← Quay lại trang sách

Chương 9 1-

Khoảnh khắc sau bình minh của ngày chủ nhật thường lặng lẽ. Không nhân vật đáng kể nào ra đường. Lác đác chỉ có đôi ba người da đỏ, lạc lõng trên đất tổ của họ, một gia đình Mehico đến miền Bắc để mua sắm trong ngày nghỉ cuối tuần, những người đi đêm cuối cùng đang muốn ngủ, những kẻ đầu tiên dậy sớm không thể ngủ lại... và đám người rời rạc đó đi lang thang không mục đích, hay đứng ở các góc đường chờ đến giờ thành phố sinh hoạt lại.

Cả chuông nhà thờ San Felipe cũng dịu dàng hẳn. Chúng rủ rỉ chứ không giục giã. Lễ nhất vẫn thường thưa thớt.

Thành phố đang xây cất một trung tâm cộng đồng mới, một lô những tòa nhà dựng lên từ bãi cát hồng, từ những vỡ vụn xa xưa của đá sỏi. Các kiến trúc sư đã chọn ngay loại cát màu hồng pha nâu này để trộn với ximăng. Những kiến trúc đã hoàn tất được một nửa có vẻ hòa hợp với đất đai, tưởng chừng đã có từ lâu. Đặc biệt ngày chủ nhật, khi không có hoạt động gì, những kiến trúc đó gợi nhớ cho người ta những di tích của một nền văn minh đã biến mất từ lâu, những khối đồ sộ, những tỷ lệ khổng lồ hòa hợp với những rặng núi lởm chởm đứng sau và trên những kiến trúc đó, trong sự im lặng của chúng.

Dân chúng hãnh diện về sự mở mang này. Những kiến trúc sư giỏi, những nghệ sĩ biết tôn trọng truyền thống đang dựng lên một trung tâm quận, với những công thự dành cho các cơ quan hành chính, tòa án, và một tòa thị sảnh mới, trong đó bao gồm cả một sở cảnh sát đủ khả năng đáp ứng nhu cầu càng ngày cao của quận. Trong khu này cũng sẽ có hai sân vận động thích hợp cho mọi loại thể thao cũng như cho các cuộc hội họp chính trị.

Trụ sở tòa án quận mới là kiến trúc đồ sộ nhất trong các kiến trúc này, có lẽ là vì người thiết kế ý thức được cái ý nghĩa tượng trưng tại mặt tiền của nó, gợi cho người ta cái cảm tưởng oai vệ và công lý.

Khoảng bẩy giờ ba mươi sáng hôm đó, có hai người khách đến thăm khu này, bước qua một hàng rào kẽm gai mà những xe vận tải đã cán sát xuống đất. Họ đi qua những văn phòng lưu động của công trường được gắn máy lạnh, qua hàng xe ủi đất, những chiếc vận tải khổng lồ mang nhãn Empires và Internationals, những xe lăn đường, xe xúc...

Họ đi qua xưởng đồng, xưởng làm ống nước vắng vẻ vì thợ nghỉ cuổi tuần. Lúc hai người khách đi dạo chậm rãi theo nhịp điệu sinh hoạt của sáng chủ nhật này, họ nói chuyện với nhau. Người lớn tuổi, trung úy không lực Mỹ, là một thanh niên đẹp trai, cân đối. Người kia, một thiếu niên thì đúng hơn, đi như đi một mình.

Dáng điệu của trung úy có vẻ gượng ép song quyết liệt, như đang ra chỉ thị cho gã thiếu niên, và có lúc, như khiển trách gã. Theo vẻ ngoài, không biết gã thiếu niên tán thành hay phản đối, thậm chí gã có nghe hay không. Trung úy tự trả lời câu hỏi không được trả lời:

- Phải, đến lúc này thì tôi đã biết cái gì hay cái gì tốt cho anh. Và tôi coi đấy là nhiệm vụ của mình! Tôi không có ý đứng ngoài nhìn anh hủy hoại đời sống. Tôi sẽ cứu thoát anh, dù anh muốn hay không.

Chuông nhà thờ San Felipe vang lên, nhẹ nhàng. Viên trung úy đưa ra từng điểm một:

- Bởi vì cái đầu tiên mà thù hận hủy diệt, là kẻ thù hận. Anh không còn là con người mà tôi gặp trước đây vài tuần. Nếu anh tiếp tục thế này ít lâu nữa, thì rồi ở anh không còn gì là tốt đẹp nữa. Tôi không nói là anh sai trong tình cảm của mình. Nhưng lúc này, hãy dành nó cho chính anh. Hãy cố sống chung với sự bất công.

Họ đáng đi qua những đống vật liệu cao ngất, chờ đợi được sử dụng vào ngày thứ hai. Mọi thứ cần dùng đều sẵn sàng. Sự giàu có, hùng mạnh của Hoa Kỳ được trưng bày ở đây, dành sẵn cho những người xây dựng.

- Michael, anh có thể trở thành bất cứ ai, làm bất cứ việc gì. Cái quốc gia này, anh chỉ cần quyết tâm trở thành một phần của nó. Đất nước đang chờ những chàng trai như anh lãnh đạo nó, cứu thoát nó. Nếu bây giờ anh quay mặt bỏ đi... Michael, để ý nghe tôi đã.

Một cặp bồ câu bay lên vụng về qua khung cửa sắt. Bên trong là sân vận động. Hai người đi vào.

- Bây giờ chúng đang lùng kiếm anh, song anh vô tội, và thừa sức chứng minh điều đó. Anh không thể sống như một tên tội phạm trốn tránh pháp luật. Tất cả việc anh làm là chỉ mang vào phòng khách sạn một cái va ly rỗng, cho một tên ngu ngốc đái vào mạng sống của hắn bởi một hành động vô nghĩa, vô ích...

Alan trao cho Michael tấm danh thiếp:

- Anh có thể gọi hắn theo số này, ban đêm, và số này, ban ngày. Gọi tổng đài. Rồi anh sẽ ngạc nhiên, nếu anh chịu làm, thấy hắn thông minh, tử tế thế nào. Tôi cũng đã ngạc nhiên. Hắn chỉ muốn giúp anh mà thôi. Hắn có thiện ý hơn anh tưởng...

- Anh có cho hắn biết là gặp tôi sáng nay không?

- Có, tôi có nói với hắn.

- Lúc nào?

- Ngay trước khi đi ra gặp anh. Hắn bảo tôi nên nói với anh là hắn muốn giúp đỡ anh, về mọi mặt...

- Anh có nói với hắn là gặp tôi ở đâu không?

- Không.

Alan đang nhìn lên trần, nơi có một bộ đèn vừa được lắp, nói:

- Nhiều lúc tôi mong ước trở thành kiến trúc sư.

Alan đi ra cửa. Đây là chặng cuối của vòng đi dạo.

- Hỏi thêm, bây giờ anh sống ở đâu?

Michael quay đi không trả lời.

- Michael...?

- Ai muốn biết?

- Hắn muốn biết. Để hắn có thể liên lạc và…

Đó là lúc Michael tiến lại phía Alan, nhìn chàng bằng đôi mắt của con thỏ, rồi ôm lấy người biết những gì tốt nhất trong gã.

♣ ♣ ♣

Người gác sáng chủ nhật đó đến đánh thức đồng nghiệp của hắn vẫn ngủ say trong chiếc móoc hậu dành cho họ. Người gác phiên ngày cũng đang ngủ say, sau một đêm vui.

Nhưng nếu đang thức và tỉnh táo, hắn cũng chẳng nghe được gì từ trong những phòng đó, một âm thanh ngắn gọn được áo quần làm giảm bớt đi nhiều. Hoặc nếu có để ý thấy hai người đi vào song chỉ có một người đi ra, bước qua hàng rào bị áp sát xuống đất, đến chiếc xe VW đậu chờ, thì hắn cũng chẳng hiểu gì.

♣ ♣ ♣

2

Họ đi chưa quá một dãy phố thì Michael bảo Wally dừng xe để gã bước xuống, vào một cabin điện thoại, đứng đó, khép cửa lại, nhưng không nhấc máy lên. Wally đoán chừng gã buồn đái. Đái được một phát cũng làm con người bớt khiếp sợ. Ai đã từng đi lính đều biết chuyện đó.

Rồi Michael bước ra ngoài, đứng giữa ánh nắng, nhìn những đoàn người đạo đức đi lễ sớm tại nhà thờ San Felipe. Sốt ruột, Wally đưa đầu ra khỏi cửa xe gọi, nhưng Michael không nghe hắn, mà lại đi cùng một gia đình, theo họ vào nhà thờ.

Wally không dễ dàng hốt hoảng, nhưng quyết định đi tìm Michael, và thấy gã trước một bàn thờ, gần cửa hông, nhìn vào một lá cờ dài bằng nhung trên đó viết dòng chữ Phải chờ một người xuống thế lần nữa.

- Về đi, Michael. – Wally nói.

Michael có vẻ không muốn đi ra. Thực sự, gã chẳng những không muốn rời bỏ các tín đồ trong nhà thờ mà còn không muốn rời bỏ thành phố, Ngay cả khi xe đã lăn bánh gã vẫn còn muốn dừng lại nhìn bọn trẻ chơi giỡn trong công viên.

Rồi xe vẫn ra xa lộ, đi về miền Tây. Michael ngủ.

Hai giờ sau, Wally đi vào khu phụ cận thành phố Tucson, rồi quẹo sang xa lộ Tình thân hữu biên giới quốc tế, hướng về phía Nam, thẳng như một mũi tên, băng qua sa mạc trông vắng, về phía những dãy núi đã từng là sào huyệt của quân da đỏ Cochise, nơi đó Geromino đã tung quân ra đánh phá, lui về ẩn nấp, rồi lại xuất quân. Michael thức giấc:

- Tao thích ăn một chút kem lạnh.

- Có cái quán ở Benson, tao sẽ đánh thức mày dậy.

- Tốt. Chúng mình sẽ mua ít bánh ngọt nữa.

Lúc Michael thức dậy, thì họ đã vào và ra khỏi Benson, đang đến gần Tombstone. Wally hỏi:

- Mày thấy sao?

- Tao không biết. Tao chưa bao giờ thấy một người chết, trước đó. Bây giờ tao đang cố gắng xem... Thật khó tin được là chính tao làm. Mày biết, dễ quá. Mau thật. Chỉ cần một giây.

Tombstone là thành phố của du khách. Những lão già đội mũ cầu thủ túc cầu trông chướng mắt trên mớ tóc hoa râm, hoặc trên đầu hói của họ, mang xăngđan, hay giầy da mềm, và đi theo họ là những bà vợ khoác lưới để giữ tóc và đi giầy vải, thất thểu trong cái khu ngày xưa đã là chỗ tung hoành của đám người hùng viễn Tây.

Trên xa lộ đến Bisbee, họ vặn máy thu thanh, nhưng chưa có tin gì đặc biệt. Michael nói:

- Chúng mình quên ghé quán kem.

- Đến Bisbee chúng mình sẽ kiếm quán khác.

Wally cố tình đưa Michael nhanh qua biên giới. Từ máy thu thanh, một Thượng nghị sĩ tiểu bang Florida tuyên bố rằng bất đồng là một phần trong chế độ, nhưng bạo động thì không thể chấp nhận. Michael vặn sang đài Mehico. Bây giờ họ đang đến gần xứ đó, và âm nhạc làm họ thấy dễ chịu. Gã lại ngủ tiếp.

Đến Bisbee, Wally dừng lại ở trạm xăng, trước một tượng đồng gọi là tưởng niệm những người hùng thợ mỏ đồng đã tạo lập tiểu bang này. Trong lúc đổ xăng, người chủ trạm kể chuyện trước đây Bisbee là một thành phố phồn thịnh, với một mỏ đồng hoạt động tối đa, sử dụng hàng vài chục ngàn người. Bên dưới thành phố có đến năm chục dặm đường hầm khai thác đồng. Nhưng bây giờ mỏ đóng cửa, hãng Phleps Dodge sắp dọn đi nơi khác và Bisbee đang trở thành một thành phố hoang.

Michael muốn nghe thêm chuyện đó, nhưng Wally đã trả tiền rồi vội lái xe chạy đi.

Vào thành phố, Michael càng có vẻ một du khách nhàn rỗi đầu óc thanh thản, và thừa thì giờ. Gã đòi dừng xe để dạo bộ loanh quanh. Nhiều khách sạn, hàng quán đã đóng cửa, nhưng khách sạn Nữ Vương Đồng thì vẫn mở. Hai người vào uống cà phê, ăn kem. Michael ăn một lúc hai ly, rồi đòi đi dạo tiếp.

Gã gặp một cụ già trên đường, độ tám mươi tuổi, còn được trên một chiếc răng rưỡi trong miệng, nhưng rất khoái nói chuyện. Wally giục Michael đi. Nhưng gã không chịu:

- Wally, tao thích nói chuyện với lão già này. Tao sẽ không bao giờ được gặp lại lão nữa. Wally, không bao giờ, mày hiểu không, vậy mày đừng giục tao.

Cụ già hóa ra là một học giả nghiên cứu về văn chương Hy Lạp, và không hiểu sao lại lạc lõng đến xứ này? Vừa mỉm cười ranh mãnh cụ vừa ca tụng nữ thi sĩ Sappho, đề cao nàng hơn tất cả những nhà thơ Hy Lạp nào khác, hơn cả Sophocles lẫn Homer. Rồi cụ dài dòng về cuộc tranh biện xa xưa giữa thi sĩ Ovid và Sappho. Cụ thách Wally: nếu nàng Sappho có máu đồng tính và chỉ khoái đàn bà, thì cũng ăn nhằm gì đến ai?

Cuối cùng cụ mời Michael về nhà, bởi ở đó, cụ có thể ngâm thơ Sappho cho gã nghe. Lần này Wally làm mạnh. Không. Họ không thể đến nhà cụ. Họ xin kiếu.

Đến đây, ông cụ quay sang Wally, và không hiểu tại sao ông cụ lại cho hắn biết tin lạ, rằng Thiên Chúa giáo là trò bịt mắt vĩ đại nhất thế giới kim cổ, lịch sử Đông Tây, vì nó đã quay mặt nhân loại từ lý trí sang dị đoan, đắm chìm lý trí của nhân loại trong đợt sóng của cái thứ luân lý Do Thái, và thế là ông lại say mê đi vào một đề tài mới chắc chắn còn dài dòng hơn thơ và hạnh kiểm của nữ thi sĩ Sappho.

Cuối cùng Wally cũng lôi được Michael đi. Họ còn thấy ông cụ vẫy tay tiễn biệt.

Lúc ra khỏi thành phố, họ thấy một hố sâu khổng lồ, đủ ném xuống đó cả chục đô thị, và đó là mỏ đồng của hãng Phleps Dodge. Quanh cái hố vĩ đại đó có hàng rào, nhưng không thấy bảng cấm nào. Lúc nhìn xuống cái hố đó, Michael có thể thấy một con chim đang bay ngang qua. Gã nói:

- Thôi đi. Chúng mình qua biên giới.

Họ đi qua những ngọn đồi cuối cùng và ùa vào một đồng bằng trước mặt dãy núi đầu tiên của Mehico. Đất đai trở nên khô cằn hơn, và sẫm màu hơn. Ngay trước thành phố nhỏ Naco, phía Hoa Kỳ, nơi họ sắp vượt biên giới để sang thành phố Naco thuộc Mehico, có một bãi cỏ xanh nhỏ, như sân bóng, trên đó có hai người chơi.

Sở Di trú Mỹ không để ý đến những công dân đi ra khỏi nước. Sở Di trú Mehico cũng không thèm quan tâm đến những người vào nước họ. Wally đã chọn trạm biên giới Naco, vì ở đây, hai bên đều ngái ngủ cả.

Một, tên lính cửa khẩu tí hon mặc bộ đồng phục nóng bức vẫy tay cho họ qua.

Mehico! Michael xuống xe và nằm dài ra. Rồi gã nhìn quanh. “Đây là nơi Cesario Flores ra đời.”

Họ đến khách sạn Độc Lập, bưu điện, nhà hàng Zafira... Michael đi chậm rãi giữa đường phố bẩn thỉu, qua những rạp hát, hàng quán đóng cửa, bỏ hoang.

Gã đứng ngay giữa đường rộng, đầy bụi, cảm thấy khoái trá.

Thèm một hộp bia, họ đi vào khu hàng quán. Xem chừng trước đây có người nào đó đã hy vọng Naco có thể trở thành một thành phố du lịch cho các du khách Mỹ như Nogales, hay tối thiểu cũng như thành phố nhỏ Tijuana, nhưng may thay, hay rủi không biết, Naco đã không được cái số phận đó. Vì vậy bây giờ khu hàng quán, hộp đêm mang những cái tên hấp dẫn như Casa Rosa, Casablanca, Arco Iris, Blue Moon đều đóng cửa, và bên trong những chuồng ngựa dự tính để những cô gái da nâu chờ khách, bây giờ hoang vắng.

Họ tìm thấy Crystal Palace Hotel còn mở cửa, còn có vài cô gái đứng trên lan can nhìn ra, và một cô trông khá no tròn đi dạo dưới hàng cây. Wally thích nán lại, nhưng Michael bỗng lại có vẻ dụt dè, và lần đầu tiên có óc thực tế, chủ trương đi hỏi giờ tàu.

Chuyến tàu đang đậu chờ, Michael vào quầy mua vé, đi đến nhà ga Guadalajara, và đó là chặng cuối của đoạn đường xe hỏa này. Gã cố moi vài tiếng Tây Ban Nha để hỏi người bán vé bao giờ tàu chạy, và được trả lời bằng tiếng Anh “Chút xíu nữa. Chút xíu nữa.”

Họ vào quán cà phê Reguladera uống giải khát và chờ tàu. Wally hỏi:

- Mày thấy sao?

- Tao vẫn không biết tao đang cảm thấy thế nào.

- Đừng thắc mắc. Chang thay đổi gì được đâu.

- Nếu tao cũng nghĩ vậy, là chẳng thay đổi gì được, thì tao sẽ cảm thấy nản lắm. Tao làm như vậy vì...

Gã ngừng nói và nhìn ra đoàn tàu. Vài người dang bước lên. Gã tiếp:

- Tao không thù ghét gì hắn. Tao luôn luôn khoái hắn. Tao khoái hắn hơn nhiều tên khác.

- Tao tưởng chỉ có tao khùng. – Wally nói. - Không ngờ mày? Chúng mày còn quá lạc quan, chúng mày còn tin được rằng tình trạng sẽ khá hơn, chúng mày mới đúng là bọn nguy hiểm. Một thằng nghiện như tao không bao giờ nghĩ là có thể thay đổi gì được,

Quanh đoàn tàu có cảnh chen lấn. Tiếng máy vang lên. Wally nhìn bạn chăm chú, cảm tưởng rõ rệt là đang nhìn một kẻ điên, và muốn xa hẳn Michael, nói:

- Đi thôi. – Wally đứng lên.

Michael để lại ít tiền trên bàn, rồi đi lại phía đoàn tàu, gồm một toa hạng hai, một toa bưu điện, một toa đặc biệt, một toa chở hàng, và một toa chở súc vật. Một người mặc đồng phục hỏa xa Mehico từ trong nhà bước ra với một túi đựng thư từ, gần như rỗng, ném lên toa bưu điện. Đây được coi là hiệu lệnh, và bạn bè từ biệt nhau, thân quyến ôm hôn nhau.

Ngay lúc đó, ngay trước khi đoàn tàu chuyến bánh. Michael nói:

- Thiên hạ sẽ phải nhớ đến vụ đó, một thời gian... Wally, thiên hạ không thể quên được vụ đó, trong một thời gian, phải không mày?

- Đừng hỏi tao.

Hắn chìa tay ra, nhưng Michael ôm hôn hắn theo lối Mehico.

Rồi bước lên tàu.