← Quay lại trang sách

Chương 10 1-

Xác Alan Kidd dược phát hiện lúc xẩm tối hôm chủ nhật, khi người gác công trường đi tuần một vòng duy nhất trong ngày.

Không có dấu hiệu đánh lộn nào cả.

Cảnh sát nhận thấy vết nám của thuốc súng trên bộ quân phục, kết luận rằng nạn nhân bị bắn khi hai người ở trong một tình trạng tương tự như ôm nhau, và viên đạn đã đi vào giữa tim nạn nhân.

Cảnh sát trưởng Burns đang ở trên du thuyền giữa hồ Mead, được thông báo bằng máy liên lạc trên tần số ngắn. Những nhân viên nòng cốt được kéo về từ vùng săn bắn. Sáng thứ hai, cảnh sát trưởng, sau khi lái xe gần trọn đêm, đích thân chỉ huy cuộc điều tra. Báo cáo được gửi đến một cơ quan điều tra liên bang, các trạm biên giới được báo động, các bản tin được phố biến.

Nhưng tin tức nhận được quá rời rạc.

Tình trạng lộn xộn càng tăng thêm khi bản khám nghiệm cho biết viên đạn do một khẩu súng của quân đội bắn ra.

Như vậy có đến mười tám ngàn người trong căn cứ đáng bị thẩm vấn.

Người lính Không quân mà Wally đã mượn khẩu súng dĩ nhiên thích im lặng hơn. Đã quen với chiến trận, cái chết đối với hắn chẳng nghĩa lý gì.

Sáng thứ ba, Alan được vinh dự nhắc tới trong một bài xã luận, với cái giọng thương tiếc pha thêm một chút hài lòng. Đúng như tác giả bài xã luận viết Đã hết giai đoạn một người có thể ngồi ở cả hai phía hàng rào.

Trong những hoạt động còn lại của mùa hè tại Đại học đường – chẳng bao nhiêu – Alan trở thành đề tài chính trong ngày. Một lời tuyên bố của giáo sư Hough được nhắc đến nhiều lần Bạn là một phần của vấn đề hay bạn là một phần của giải đáp.

Nhưng chính bà vợ trung sĩ Jones mới diễn tả đúng dư luận của thị xã Đáng đời cho hắn đã dính líu vào bọn hippi!

Trong căn cứ, kẻ biết nhiều nhất về Alan không có gì để nói với những người đến chia buồn. Marian Kidd ngồi bất động trong một góc phòng khách nhà nàng, mắt ráo hoảnh. Lúc những người tò mò và thiện cảm đã ra về, Muriel và đại tá Dowd đứng lên.

- Sao con không sang nhà ba mẹ ngủ?

Marian hôn ông.

- Không cần thiết đâu ba.

Dowd đi lấy xe, trong lúc vợ ông chờ. Khi hai mẹ con chạm má nhau, Marian nói với Muriel về cái kết luận mà nàng đã tìm ra:

- Anh ấy muốn như vậy.

Marian đã ngạc nhiên, khi tìm thấy Alan để lại cho nàng một di chúc – một lá thư ngắn gửi nàng. Chàng yêu cầu nàng tặng thân xác chàng cho một Đại học Y khoa chuyên nghiên cứu vê bệnh thần kinh, còn tài sản của chàng thì cho Michael Winter.

Marian hét lên trong ngôi nhà trống:

- Không bao giờ.

Nàng xé nát bức thư. Cái di chúc này chẳng có giá trị pháp lý nào. Vì đã không có nhân chứng, và cũng không được viết theo đúng mẫu di chúc.

Tuy vậy nàng sử dụng xác chết như lời yêu cầu của Alan. Những sinh viên y khoa đã nhận thấy đó là một cơ thể đàn ông hoàn hảo.

♣ ♣ ♣

Cảnh sát không thể bắt đầu từ ai cả. Các sinh viên nghỉ hè đến hết mùa mới trở lại. Bọn híppi thì đã rời khỏi khu vực này. Phần lớn những bọn có thành tích bất hảo thì đã trở thành những thương gia đứng đắn, khả kính, bán dầu ôliu.

Donna, được khám phá ra đang sống với mẹ nàng ở Hollywood, không giúp ích gì, hay không chịu giúp gì.

Một tuần lễ trôi qua.

Cơn nóng khủng khiếp đổ xuống. Vào giữa trưa chẳng còn ai ra khỏi nhà. Rắn cũng nằm sâu dưới hang.

Cuối cùng một bức điện từ sở cảnh sát New York được gửi đến: các cuộc điều tra của sở chẳng thấy dấu vết gì của Michael Winter. Giữa các dòng chữ, người ta phải hiểu: Chúng tôi có quá đủ những rắc rối của chúng tôi rồi!

Một tuần lễ nữa trôi qua. Xem chừng cuộc điều tra sẽ phải được tính bằng tháng, có thể là bằng năm.

Dư luận lắng xuống. Nó chỉ muốn được yên ổn.

Rồi một thông cáo được phổ biến: ai cho biết tin tức đưa đến việc tìm ra thủ phạm giết trung úy Alan Kidd sẽ được thưởng số tiền khổng lồ là hai lăm ngàn đô la. Nhờ tiền thưởng, công việc truy tìm có vẻ hăng hái trở lại. Kẻ thưởng tiền là ai thì không được tiết lộ.

♣ ♣ ♣

Luật sư Don Wheeler còn vài tuần chờ đợi trước khi đến ngày hẹn đi Phi châu, ông ở lại New York vài ngày, dạo bộ trên Đại lộ Sô Năm trong đôi giầy cao bồi bóng lộn, để tỏ ra khinh miệt đất cũng như người. Rồi ông bay sang London, liên can vào một vụ kiện nhỏ ở Claridge, và quyết định chờ ở đó.

Chuyến ra ngoài đầu tiên của ông là đi đên công trường Grosvenor. Thư từ của ông được gửi đến Tòa Đại sứ Mỹ, nhờ một ngươi bạn giữ hộ, Trong lúc ông ngồi ở văn phòng người bạn đó, trong Tòa Đại sứ Mỹ, đọc thư Gavin về cái chết của Alan Kidd và đọc những bài báo đã dược cắt dán, thì cuộc biểu tình diễn ra bên ngoài.

Hơn một ngàn nam thanh nữ tú bao vây Tòa Đại sứ Mỹ và gào thét niềm căm hờn của họ. Những thùng sơn đỏ tượng trưng cho máu được vẩy khắp các vách tường Đại sứ quán.

Wheeler đứng từ cửa sổ tầng hai nhìn người biểu tình và hiểu ra ai đã giết Alan Kidd. Lúc cảnh sát giải tán xong đám biểu tình, ông đánh điện cho Gavin, bảo chàng thưởng hai lăm ngàn đô la cho ai chỉ dẫn để bắt được Michael Winter.

♣ ♣ ♣

Cliford Winter xét lại việc thuê thám tử tư do phòng giao tế lao động của hãng ông đề nghị. Điều làm cho ông không quyết định thuê, là cái việc mà cuối cùng ông phải đối đầu: nếu họ kiếm ra được Michael, thì sau khi ôm hôn con trai, việc đầu tiên ông phải làm là giao nó cho nhà chức trách.

Art Greenbaum về thăm gia đình nhân kỳ nghỉ hè. Cậu hỏi cha nhiều điều về Michael Winter, cuối cùng thú nhận cậu đang viết một loạt bài về vụ án.

Điều làm cho Chánh án Breen ngạc nhiên, thực ra khó chịu mới đúng, là trong lúc cảnh sát không dò la ra thủ phạm giết trung úy kia, thì con trai ông coi việc Michael giết chàng ta như chuyện tất nhiên, và vì một lý do nào đó mà ông không hiểu nổi, Michael được con trai ông tôn sùng như một vị anh hùng.

Breen hỏi con trai:

- Mày muốn nói gì khi cho là hắn hành động đúng?

Art cười cái nụ cười Greenbaum của cậu và không trả lời. Về sau Sarah nói với ông:

- Nó muốn nói là trong lúc tất cả các người tha tội cho kẻ sát nhân, thì ông Winter tự xử lấy vụ án và đưa ra bản án của ông.

- Nhưng Sare, hắn giết một người vô tội.

- Xem chừng hắn không nghĩ như vậy. – Nàng nói.

♣ ♣ ♣

Nhiều người, trong đó có cả nào Chánh án Breen nào Gavin McAndrews, và cả Cy Walker được lợi nhờ cơ hội xuất hiện trước quần chúng, nhân vụ án, nhưng không một ai được lợi một cách nhanh chóng và đầy kịch tính như Irene Connor.

Cái quán rượu nơi bà đứng bán đã mau chóng trở thành điểm nổi tiếng nhất thành phố. Người đàn bà có một lô giai thoại và không thấy xấu hổ gì khi phải thổ lộ tâm tình. Ngồi với bà bên chiếc bàn trong quán rượu cũng giống như lên sân khấu với một đại tài tử, trong một vỏ kịch tình cảm xuất sắc nhất.

Hal nhìn thấy viễn cảnh tốt đẹp, bèn bàn với vài khách quen giàu có và nhanh chóng hùn đủ tiền để mở một quán rượu riêng của họ, lấy tên QUÁN IRENE.

Cái trái tim tượng trưng của quán là tấm ảnh lớn nhạt màu của vị thần phù hộ cho quán, đứa con trai duy nhất của bà chủ: Vinnie.

Vì những lý do được những kẻ mê tín đặt ra, những bức ảnh của người chết thường nhòa nhạt. Irene chỉ thấy con trai nàng một lần duy nhất, lúc nó đã trưởng thành, và lần đó nó đang phi nặng. Vì vậy bây giờ, khi nhìn lên đôi mắt trên khuôn mặt mờ nhạt treo trong quán, thì bà bèn thay đôi mắt đó bằng cặp mắt sống động của gã con trai khác, kẻ đã giúp bà chôn cất con mình. Lắm lúc đôi mắt đó có vẻ trách móc bà, ám chỉ đến chuyện bà đã làm giàu bằng cái chết của con.

Có những ngày Irene bị ám ảnh bởi mặc cảm tội lỗi phi lý đó, và trong những ngày đó người ta thấy bà chặn những cậu trẻ ngoài đường lại, và hỏi họ có nghe gì về Michael không, bây giờ hắn ra sao, ở đâu, làm gì...

♣ ♣ ♣

Trong vùng đồng bằng Serengeti, không ai, ngoại trừ một thanh niên da trắng, người Anh, gọi Wheeler là Ngài, và người da đen gọi ông là Chủ.

Đây là vùng đất cuối cùng còn hoang đã, chưa bị bàn tay người thay đổi.

Những con sư tử dễ bị bắn hạ quá, nhờ khẩu súng săn Mannlicher 234, lại được trang bị thêm ông ngắm Kroll, đến nỗi Wheeler không thèm bắn nữa. Ông nhớ đến lời nói của vợ, và ra lệnh dẫn ông đến gần chỗ nào mà ông có thể nhìn thấy sự thân thiết của một gia đình sư tử. Trong chiếc xe Land Rover, bọn sư tử có vẻ không thèm biết đến ông. Ông ngồi vậy hàng giờ nhìn con sư tử đực ngủ, ngáp, duỗi người, giỡn với đàn sư tử nhỏ, liếm lông nhau, làm tình với nhau, tắm nắng.

Wheeler cảm thấy ông có thể sống hết khoảng đời còn lại trên những cánh đồng xứ Tanzania.

Ông trở nên say mê một con sư tử cái và ba chú sư tử con, ngồi nhiều ngày nhìn chúng. Chúng trở thành gia đình ông.

Một buổi sáng ông thấy con sư tử cái cẩn thận giấu ba đứa con dưới một bụi rậm rồi đi săn mồi. Lúc ả ta vừa đi khuất thì một con sư tử đực già đến, giết ba sư tử con, ăn một con, ngoạm xác con thứ hai, rồi bỏ đi, chắc là dành để ăn về sau. Trên đường đi, con sư tử đực già gặp một sư tử đực trẻ, bị giành mất sư tử con, và Wheeler quyết định xem vở kịch đến đoạn cuối, tức chờ đến khi sư tử cái trở về. Ông muốn xem cô ả sẽ trút sự giận dữ lên đầu con đực nào.

Cuối cùng ả sư tử trở về, tìm thấy đứa con duy nhất, đã chết, nhìn nó một lúc, rồi ăn thịt luôn.

Wheeler lập tức sai tài xế chở mình đến Nairobi, đi liên tục một ngày một đêm. Rồi lấy máy bay VC-10 trở lại London.

Nhớ lại cảnh ở Công viên Grosvenor, ông không rời phi trường London, bay chuyến đầu tiên đi Amsterdam.

Ông nhìn thấy người Hà Lan ăn quá nhiều, đường sá và các nơi công cộng đầy nhóc bọn híppi. Ở đâu cũng có chúng, ngồi bệt trên đất, ông phải lách hoặc bước qua người chúng khi ông đi vào công viên Trung Tâm. Ban đêm, lúc đi dọc các sông đào, ông thấy từng cặp làm tình công khai. Lúc chúng nhìn ông, thì chẳng có vẻ gì thù nghịch, mà gần giống như những con sư tử đã nhìn ông; đối với chúng, không có ông.

Ông bay sang Paris. Ở đây ông có một lá thư của Gavin, với tin tức rằng không một ai có chỉ dẫn gì về thủ phạm giết Alan Kidd. Có lẽ cái tin đó làm ông chán nản. hoặc có lẽ cái cảnh ông chứng kiến ở Amsterdam làm ông hứng tình. Wheeler gọi bồi ngoài hành lang khách sạn ông ở, đi kiếm cho ông một người đàn bà.

Cô nàng rất trẻ, cử động với sự lanh lẹ nghề nghiệp, hoàn tất phận sự đàng hoàng. Wheeler xuất ra, trước khi tiến vào đúng chỗ phải xuất. Trong lúc nàng mặc lại quần áo, ông chợt nhận ra mình đang ở trong một tình trạng hoảng sợ, căng thẳng. Trong hành lang, có một gã trai gầy gò đang đứng nhìn, gợi ông nhớ đến một người nào ông đã thấy. Hắn ta nhìn Wheeler như chỉ chực giết ông, cho đến khi ông đóng cửa lại.

Wheeler không ngủ được, thức dậy hai lần, đi coi lại cửa, rồi nằm đó, thức, và suy tính xem có thể sống yên ổn ở dâu trong phần đời còn lại của mình.

Ông nhớ lại con bò rừng đã thấy ở Phi châu, một con bò rừng già sống ngoài đàn, đứng trong sình lầy ngập đến gốì, giữa một dám lang sói; một con vật hẳn từng khá dữ dằn, lông bờm ngày xưa hùng dũng, bây giờ tang thương, hai cặp chân gầy guộc, bé nhỏ và hơi cong, đầu thì nặng nề, cúi thấp, và nhìn quanh như chờ bị mổ thịt.

Đàn lang sói biết chúng chỉ còn mỗi việc chờ.

Wheeler nói lớn tiếng:

- Ê bạn, bạn còn phải chờ khá lâu.

Trong bữa ăn sáng, một dòng quảng cáo trong tờ London Times cho ông lời giải đáp. Ông sẽ bán khu đất và trang trại của ông ở miền núi, và mua một hải đảo trong vung Bahamas, nguyên cả một hải đảo, sống ở đó an toàn, một mình, trong phần còn lại đời ông.

Chờ đáp chuyến bay qua Mỹ có hàng trăm thanh thiếu niên, tất cả đối với Wheeler đều có vẻ đang làm tình lộ liễu, và tất cả đều có vẻ đang chờ ông đi khuất để giành giật quả đất này.

Trước khi lên máy bay, ông đánh điện cho Gavin hãy tăng tiền thưởng lên năm mươi ngàn đô la.

♣ ♣ ♣

Cesario Flores là người đầu tiên đến sở cảnh sát đòi lãnh tiền thưởng. Ông nói mình biết chắc thủ phạm là Michael Winter, và ông có thể tìm được gã đó. Nhưng ông muốn có tiền trước trong túi.

Cesario đã trở nên cay đắng, và điều làm cho ông trở nên cay đắng như vậy, là sự thay đổi của con người. Ông không là người hùng đối với đám thợ ở xưởng ông mới đến làm việc. Với họ, ông là kẻ đáng ghét, đáng khinh. Họ than phiền rằng, bằng cách này hay lối khác ông luôn luôn nhắc đến vụ án trong mọi câu chuyện, nói đi nói lại mãi, làm như đó là một chuyện tối quan trọng cho cả nhân loại. “Vài vụ đánh lộn, đấm đá xảy ra.” Họ bảo, “Sớm muộn cũng có kẻ giết lão này.”

Cảnh sát cho Cesario biết họ cần phải tóm cổ được thủ phạm, nhốt hắn vào nhà giam, và xử án hắn xong, thì sau đó số tiền thưởng mới có thể được trả.

- Tại sao ông không cho biết hắn đang ở đâu, dù chỉ để đáng đời hắn? – Họ hỏi vậy.

Cesario gằn giọng:

- Các ông cũng như tất cả mọi kẻ khác.

Lúc ra cửa, Cesario lấy trong túi ra tấm ảnh gửi qua bưu điện, xé thành từng mảnh nhỏ, ném tung đi.

Để cho Juana không bao giờ thấy tấm thiếp đó.

Tấm ảnh được gửi cho nàng theo địa chỉ trong căn cứ với dấu bưu điện Jojutla, Morelos, Mehico. Trong khoảng đối diện với tên nàng là hình vẽ hai ngón tay đưa lên thành dấu hiệu hòa bình, và bên dưới có mấy chữ V, viết tắt cho Vinnie.

Lúc người bạn đi nghỉ mát ở Mehico về, nói thoáng thấy Michael ở bên đó, Clifford quyết định bay sang,

Ông đi loanh quanh, nói chuyện với bọn trẻ. Có đến hàng trăm.

Một gã trai biết một cô gái khoe là đã dạy Michael một bài hát. Nhưng để chứng minh được nó đã ở đây hay ở đâu, thì Clifford không thể khám phá ra.

Có tin đồn dai dẳng, dù chỉ là tin đồn hạng hai, cho rằng Michael hay ngồi với một cô gái ngờ nghệch trong công trường Cuernavaca, hay là Cuautla, và nó thường uống những thứ bia và rượu nhẹ của Mehico. Clifford dò đến những nơi đó. Một người bồi ở quán Cuautla có nhớ cặp trai gái đó, nhưng gã chỉ nhớ rõ có mỗi điều là cô gái kia trả tiền.

Trong đêm cuối cùng ở Mehico, Clifford gặp một đám trẻ đã gặp và nói chuyện với Michael vài tháng trước. Chúng bảo trí nhó của gã có vẻ suy yếu – không, không hẳn như vậy, nhưng trí nhớ của gã cứ nhảy lang bang, không tập trung được vào một chủ đề nào cả. Đa số bọn trẻ ngày nay đều như vậy.

Cuối cùng chúng cho ông biết là bây giờ thì gã hẳn đã rời khỏi Mehico.

♣ ♣ ♣

Bây giờ Wheeler đã có được điều ước muốn của ông, nguyên một hải đảo, không có ai khác trên đó, ngoài một cặp vợ chồng trông coi nhà cửa cho ông, và một người coi sóc mấy chiếc thuyền của ông.

Mỗi buổi sáng, một toán da đen đi trên chiếc tàu buồm nhỏ đổ bộ lên đảo. Wheeler không cần nhà thầu. Ông biết nơi nào ông muốn xẻ lối đi, nơi nào cần khai hoang, nơi nào trồng chuối, trồng ngô...

Một hôm, thấy tạm ưng, ông mời Gavin đến.

Bây giờ Gavin đã trở nên nặng nề hơn, mềm yếu hơn. Wheeler nói đùa với chàng về cái giá của sự thành đạt. Rõ ràng là chàng sẽ không bao giờ thành một luật gia vĩ đại, nhưng bằng trực giác, chàng đánh hơi được cách đối phó với quyền hành, cách dàn xếp, cách gây áp lực, cách nhượng bộ, cách móc thành những màng lưới, cách vận động hậu trường, nơi có những con mồi béo bở.

Chàng nói với Wheeler là quyết định mở một chi nhánh ở thủ phủ tiểu bang, và ông nghe như chuyện của một thế giới mà ông không còn quan tâm đến nữa.

- Bây giờ tôi thuê Cy Walker làm việc cho tôi.

Gavin nói. Wheeler chua chát:

- Một trong những thú vị của sự thành công, là ra tay tế độ cho những kẻ kém thành công hơn mình, đặc biệt, nếu họ từng là kẻ thù, lại càng nên ưu đãi hơn.

Rồi ông đứng lên, hét lái thuyền Russel, bảo hắn phải sẵn sàng chiếc xuồng có động cơ năm mươi mã lực vào sáu giờ sáng mai, chứ không phải bảy giờ ba mươi.

Trong ngày cuối cùng của chuyến thăm viếng, hai cha con đi câu cá. Gavin câu được mấy con hai ba ký, nhưng Wheeler khoe là câu được một con năm ký.

Chiều, Russel bày bàn rượu, Wheeler nói:

- Ở đây vẫn còn một chút trật tự. Thử so sánh những người da đen này với bọn da đen của chúng ta. Họ chẳng những thỏa mãn, mà còn hãnh diện về những việc mình làm. Có đúng vậy không, Russel?

- Thưa ông chủ, vâng.

Russel chưa bao giờ thấy người da đen lại không gọi người da trắng là “thưa ông chủ, vâng” cả.

Lúc chia tay, Gavin nói:

- Con sẽ bỏ cái vụ tiền thưởng. Chẳng ai tìm ra gã kia đâu. Cảnh sát cho rằng hắn đã chết. Cha đồng ý?

♣ ♣ ♣

Vài tuần sau, Donna quyết định dời đến thủ phủ tiểu bang, và nhận công việc mà Cy Walker đã mời.

Dĩ nhiên đây là việc làm bình thường, hợp lý nhưng lúc nói chuyện với Cy qua điện thoại, nói rằng vâng, nàng sẽ nhận việc dĩ nhiên, vui lòng gặp lại ông ta, thì Cy có cảm tưởng như nàng đang khóc.

♣ ♣ ♣

Tin tức từ giới sống dưới đáy không lên đến Sở Cảnh sát. Những sinh viên từ đại học Puerto Rico đến New York để dự hội nghị sinh viên nói bằng giọng thán phục về một chàng trẻ tuổi từng tham dự vào vụ đốt phiếu trưng binh trong trụ sở quân dịch ở Rio Piedras, nhưng họ cũng nói thêm rằng hắn có vẻ chua chát.

Một trong những tên sang Cuba chặt mía nói rằng có thấy Michael ở đó, cũng chặt mía, ít lâu sau hắn nghe tin Michael bị trục xuất ra khỏi Cuba.

Cuối cùng, Clifford nhận được một thư từ Algiers. Đứa con trai của ông xin tiền bằng cái giọng chờ bị từ chối. Clifford gửi một bưu phiếu, kèm lá thư năn nỉ con trai cho ông biết thêm tin tức, có câu, Điều làm ba thắc mắc là làm sao con sống được mà không cần tiền. Vì vậy ba sẽ gửi cho con mỗi tháng số tiền nhỏ bé bảy mươi lăm đô la, dù con có muốn hay không? Và đại để vậy.

♣ ♣ ♣

Tháng một lần, người bếp và bồi của ông Wheeler lại lấy chiếc tàu nhỏ để về thăm nhà ở Georgetown, trong hải phận quốc gia. Hôm ấy, trước khi đi, họ dừng lại với Russel, khi đang sửa động cơ năm mươi mã lực của chiếc xuồng. Họ cảnh cáo hắn là nên lắp ngay các bộ phận lại, vì ông chủ có thể đi câu cá bất kỳ.

Điều mà họ không cho Russel biết là ông chủ đã bảo họ đi kiếm người thay hắn, bởi phật lòng khi biết hắn đưa hai người đàn bà đến ngôi nhà dành cho hắn. Hai ả ít khi ra ngoài, nhưng ban đêm ông Wheeler có thể nghe cả ba cười đùa, làm tình với nhau.

Lúc người bếp và người bồi trở về, vào sáng thứ hai, họ thấy động cơ vẫn chưa được lắp lại. Trên tấm vải cũ, nơi các bộ phận cơ khí được xếp đặt, có những vết máu. Trên bãi cát, gần bến đậu xuồng có con dao mà Russel thường dùng để làm cá. Con dao rơi từ các kẽ hở của ván xuống, và vấy máu,

Chiếc xuồng biến mất, cùng với động cơ dự trữ năm ngựa. Russel cũng biến đi, với những ả sống cùng hắn.

Lúc dời đảo, họ nhận thấy cá mập bơi nhiều trong cái vịnh nhỏ. Lúc họ báo cáo cho ông đại úy có trách nhiệm trong vùng về việc mất tích của Russel, ông ta nhận xét rằng biển Caribea là một vùng quá rộng.

Đầu năm sau, một sĩ quan không quân hồi hưu bắn chết tên tóc dài đã dụ dỗ con gái ông. Luật sư biện hộ không nghĩ đến việc cần phải viện lý do hỗn loạn thần kinh tạm thời.

Vài tháng sau, bưu phiếu và thư của ông Clifford được trả về.

Trong một thời gian, vài ba người còn hỏi han nhau hắn đang ở đâu, hắn là hắn phải ở một nơi nào đó, dĩ nhiên. Và họ trả lời nhau, dĩ nhiên, hắn phải ở đâu đó.

Rồi một mùa trôi qua, một năm trôi qua...

♣ ♣ ♣

Đám tang Vinnie làm nên huyền thoại, nhất là về các thứ ném xuống huyệt. Vậy là sớm muộn cũng sẽ bị quật mồ lên để tìm những gì có thể lấy đi.

Và những người từng dự đám tang được thuê làm việc đó. Không một nỗ lực nào thành công. Gió và sa mạc đã xóa sạch mọi dấu vết.

♣ ♣ ♣

Không lực thứ ba lớn nhất thế giới nằm nhàn rỗi trên vùng cát của khu tồn trữ và phế thải quân sự thuộc căn cứ không quân Davis Monthan, Arizona.

Tại sao lại ở đây? Bởi vì ở đây thời tiết khô ráo, và đất cát có rất ít chất cường toan. Như vậy phi cơ sẽ ít bị hư hại. Máy bay mà không được bay dứt khoát sẽ hư hại. Nhưng ở đây nó hư chậm hơn.

Vậy là chúng nằm đây, sức mạnh của Mỹ quốc, câu trả lời của chúng ta đối với sự thách thức của lịch sử, niềm hãnh diện, hình ảnh, danh tính chúng ta, nằm đó.

Chiếc A-IE Sky Raider, chiếc A-3 Sky Warrior, chiếc A-4 Sky Hawk, chiếc A-7A Corsair, chiếc B-26 Invader, chiếc B-29 Superfortress, chiếc B-52 Stratofortress, chiếc B66 Destroyer...

Và còn nhiều nữa.

Chiếc C-46 Commando, chiếc C-54 Sky Master, chiếc C-117 Lift Master, chiếc C-124 Globe Master, chiếc C-133 Cargo Master...

Và còn nhiều nữa.

Het