được như trước. Mẹ có thấy lúc Alan xuống lầu không – lơ đãng, chế nhạo một chút, tưởng như không ai đụng chạm đến được. Anh ấy làm tình với con mà tưởng như đang ban cho con ân huệ.
Marian mân mê gấu váy, quyết định sẽ khâu nó cao lên bốn phân. Muriel nói. “Để mẹ nói với ba con.”
Marian cúi xuống hôn mẹ.
♣ ♣ ♣
Dưới lầu, Dowd đang kể với McCord về cú phone từ Omaha. Ông kết luận.
- Ngay lúc này, không thể làm gì ngoài chờ đợi. Và cố tránh báo chí. Tôi đã ra lệnh cấm khách vào căn cứ. Làm cách nào bọn híppi đó vào cổng đêm qua được?
- Thượng sĩ Flores xin cho chúng vào.
- Có vẻ là hắn đang chờ chúng. Với một khẩu súng.
- Có vẻ vậy.
- Phán đoán của anh về vụ này?
- Tôi được huấn luyện suốt đời để làm một việc.
- Thi hành pháp luật?
- Trì hoãn pháp luật. Những điểm tế nhị, phức tạp trong vấn đề giao tế dân sự liên quan nhiều đến vụ này, theo tôi, nhưng nó không thuộc địa hạt của tôi.
- Còn trong địa hạt ông, việc trì hoãn pháp luật…?
- Chỉ một câu trả lời - Tội sát nhân bậc nhất. Cố sát, không nghi ngờ. Hắn có tội.
- Nghĩa là, theo anh, hắn không có hy vọng nào?
- Đó không là quan điểm của tôi.
- Vậy quan điểm của anh là gì?
McCord băn khoăn:
- Tôi không nghĩ chúng ta có thể bênh vực hắn. Tôi không nghĩ là chúng ta có thể – đồng thời vẫn giữ hình ảnh của mình. Thật vậy. Chúng ta cần giữ một uy tín nào đó, một qui chế nào đó. Chúng ta biết những gì xảy ra. Chúng ta hiểu pháp luật.
- Có thể không, khi viện ra những lý do về tình...
- Chúng ta chỉ có một điều rõ ràng - là luật pháp.
- Anh muốn nói là anh sẽ đòi xử tử hắn, chỉ vì hắn bắn chết vài tên nghiện?
McCord nhún vai, vẻ bất lực:
- Tôi muốn đại tá hiểu tôi thương thằng cha Flores đó. Hắn là một quân nhân hoàn hảo, dưới mắt tôi.
Họ cùng im lặng một lúc, rồi đại tá Dowd thốt lên:
- Thôi, để xem Omaha nói sao.
♣ ♣ ♣
Ông không được sự giúp đỡ nào từ Omaha.
- Chỉ thị duy nhất mà chúng tôi chắc chắn cho anh là vụ này cần phải được xử trước một phiên tòa dân sự, và không sử dụng bất cứ đặc quyền nào. Nếu hắn có tội, hắn phải bị trừng trị, như bất cứ một công dân nào. Nhưng bên lề, hỏi thử anh, hắn muốn biện hộ theo chiều hướng nào?
- Nhận tội. Hắn sẵn sàng đền tội. Và hơn thế, nôn nóng muốn đền tội.
- Hắn làm sao vậy?
- Do tôn giáo, tôi nghĩ thế.
- Cảm tưởng của chúng tôi ở đây là thế này. Anh cần bảo vệ Không quân Hoa Kỳ, và quân đội nói chung. Anh phải luôn nhớ rằng chúng ta đang trong cùng một phiên tòa với nhân dân Mỹ. Chúng ta cần thận trọng trong mọi hành vi.
- Sứ mạng của chúng ta là hòa bình, phải không?
- Frank, phải coi vụ án này như diễn ra ở Okinawa vậy. Một quân nhân của chúng ta say rượu và giết một người dân bản xứ. Anh hãy nhớ lại lúc đó, ở đó, chúng ta đã phải nhượng bộ, cúi lưng như thế nào...
- Thượng sĩ Flores là một quân nhân tốt.
- Không đặc ân. Đừng dùng ảnh hưởng của chúng ta. Anh chỉ huy đạo quân chiếm đóng, nếu một quân nhân phạm lỗi, thì hắn có lỗi. À này, hỏi riêng, nói nghe hắn bắn ai vậy?
- Hai tên tóc dài.
- Hơi may, sẽ là tệ hơn nếu không phải thế.
- Một trong hai tên da đen.
- Chúa ơi! Tôi vừa nghe anh nói tóc dài.
- Thì tóc dài, nhưng để theo kiểu dân Phi châu.
- Hắn có việc gì mà phải vào đó? - Im lặng một lúc
- Frank, trong các chỉ thị của chúng tôi, không có điều khoản nào cấm anh kiếm một luật sư giỏi nhất để nhờ hắn biện hộ cho người của anh. - Đại tá Dowd không nói gì. Omaha hỏi. - Thời tiết ở đó sao?
- Ngài biết đây là vùng sa mạc mà. Gió nóng từ Mehico đến, làm chúng tôi muốn quay luôn.
- Thôi được. Liên lạc thường với tôi.
♣ ♣ ♣
Don Wheeher, nhân vật số một trong Công ty Luật sư lớn nhất vùng này đã thay đổi chương trình buổi sáng để có thể nói chuyện với đại tá Dowd ngay được, và yêu cầu đại tá đến thẳng nhà ông:
- Chúng ta có thể nói chuyện với nhau mà không bị ai dòm ngó rồi mách lẻo rằng ông đã đến tham khảo ý kiến tôi. Tôi có thể đoán là chuyện gì rồi. Vụ án mạng đêm qua phải không? - Đại tá Dowd thốt ra một âm thanh thay thế cho tiếng Phải! Wheeler tiếp. - Tôi e là không thể giúp anh được, nhưng tôi có thể cho anh vài ý kiến. Anh biết đường đến nhà tôi chứ?
Hai năm trước, khi Dowd được kéo từ Á châu vể đầy và được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng căn cứ này, ông đã được giới thiệu với các nhân vật quan trọng của thị xã sa mạc này, trong những cuộc gặp gỡ mang tính xã giao. Một trong những cuộc gặp quan trọng nhất, và cũng linh đình nhất, đã diễn ra trên ngọn đồi của Don Wheeler, nơi đó, ngôi nhà của ông ta mang tên Bốn Hướng, nhìn được ra tứ phía. Cuộc gặp diễn ra quanh chú bò quay nguyên con, trên một toa xe lửa giả. Bữa tiệc bắt đầu khá muộn, nhò đó khách khứa có thể ngồi trên sân thượng hướng tây nam ngắm hoa cúc và cảnh mặt trời lặn theo nhịp nhạc bản xứ. Bữa tiệc cũng chấm dứt khá sớm, để thực khách phái nam đang bận đồ hóa trang thành địa chủ, chăn bò, hiệp sĩ... sáng mai có thể tươi tỉnh trở lại văn phòng của họ, với những bộ đồ đứng đắn và hợp thời trang của những giám đốc ngân hàng, giám đốc bảo hiểm, nghiệp chủ, thương gia, chủ nhân hầm mỏ. Dowd nhớ rõ cuộc gặp đó, cũng như ngôi nhà. Ông chỉ ngọn đồi, bảo tài xế cho xe lên đó.
Vào nhà, Dowd ngạc nhiên thấy toàn những thùng chứa đồ, loại hay dùng để dọn nhà. Ba gia nhân người Mehico đang thu dọn đồ đạc của ông và bà Wheeler vào thùng, chằng buộc cẩn thận. Don Wheeler giải thích:
- Tôi trở lại với đàn bò của tôi.
Bà Wheeler bắt tay đại tá, mỉm cười:
- Chậm mất mươi năm.
Lần gặp trước, đại tá thấy bà mập mạp, to xù. Trong vòng hai năm, bà mất đi khá nhiều ký, và bây giờ trông già hơn ông chồng đến hai chục tuổi, như là một bà cụ bé nhỏ, khả ái.
Còn ông Wheeler thì lại có dáng dấp một kẻ khai phá miền Viễn Tây, cao trên thước tám, vai rộng, ngực nở, bụng nhỏ và thường ngày vẫn mang đôi giầy cao cổ. Dáng đi của ông hơi lắc lư một chút. Ông nói:
- Phải. Hope nói đúng. Tôi đã hứa với bà...
Bà Wheeler sửa sai:
- Ông đã tự hứa với mình.
- Phải. Tôi đã hứa rằng khi năm mươi tuổi sẽ sống theo cách mà tôi và Hope mong muốn được sống.
Bà vợ nhìn ông với ánh mắt bao dung, như đang nhìn đứa con trai mà bà rất hãnh diện:
- Hôm qua, ông sáu mươi tuổi. Vậy mà ông còn trẻ quá, phải không đại tá? Để ông sống một tháng trên lưng ngựa, thì ông sẽ như mọi kỵ sĩ khác.
Bà vỗ nhẹ lên bụng ông rồi đứng lên, nhón gót, đưa mặt cho ông, và ông hôn bà, gọi bà là cưng, và bà bỏ đi.
- Không ai xét đoán nổi bà ấy bệnh gì, - Wheeler nói. - Nhưng xem ra mỗi ngày một nặng thêm. Chúng tôi đã đến rất nhiều bác sĩ.
Đại tá Dowd không biết nói gì.
- Ông bà tính dời về đâu vậy? - Ông hỏi.
- Hai trăm ba mươi chín dặm về phía bắc. Có một khu đất với một nửa ngọn núi, một dòng suối thật đẹp, đầy cá chép, một ngôi nhà kiểu vùng quê, đầy đủ khu phụ như nhà cho gia nhân, chuồng gia súc. Nhưng đó không phải là chỗ làm giầu. Như Hope nói, chúng ta muốn sống như thế nào? Tôi thích mỗi ngày ngồi trên lưng ngựa. Tôi không muốn ngày nào cũng phải nghe tiếng xe hơi, tiếng còi hụ, tiếng máy đánh chữ lóc cóc, tiếng chuông điện thoại, tiếng than phiền, mặc cả, lừa đảo, tất cả những âm thanh đang làm nhân loại quay cuồng. Tôi không hiểu thế giới bây giờ nữa. Những gì hiểu được thì tôi lại không ưa nổi. Tôi khoái buổi sáng nhìn thấy một con rắn hổ mang hơn là gặp phần lớn các thân chủ của mình. Một tiếng tru chó sói nghe còn thân thiện hơn vô số âm thanh hàng ngày lọt vào tai tôi ở cái thành phố này. Và tôi không tìm ra thứ âm thanh nào thân mật hơn tiếng rống của con bò cái mỗi buổi chiều về chuồng. Ngày nay, vận tải hàng không cũng thành một vấn đề. Hãng TWA mỗi ngày có bốn chuyến bay, nhưng họ cách xa tôi sáu dặm và tôi có thể chịu đựng nổi. Bọn các ông còn dùng những thứ ồn ào hơn cả mức chịu đựng của tôi. Nhưng tôi cho là các ông đang bảo vệ tôi chống lại – này, đại tá, các ông bảo vệ tôi chống lại cái quái gì vậy? Cái gì? – Ông ta cười lớn. - Trông ông lúng túng quá.
Quay mặt đi, Wheeler gác chân lên chiếc ghế để bên và bắt đầu hành hạ trí nhớ của vị sĩ quan chỉ huy trưởng căn cứ. Ông hỏi những chi tiết tỉ mỉ của các sự kiện, lịch trình diễn tiến, thời gian, địa điểm, những chi tiết nhỏ nhặt nhất, và có vẻ như không để ý nghe đại tá Dowd nói gì. Lắm lúc, những câu hỏi của ông không dính líu gì đến câu trả lời ông vừa nghe. Giống như hầu hết những luật sư giỏi, Wheeler có biệt tài làm kẻ vô tội nhất cũng cảm thấy có tội chút đỉnh. Vừa lúc Dowd bắt đầu khó chịu vì điều đó, thì Wheeler quay lại và xin lỗi:
- Tôi biết tôi làm như vậy là coi ông như kẻ sát nhân. Tại thói quen. Xin lỗi nghe. – Rồi ông mỉm cười.
Dowd ngơ ngác hơn là tức giận. Wheeler để ý đến thái độ đó, vươn vai, ngáp. Rồi ông quyết định thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình:
- Thú thật là có điều này làm tôi ngạc nhiên, song nó chẳng liên quan gì đến vụ án cả.
Chúa ôi, cha già này còn định hành hạ mình cách nào nữa đây? Dowd nghĩ. “Việc gì vậy?”
- Tôi băn khoăn rằng sao ông lại quá quan tâm đến vụ này? Chắc là ông rất gần gũi với kẻ sát nhân.
- Nói thật là tôi ghét hắn. - Đại tá Dowd đáp liền.
- Vậy thì tại sao? Cái lối lo lắng như thế đi ra ngoài nhiệm vụ của ông, phải không?
- Ờ, hắn luôn là một quân nhân đáng tin cậy.
- Vậy là ông chỉ bảo vệ một quân nhân tốt thôi?
- Tôi không nghĩ ra lý do nào khác. Chúng ta đi vào vụ án này cách nào đây?
Có thể là trực giác của Wheeler đã giúp ông, cái trực giác giúp cho một đối thủ biết bóp cuống họng đối phương đúng lúc. Ông nói:
- Tôi xin lỗi. - Rồi thêm, sau phút im lặng. - Chúng ta bỏ qua chuyện đó. Tôi biết là đã làm ông bực mình.
- Không sao. Tôi chỉ ngạc nhiên là ông nghĩ tôi liên hệ quá nhiều vào vụ này, một cách đặc biệt...
- Nó có nghĩa linh tính của ông đã nhận biết đúng. Tôi không biết có được mấy sĩ quan cao cấp chịu quan tâm đến việc tìm cách bênh vực cho... à, sáng nay họ nói gì ở Omaha?
- Làm sao ông biết tôi có trao đổi với họ?
- Tôi có biết đâu.
- Họ... dè dặt.
- Đặt nặng Không quân lên trên hết, danh dự của nó, tư thế của nó trong quần chúng, phải vậy không?
- Đại khái như vậy.
- Ông có cách nào để làm việc đó hữu hiệu nhất?
- Vấn đề là ở đó.
Wheeler mỉm cười, và Dowd thăm dò lần nữa:
- Tôi vẫn thắc mắc về câu hỏi của ông.
- Trong hành vi của con người, có một cái gì bí mật. Đó là điểm khiến tôi chú tâm đến nhiều nhất trong luật pháp. Hầu hết công việc của chúng tôi liên quan đến các kỹ nghệ gia, cùng chủ nhân các bất động sản, và nói thật, tôi khinh bọn đó. Nhưng nỗi xúc động của quần chúng tôi luôn thấy thiếu. – Wheeler lại mỉm cười, và bây giờ Dowd cười đáp lễ. Ông ta hỏi. - Chúng ta ăn trưa nhé? Theo lối nông dân.
Dowd nhận thấy, mặc dù những câu hỏi hoặc bí hiểm hoặc xóc óc của Wheeler, ông vẫn thích chuyện trò với ông ta. Wheeler nhờ bà vợ làm món xốt, và sau đó, đích thân bà đã bưng ra, nhẹ nhàng đặt xuống bàn, để muối bám quanh viền đĩa không rơi xuống. Rồi bà hôn lên trán chồng - hai người lúc nào cũng có vẻ như đang chào tạm biệt nhau – và đi khỏi, dừng lại bên vài cây hoa, cúi xuống, ngắt mấy bông hoa héo, rồi thẳng người lên, và chợt như không biết nên đi về phía nào, kêu “ồ” một tiếng, nhẹ nhàng bước vào nhà.
Đang ăn, Wheeler bảo:
- Ông chẳng việc gì phải lo lắng cả.
- Tôi cũng chẳng hiểu vì sao tôi lại quan tâm đến vụ này như vậy? - Dowd trả lời nghiêm túc.
Wheeler nhìn xuống dưới thung lũng, nơi đó thành phố trải dài dưới một màn khói vàng bẩn:
- Ông tin được không, lúc tôi mới đến ở đây, không khí trong như nước suối trên núi đá. Bây giờ mỗi khi đi xuống đó, tôi không dám thở mạnh một hơi, và cố chờ đến lúc trở về để thở cho thỏa thuê. Cái khôi hài nhất, là những gì anh nhìn thấy dưới đó, đều do những mỏ đồng nằm cách đây gần năm dặm, và họ phần lớn đều là thân chủ của tôi. Tôi làm thuê cho họ.
- Có giải pháp nào không?
- Tôi rời bỏ chiến trường bằng một cuộc triệt quân vô trật tự. Mạnh ai nấy chạy.
- Nhưng phần lớn chúng tôi kiếm đâu ra miếng đất cách đây hai trăm dặm về phía bắc, như ông?
- Tôi chịu đem ông theo. Tôi có vài căn nhà, một căn cách nơi tôi ở năm dặm, vì vậy ông phải có ngựa. Mùa đông ông sẽ thấy đàn hươu từ trên núi xuống, gặm cỏ ngay trước nhà. Và bất cứ lúc nào ông cũng có thể nhìn thấy từng đàn sói, hay một con beo gấm, một con phượng hoàng. Bây giờ chúng vẫn còn đó, nhưng tốt nhất là ông nên gấp lên, chúng sắp biến mất...
- Ông nghĩ sao mà lại bảo tôi chẳng việc gì phải lo lắng. Tôi có được biết không?
- Không quân không việc gì phải nhúng tay vào vụ này. Đây là vấn đề của xã hội, và nó sẽ tìm cách tự vệ.
- Kẻ sát nhân là một thành phần của Không quân.
- Xã hội sẽ không bao giờ chịu để người của ông phải đền tội bằng mạng sống vì một việc mà mọi người đều muốn làm.
- Nhưng công lý...
- Công lý! Công lý chó gặm! Ông cũng sẽ làm như vậy nếu đó là con gái ông, đúng vậy không?
- Ờ, thì...
- Ông hãy trả lời câu hỏi của tôi đi.
- Không. Tôi không nghĩ như vậy.
- Ông sẽ làm như vậy, dù không biết là mình sẽ làm. Tôi cho ông biết thêm điều này nữa. Nếu đó là con trai tôi bắn chết một trong những tên tóc dài đó, tôi vẫn sẽ không lo lắng, hoặc mang mặc cảm tội lỗi, như ông, hay như hắn.
- Hắn không có mặc cảm tội lỗi. Hắn nói vậy, và luôn sẵn sàng đền tội.
- Tôi không cần biết hắn nói gì. Vấn đề này đã vượt khỏi tầm tay hắn. Đây là vùng đất biên giới. Chúng ta bảo vệ nhà cửa chúng ta, bảo vệ vợ con chúng ta. Ai không hiểu điều đó là thằng điên. Tôi nói thẳng cho ông biết là người của ông đã hành động đúng.
- Ờ, có thể hắn...
- Không có thể gì hết. Ông nội tôi đến đây, một tay cầm Thánh Kinh và một tay cầm súng, ông từ tiểu bang Maine đến đây, hùng dũng và hung bạo hơn cả mẫu người được điện ảnh dựng lên. Ông cắm xuống đất bốn cây trụ ranh giới, và vậy là đủ. Không bằng khoán, không giấy nhượng quyền, không ân huệ gì. Và này, ông bạn à, tôi cho ông biết thêm, là nếu có tên nào láng cháng quanh một trong năm bà cô xấu xí nhất của tôi thì... - Wheeler cười lớn. - Và nếu ông đi vắng, thì bà nội tôi sẽ thay ông chăm sóc công việc mà không phải lấn cấn gì khi tặng cho bất cứ tên lớ quớ nào một phát đạn. Vậy tôi xin hỏi thẳng, xã hội này sẽ đi đến đâu nếu ông, một Chỉ huy trưởng căn cứ Không quân Collins, lại hoài nghi về những giá trị trong vụ này? – Wheeler đứng lên. - Mời ông đến văn phòng tôi. Cho xe ông chạy theo. Ông ngồi chung với tôi.
Ngay trước khi chiếc xe chạy xuống đám khói vàng, Wheeler chỉ vào một con chim đang bay lượn phía dưới, cách độ một dặm. “Có một con, kia.”
- Chim ưng?
- Đó là phượng hoàng. Chẳng hiểu nó làm gì dưới đó, xem chừng chính nó cũng không biết nữa. Con vật khốn khổ chắc không thể nhìn thấu đám sương khói dày đặc kia, để tìm mồi. Tôi mong có thể nói cho nó biết là nó còn có vài họ hàng ở phía bắc, và hãy đến đó mà ở.
- Đẹp thật, cái lối bay lượn của nó.
- Nó có thể đâm bổ xuống như một cục đá rơi tự do! Không thể có một vật gì do con người làm đẹp bằng loài chim này. Tôi kể ông nghe chuyện này. Lúc còn bé, tôi tính kiếm một chú phượng hoàng con để huấn luyện. Vì vậy tôi với một thằng bạn, hắn chết trong trận Bremen rồi, trèo lên đinh núi, buộc chặt một sợi dây thừng và thòng tôi xuống cái triền dốc đứng, nơi có tổ chim. Song, tôi đã bị con chim mẹ nhìn thấy, dù tôi đã nhìn quanh cẩn thận trước khi trèo xuống, nhưng không phát hiện ra. Và... nó bay lại phía tôi, và phải nói với ông là tôi chỉ nhờ vào may mắn mà toàn mạng. Tôi không bao giờ quên được cái lối bà mẹ đó bảo vệ con. Ý tôi muốn nói, đây là những định luật căn bản. Này, ông bạn, những định luật, những giá trị căn bản bây giờ ra sao?
- Dowd không có câu trả lời nào. Wheeler tiếp tục.
- Ông thắc mắc, lúng túng, tham khảo về ông bố khốn khổ đã khám phá ra con gái hắn bị hư hỏng vì một tên nghiện chó đẻ, và có một phản ứng gì đó. Này, thử nói cho tôi biết xã hội này mất mát cái gì khi một tên để râu xồm xoàm mà tôi thấy hình trên mặt báo sáng nay được ném xuống đường mương?
- Theo tôi đoán, chắc chẳng mất mát gì nhiều.
- Nói thật nghe, ông có khâm phục ngươi của ông vì hắn dám hành động như vậy không?
- Ờ... Ờ...
- Tên đó đã giúp chúng ta, đại tá Dowd, và mặc dù tình cảm của ông, chân thật hơn, đã công nhận điều đó, thì tức là, chỉ có lý trí của ông phản đối. Chính vì vậy mà ông đến đây, đi làm cái công việc của một tên thiếu úy. Ông đã tỏ lòng kính trọng kẻ sát nhân, khi ông đến đây. Và ông nên tin tôi, xã hội cũng sẽ kính trọng hắn. Và tất cả chúng ta đều phải cám ơn hắn. Bởi vì dù tôi có nói xấu cái thị xã này, và cả vùng này thế nào đi nữa, thì tôi vẫn biết rằng ở đây còn những người suy nghĩ đúng, và họ sẽ không để cho người của ông bị xử tử đâu. Vậy ông chẳng việc gì phải lo lắng.
Lúc chiếc xe quẹo vào bãi đậu gần tòa nhà đặt văn phòng của Wheeler, ông ta nói:
- Tôi nhận biện hộ vụ này. Tôi muốn nói là văn phòng tôi nhận. Tôi sẽ không có mặt ở đây nhiều, nhưng tôi sẽ giao cho tên khá nhất chịu trách nhiệm, và tôi sẽ kiểm soát để chắc chắn nó làm đúng. OK?
Trong văn phòng của Wheeler có dựng một giá để yên ngựa, giữa hai cửa lớn, trên đó, có chiếc yên ngựa kiểu Mehico bằng da nạm vàng công phu. Dowd nhìn mà thán phục công trình đó.
Wheeler cúi xuống trên chiếc máy liên lạc nội bộ:
- Tôi đặt chiếc yên đó từ mười lăm năm nay, để nhắc tôi không được phép quên đàn bò của mình. Gọi Gavin McAndrews lên đây. – Quay lại Dowd. - ông có vẻ như muốn nói điều gì?
- Chỉ có thế này. Không quân rất mong muốn tránh dư luận là những quân nhân của nó được hưởng một đặc quyền gì. Lúc tôi nói chuyện với Omaha sáng nay...
- Họ thà thấy hắn ta bị xử tử. Tôi biết.
- Không hẳn vậy. Chẳng nên trách họ quá. Chúng tôi không thể để cho người ngoài thấy là người của mình thoát tội quá dễ dàng.
Có tiếng gõ cửa. Wheeler gào lên. “Gavin, vào đây!”
Bắt gặp Wheeler nhìn vào Gavin McAndrews, lập tức Dowd nhớ đến lúc bà Hope bước ra, với hai bát đựng xốt trước ngực, Don Wheeler nghiêng người sang ông, rỉ tai, “Chúng tôi không có con.”
Wheeler nói bằng giọng gay gắt, chỉ vào chiếc ghế:
- Ngồi xuống, con. Nhưng hãy bắt tay đại tá Francis Dowd trước đã. Anh nghe nói về ông rồi chứ?
- Chắc chắn đã nghe. Hân hạnh được gặp đại tá.
Dowd thấy Gavin hơi khập khiễng, chút xíu thôi.
- Đọc các báo sáng nay chưa? - Wheeler hỏi ngay.
- Tôi có đọc.
Hắn quá trẻ, Dowd nghĩ. Wheeler nói:
- Điều tôi muốn nói, cũng là lý do để đại tá chỉ huy trưởng đến đây, là vụ án mạng đêm qua trong căn cứ. Anh nghĩ sao?
Gavin nói, chậm rãi và cẩn trọng:
- Tôi chưa gặp... kẻ giết người người đó, nhưng tôi biết hắn rất được cảm tình của thị xã này, trong đó có tôi nữa. Tôi luôn mong có con, và khi đó, vào trường hợp đó, tôi sẽ nghĩ gì? Thoạt xem, thì đây là vụ án sáng tỏ, giản dị, một vụ sát nhân bậc nhất, nhưng nếu nội vụ được trình bày đúng cách, vận dụng các yếu tố tình người, thì thưa đại tá, luật pháp lại sẽ trở nên mềm dẻo và nhân đạo đến bất ngờ. Tôi tin là ông ta thậm chí còn không bị kết tội ở cả vụ giết người thứ hai. - Chàng Wheeler. - Thưa ông, chúng ta nhận vụ này?
- Anh nhận.
- Đại tá đồng ý như thế? – Gavin nhìn Dowd.
- Anh thay mặt văn phòng lo vụ này. Đại tá Dowd giao cho tôi và quyết định của tôi là vậy. - Wheeler nói.
Rồi ông ta nhìn thẳng vào Dowd, chờ đợi. Nếu định phản đối, thì đây chính là lúc thích hợp nhất. Song Dowd để mặc cho nó qua.
Wheeler không cần che đậy ý nghĩa của sự im lặng đó. Nó có nghĩa là chấp thuận.
- Vậy là được. Gavin, nói với đại tá vu giết ngươi thứ hai có ý nghĩa gì, trên phương diện tội hình.
- Khoảng năm đến bảy năm, tù ngồi. Nhưng cũng có thể nhẹ hơn. Khá co giãn. Tôi thì cho là năm năm.
Dowd nghĩ cái vẻ trẻ trung của Gavin biết đâu lại có ích, vì không tạo ra cảm tưởng về sự can thiệp của những uy quyền mạnh. Gavin nói:
- Tôi sẽ cố gắng. Chắc chắn tôi sẽ cố gắng hết mình!
- Phải cố gắng hơn thế. - Wheeler nghiêm khắc.
Ông cười, và cả ba cùng cười. Gavin nhìn đồng hồ.
- Nếu vậy, tôi phải xuống nhà giam gặp ông ta.
- Hắn không ở trong nhà giam. - Đại tá Dowd nói.
- Vậy hắn ở đâu? - Gavin hỏi.
- Trong căn cứ. Quản thúc tại gia. Tôi có nói với cảnh sát trưởng về chuyện này và ông ta nói là...
- Ông làm như vậy làm gì, trong khi rất quan tâm đến dư luận? - Wheeler bỗng ngưng lại vì thấy mình như đang nói với thuộc cấp. - Xin lỗi.
- Tôi biết, có vẻ là không đúng lắm, nhưng...
- Ông bảo không muốn gây ra cảm tưởng là người của Không quân được hưởng đặc quyền, đúng không?
- Gavin nói bằng một giọng như là rầy ông chủ, nhưng xem ra Wheeler lại khoái cái giọng đó.
- Nào, ông bình tĩnh lại. Tôi đồng ý làm vậy không đúng lắm, nhưng chúng ta sẽ sửa lại ngay, có gì đâu, bằng cách thu xếp cho hắn một phòng giam dễ chịu, tiện nghi, và...
Nếu trước đó đại tá Dowd còn nghi ngờ gì về chàng trai, thì nay hết sạch, không chỉ bởi vẻ tự tin, mà còn vì anh ta có ảnh hưởng khá lớn với Wheeler, cái mà đại tá Dowd chưa có được. Gavin nhìn sang Wheeler:
- Ông nghĩ sao nếu chúng ta chờ cho Văn phòng biện lý Quận hành động đã? Có nên để họ tống giam thân chủ của chúng ta, để họ đóng vai quan tòa oai nghiêm và uy quyền? Nên nhường hiệp đầu, theo tôi.
Wheeler nhìn Gavin với vẻ thán phục rõ rệt.
- Được! Tuyệt! - Ông quay sang Dowd. - Sao, thằng nhỏ khôn ranh quá chừng phải không?
♣ ♣ ♣
Gavin, sinh ra và lớn lên trong vùng, được biết đến như một tác phẩm của Don Wheeler. Ông từng nhìn nó đá banh trong đội bóng trường trung học, thích những gì được thấy, và đủ để chọn cậu mà trao cho học bổng do văn phòng cấp phát. Hai năm sau, Gavin nặng bảy mươi ký, được thiên hạ coi là tay đội trưởng tài ba nhất trong kỳ hội tây nam. Đến mùa bóng sau thì không ai nhắc đến cân nặng nữa mỗi khi buột miệng khen hắn. Hắn cứng rắn nhất, tháo vát nhất, gây sự ngạc nhiên nhiều nhất, kể cả hèn mọn nhất khi cần. Tuy vậy, ra khỏi sân chơi thì hắn lại ít nói đến độ không ai có thể tin được đó là chính hắn nữa. Rồi thay vì tìm cách miễn hạn quân dịch, hắn tình nguyện gia nhập Thủy quân lục chiến, rồi lại tình nguyện đi tác chiến, bị thương, để từ đó về sau chân bước hơi khập khiễng, tựa hồ như một đặc dị. Trở về, ban ngày hắn đi làm, ban đêm theo học trường Luật, không đòi hỏi sự giúp đõ của ai, còn khi được ông Wheeler tình nguyện trợ giúp, thì hắn đón nhận một cách miễn cưỡng và khiêm nhường, trái hẳn như nhận xét của ông Wheeler, rằng đám trẻ thường nghĩ thế giới có bổn phận chu cấp cho họ. Hiển nhiên, Gavin tin tưởng vào sự nỗ lực bản thân chứ không vào sự trợ cấp, song hắn kính trọng các bậc đàn anh, cùng những truyền thống của họ. Wheeler chưa tỏ bày cùng ai, nhưng ông đã quyết định từ lâu, rằng khi ông về với đàn gia súc của mình, Gavin sẽ thay ông ngồi trong cái phòng nhìn tới những ngọn núi phía bắc.
Tuy nhiên, cũng có vấn đề phải lo. Những khách hàng xộp nhất của ông chưa sẵn sàng đón nhận Gavin, bởi họ thích đặt niềm tin hơn vào những luật sư tuổi tác, nhiều kinh nghiệm – một lý do khiến ông Wheeler chưa về với đàn bò của mình được.
Khi nhìn chàng trai nói chuyện với đại tá Dowd, lần đầu tiên Wheeler nhận ra mái tóc cắt ngắn của hắn đang thưa dần, để có thể thấy một ít da đầu khi hắn cúi xuống, khuỷu tay đụng đầu gối, thế ngồi pha lẫn vẻ tôn kính và sức mạnh. Ta phải thôi coi hắn như đứa trẻ mới được, Wheeler nghĩ, hắn đã là người lớn, và thời cơ của hắn đã đến.
♣ ♣ ♣
2Trên bãi cỏ trước nhà tang lễ Bryant, cả bọn đứng chờ Michael, im lặng và bất động.
Bên trong, ông Ernest Bryant và cô con gái bụ bẫm Ernestine, kế toán viên và kẻ thừa kế gia tài, đi nhanh vào phòng đặt xác Vinnie và Jeff Wilson.
Râu tóc Vinnie đã được cạo tỉa gọn gàng. Hal, tình nhân của mẹ hắn, đã góp bộ đồ màu sẫm, sọc nhỏ, sơ mi trắng cổ cứng, và chiếc nơ mà Hal đã mua để đi dự một dạ hội do ông Giám đốc hãng của anh ta tổ chức. Ông Bryant và cô con gái đều cho rằng Vinnie nom đã rất bảnh trai. Phấn hồng còn được xoa lên má hắn, đúng điệu hóa trang để lên truyền hình. Ánh sáng thì chưa bao giờ soi lên mặt hắn đẹp như bây giờ.
Nhưng ông Bryant và con gái đi vội vào không chỉ để ngắm công trình của chuyên viên thẩm mỹ nhà xác, mà do cú điện thoại nội bộ của người gác cổng, với giọng sợ hãi. Tới nơi, họ thấy một gã trai gầy gò, mặc quần may sẵn và áo bạc màu, quì trước mặt bà Irene Connor. Đầu gã, với mái tóc dài gợn sóng, cằm để râu thưa, hơi lắc lư lúc gã tỉ tê với người đàn bà đang trắng bệch mặt mũi. Bà ta lắc đầu nhìn đi chỗ khác, như không muốn nghe. Rồi bà xô mạnh gã ra.
Gã đứng lên, không nhìn vào xác chết, đi qua hai cha con Bryant, ra khỏi phòng.
Irene gục đầu thổn thức. Lúc thấy có bàn tay đặt nhẹ lên vai, bà ngẩng lên. Ernest Bryant nói:
- Bà hãy lên vãn phòng tôi dùng ly cà phê.
Irene gật đầu, như đứa trẻ mong được an ủi, vỗ về.
Trên lầu, trong lúc Irene kể lại cho ông Ernest nghe những lời đe dọa của Michael, thì Ernestine nhìn bọn thanh niên trên bãi cỏ, qua cửa sổ. Michael đến chỗ Juana đứng chờ. Những đứa kia túm tụm bàn tán.
- Ernie, bọn chúng còn đó không? - Ông Bryant hỏi.
Cô con gái gật đầu. Trên chiếc bàn nhỏ, cà phê và bánh ngọt đã bày ra. ông bố chỉ về chiếc tách của Irene, và cô gái bưng bình cà phê lại, rót đầy. Ông nói.
- Thưa bà Connor, tôi sẽ gọi cảnh sát, như bà muốn. Nhưng theo kinh nghiệm của chúng tôi thì trong những trường hợp như thế này, sự hiện diện của cảnh sát chỉ làm cho vấn đề thêm rắc rối.
- Ông đâu có nghe tận tai những lời chúng nói!
Và Bryant hiểu rằng ông đang gặp một mụ điên, lại đã uống khá nhiều rượu mạnh. Ông nói với con gái:
- Gã đó đe dọa rằng chúng sẽ quật mồ lấy xác lên, nếu bà Connor chôn con theo như cách thức bà đã chọn.
Ernestine thốt ra một âm thanh của sự ghê tởm.
- Chúng không biết tôn trọng người chết hay sao?
- Bây giờ chúng ta vào đó nhìn cái xác, làm như vĩnh biệt, rồi về. - Tên mập Freddie mưu mô. - Nhưng chúng ta vẫn canh chừng nơi đây. Sandy, nếu chịu khó trang điểm, sẽ ra vẻ con nhà lành lắm. Nó ở lại nhìn ngó cho chắc ăn. Rồi đêm nay, khoảng ba bốn giờ sáng, chúng ta nhào vào cướp xác Vinnie và Jeff đem đến phía bắc khu biệt cư da đỏ chôn cất là xong...
♣ ♣ ♣
Ông Ernest Bryant nói:
- Tôi nghĩ bà nên thế này...
Irene thô bạo ngắt lời:
- Hal có gọi đến không? Người tên là Harold Hall?
- Tôi có hỏi trước đây mười lăm phút. Chưa thấy ai gọi cho bà cả. – Ernestine đáp.
- Người bạn tốt nhất của tôi! Lúc tôi cần đến anh ta nhất thì anh ta ở đâu. Đứng trước quầy hàng ư? Nhờ cô phone cho ông Hall lần nữa, bảo ông ấy làm ơn xách đít đến đây giùm, được không?
Ernestine nhìn cha. Ông Bryant nói:
- Con gọi đi. Ba muốn nói riêng với bà đây vài lời.
Irene nghi ngại nhìn ông Bryant, cái nhìn làm ông khó chịu. Ông không thích những gì đang diễn ra quanh ông, tất cả – đám thanh niên trên bãi cỏ của ông, người đàn bà này, sự ồn ào của dư luận... Những thứ đó không giúp ích gì cho cái hình ảnh mà ông cố tạo dựng cho nhà tang lễ của mình, bằng bao năm công lao và tiền bạc quảng cáo.
- Bây giờ, có một cách giải quyết êm thấm để không làm phiền đến người đã chết. - Giọng ông dịu dàng.
- Cách nào? - Giọng bà ngờ vực.
- Bà có khi nào nghĩ đến hỏa thiêu không?
- Ông nói sao?
- Chúng tôi có đầy đủ phương tiện để làm việc đó, ngay tại đây.
- Ông muôn nói là đốt xác con tôi?
- Xác chết được thiêu thành tro, đựng trong một lọ sứ đẹp và bà có thể giữ nó ở bất cứ đâu.
- Ông cho tôi là hạng người gì?
- Xin bà nghĩ kỹ một chút. Chúng ta đang ở một hoàn cảnh đặc biệt. Những điều bọn trẻ kia nói, chúng đe dọa cả tôi nữa, bà biết không, là chúng sẽ để một bọn gác trước nhà tôi, suốt ngày suốt đêm, rồi chúng sẽ đi theo đến tận nghĩa địa, và ai biết chúng có thể dở trò gì ở đó? Tôi sắp nói với bà rằng tôi, Hãng hậu sự của tôi, bắt đầu hối hận vì bị lôi cuốn vào vụ này.
- Lão già khốn kiếp, ông định dọa tôi đó à?
Irene có một chai rượu nhỏ để trong xách tay, và bây giờ bà lấy ra. ông Bryant chán ngán:
- Con nào mẹ đó!
Ông quay mặt đi, kịp thấy con gái chạy vội vào.
- Chúng nó đang xông vào, cả bọn.
Irene hét với ông Bryant, choàng tay qua cổ ông:
- Chặn chúng nó lại!
Ông gỡ tay bà ta ra, bỏ đi. Ernestine nói với ông:
- Bây giờ thì trông chúng có vẻ trật tự lắm.
Irene gọi với theo hai cha con.
- Gọi điện báo cho cảnh sát đi!
Xuống nhà, Bryant thấy không có gì phải cuống lên cả, ít nhất là lúc này. Một đám khoảng bốn chục thanh niên đang đi chậm rãi quanh xác chết. Một cô gái tròn trịa có dáng dấp Mehico đứng trên đầu quan tài. Những người đi qua, sau khi nhìn xác chết, có lẽ như đều dừng lại nói lời an ủi nào đó với nàng.
Irene Connor đã tìm được đồng xu để bỏ vào khe hộp điện thoại, hỏi phòng chỉ dẫn số máy cảnh sát rồi hét lên, “Đây là một trường hợp khẩn cấp.”
Juana đăm đăm nhìn khuôn mặt Vinnie, ngạc nhiên rằng sau khi cạo râu, hớt tóc, trông hắn thật đẹp. Nhưng nàng lại nói với Michael, người đi cuối hàng:
- Anh coi chúng làm cho Vinnie ra vậy đó!
Ernestine rỉ tai cha:
- Con mụ gọi điện thoại cho cảnh sát.
- Thôi được. Một là bà ta chấp nhận hỏa thiêu, hai là đem đi nơi khác. Con gọi cảnh sát đi. Nói với họ là con thay mặt cha, và những thanh niên kia không làm gì sai quấy cả, ngoài việc chúng ăn mặc bẩn thỉu, và có cái mùi không hiểu là mùi gì. Còn bà mẹ thì chẳng ra người mẹ có đứa con chết tẹo nào. Nói với họ vậy. Đừng để cảnh sát đến nhà mình, sẽ sạt nghiệp đấy!
♣ ♣ ♣
3Chưởng lý quận Cy Walker rời văn phòng sớm hơn thường lệ. Ông vừa được thông báo có nhiệm vụ truy tố Flores, và ông thấy cần suy nghĩ kỹ lưỡng.
Tám năm trước, Cy Walker đã từ bỏ sự nghiệp luật sư đem lại cho ông nhiều lợi tức ở miền Đông để tìm đến một vùng khí hậu khô ráo, sạch sẽ hơn, và nhanh chóng có được một vị trí nghề nghiệp xứng đáng trong cái xã hội vùng đất Tây Nam này, nhưng công việc Chưởng lý quận này đã làm ông mất đi một khoản thu nhập nhất định so với số tiền ông kiếm được khi hành nghề luật sư tư tại Camden, New Jersey.
Vì vậy, vài tuần trước, Cy Walker đã ngỏ ý rời khỏi chức vụ đó, vậy đây sẽ là vụ cuối cùng của ông? Ở cương vị cố vấn luật pháp cho các công ty bất động sản, ông kiếm được nhiều tiền hơn, nhờ tình trạng phát triển kỹ thuật mau chóng và sự tăng trưởng đột ngột của ngành bảo hiểm. Dại gì mà ông tiếp tục phục vụ công ích xã hội. Ngay sau khi quyết định từ chức, ông đã mua chiếc xe hơi thứ hai, kiểu Camaro mui xếp, như là một bảo đảm với chính ông rằng những ngày tươi đẹp sắp đến.
Lúc về nhà, ông nghe bà vợ Corky nói về vụ án:
- Nó sáng tỏ và giản dị quá. Trăm phần trăm là anh thắng. Vậy việc gì phải lo?
- Nhưng anh có nên thắng hay không đây?
- Giết người một cách lạnh lùng, có chủ mưu, cố ý, hắn... – Bà bỗng ngưng bặt. - ồ, em hiểu ý anh rồi.
- Phải.
- Ý anh là... nếu muốn, anh sẽ thắng, nhưng nếu thắng, anh sẽ mất thiện cảm của xã hội, đúng không?
- Phải. Anh không có cách gì để thua vụ này được, nhưng chắc chắn anh sẽ mất nhiều thứ, nếu thắng.
- Hừm..
- Em à, một luật sư mở văn phòng tư không cần phải hiểu biết nhiều về luật pháp, nhưng hắn không thể không cần nhiều thiện cảm của xã hội.
- Cy, anh đang có nhiều thiện cảm.
- Sau khi thắng, anh còn được bao nhiêu? Lão thượng sĩ không quân này có thể trở thành anh hùng nơi đây, khi vụ án kết thúc.
- Anh uống gì không?
- Cho anh uống đi. Tùy em.
♣ ♣ ♣
Trở về căn cứ, đại tá Dowd cho mời Trưởng phòng Quân pháp lên gặp. Trong lúc chờ đợi, ông nghĩ đến những cầu hỏi của Don Wheeler.
Đây không phải là điều mà Wheeler muốn nói đến. Francis Dowd có thể không hành động như Flores, nếu rơi vào trường hợp của hắn ta.
Ông nhớ chính ông đã nói với hắn, Đôi lúc sức mạnh trở nên cần thiết, và sự giận dữ của chúng ta cứu thoát chúng ta.
Flores đã siết cò, nhưng có phải chính ông đã trao khẩu súng vào tay hắn? Không đến nỗi vậy, nhưng dù sao, phải chăng chính ông đã khích lệ, và hơn thế, đẩy Flores đến hành động của hắn? Như vậy, phải chăng ông đang tự biện hộ cho chính ông?
Lúc đại tá thông báo là con rể ông, trung úy Alan Kidd sẽ chịu trách nhiệm biện hộ cho thượng sĩ Cesario Flores, trung tá McCord nói:
- Đại tá có thể cho tôi biết lý do không?
- Không, ông không cần biết. Trên thực tế, Flores sẽ do Don Wheeler biện hộ, và trên danh nghĩa, sẽ do một luật sư trẻ trong văn phòng của ông ta, là Gavin McAndrews. Vai trò đại diện của chúng ta trước tòa án sẽ rất khiêm tốn.
- Nếu vậy, đại tá đã chọn đúng người.
Chiều hôm đó, ngồi bên Alan trong câu lạc bộ sĩ quan, Dowd xấu hổ khi nhớ lại hai tiếng “khiêm tốn” của McCord. Trên phương diện cá nhân mà nói thì Alan không đến nỗi thế.
♣ ♣ ♣
McCord khó khăn lắm mới tìm thấy Alan để thông báo nhiệm vụ mới cho chàng ta, để cuối cùng thấy trong ánh hoàng hôn của câu lạc bộ sĩ quan, Alan đang tán gẫu với một vài sĩ quan có vợ, lại có cả vợ chàng. Alan ngồi thoải mái trong chiếc ghế nệm dày, đã uống đến ly rượu thứ hai. McCord nói bằng giọng khiển trách:
- Anh không nghe quân cảnh réo gọi tên anh sao?
- Tôi cố gắng loại trừ cái lối réo gọi bằng loa phóng thanh công cộng trong câu lạc bộ sĩ quan căn cứ. Nó làm cho những buổi họp mặt xã giao mất thú vị.
Lúc McCord nói cho Alan biết lý do gọi, chàng chẳng bình luận gì, chỉ quay lại nhìn vợ. McCord bỏ đi. Cả bọn gọi thêm một chầu rượu, trước khi dùng bữa tối. Alan có vẻ như quan sát vợ, qua bờ ly. Cuối cùng, nàng đành hỏi:
- Alan, gì vậy anh?
Nghe hỏi câu đó, chàng đứng lên, xin kiếu. Lúc ăn món điểm tâm, người hầu bàn đem đến cho Marian một mảnh giấy nhỏ, vỏn vẹn mấy chữ Đánh côn cầu.
Tối đó, lúc lên giường, chàng bảo vợ:
- Em có nhớ anh từng kể với em rằng ba anh mỉm cười lúc tắt thở không? - Nàng gật đầu, nghi ngờ. - Một ngày nào đó anh sẽ cho em biết tại sao ông mỉm cười.
- Alan, đừng chơi trò đánh đố với em.
- Sau khi giải ngũ, anh khô