← Quay lại trang sách

Chương 15 TRIS

TÔI LẤY TẤM hình từ trong túi ra. Người đàn ông đang đứng trước mặt tôi – ông David – cũng có mặt trong hình, đứng cạnh mẹ tôi, gương mặt mịn màng hơn một chút, vòng bụng gọn hơn một chút.

Tôi che mặt mẹ tôi lại bằng đầu ngón tay. Tất cả những hy vọng đã lóe lên trong tôi đã tắt ngúm rồi. Nếu mẹ tôi, hay ba tôi, hay bạn bè tôi còn sống, họ đã chờ ở cửa khi chúng tôi đến. Đáng ra tôi phải sáng suốt hơn thay vì chỉ chăm chăm suy diễn chuyện đã xảy ra với ông Amar – bất kể nó là chuyện gì – có thể tái diễn một lần nữa chứ.

“Tôi là David. Như Zoe có lẽ đã giới thiệu với các cô cậu, tôi là người đứng đầu Cục An sinh Di truyền. Tôi sẽ cố gắng hết sức để giải thích mọi chuyện,” ông David nói.

“Điều đầu tiên các cô cậu nên biết đó là thông tin mà Edith Prior nói với các cô cậu chỉ chính xác có một phần thôi.”

Nói tới cái tên Prior, ông ta nhìn tôi. Người tôi run lên vì chờ đợi – kể từ khi xem đoạn băng, tôi luôn khao khát muốn biết câu trả lời, và tôi sắp sửa biết rồi đây.

“Bà ấy đã cung cấp vừa đủ thông tin các cô cậu cần để đạt được mục tiêu thí nghiệm của chúng tôi,” ông David nói. “Và trong nhiều trường hợp, điều đó có nghĩa là nói giảm, lược bỏ và nói sai toàn bộ. Giờ các cô cậu đã ở đây rồi thì những thứ đó không còn cần thiết nữa.”

“Các vị cứ nhắc về những ‘thí nghiệm, ’” Tobias nói. “Thí nghiệm nào? ”

“Đúng vậy, chà, tôi chuẩn bị nói tới nó đây.” Ông David nhìn ông Amar. “Họ đã bắt đầu từ đâu lúc giải thích cho cậu nhỉ?”

“Bắt đầu từ đâu không quan trọng. Anh không thể biến nó thành thứ dễ nuốt đâu,” ông Amar đáp, tay cạy cạy lớp da tay.

Ông David cân nhắc một lúc rồi hắng giọng.

“Cách đây rất lâu, chính phủ Hoa Kỳ…”

“Hoa gì cơ?” Uriah thắc mắc.

“Đó là một đất nước,” ông Amar giải thích. “Một nước lớn.

Nó có những đường biên giới đặc biệt và cơ quan cai quản riêng, và ngay hiện giờ đây chúng ta đang ở giữa đất nước đó.

Chúng ta có thể nói về nó sau. Mời tiếp tục, thưa ngài.”

Ông David nhấn ngón tay cái lên lòng bàn tay và mát-xa tay, rõ ràng là mất bình tĩnh vì bị cắt ngang.

Ông ta bắt đầu lại:

“Vài thế kỷ trước, chính phủ của đất nước này bắt đầu hứng thú với việc buộc người dân phải cư xử theo những khuôn phép lý tưởng nhất định. Đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng các xu hướng bạo lực phần nào bắt nguồn từ chính những loại gen của con người – một gen tên ‘gen sát nhân’ là loại đầu tiên, nhưng còn một số loại khác nữa, về mặt di truyền học thì bẩm sinh đã thiên về hèn nhát, dối trá, ngu dốt – nói cách khác là tất thảy những phẩm chất cuối cùng sẽ dẫn đến một xã hội tàn lụi.

Chúng tôi được dạy rằng mọi môn phái được hình thành để giải quyết một vấn đề, vấn đề về bản chất thiếu hoàn thiện của chúng tôi. Rõ ràng những người ông David đang mô tả, dù họ là ai đi nữa, cũng tin rằng vấn đề đó có thật.

Tôi biết rất ít về di truyền học – chỉ là những đặc điểm ba mẹ truyền cho con cái mà tôi thấy được, trên mặt tôi và trên mặt của bạn bè tôi. Tôi không tưởng tượng ra được có một gen tách biệt cho bản tính sát nhân, hay hèn nhát, hay dối trá. Đó là những thứ quá sức mơ hồ để có một vị trí cụ thể trong cơ thể một con người. Nhưng tôi không phải là một nhà khoa học.

“Rõ ràng có một số nhân tố giữ vai trò quyết định tính cách con người, bao gồm cả điều kiện sinh trưởng và những trải nghiệm riêng,” ông David nói tiếp, “nhưng mặc cho nền hòa bình và thịnh vượng đã ngự trị ở đất nước này trong gần một thế kỷ, tổ tiên của chúng ta dường như vẫn thấy sẽ thuận lợi hơn nhiều nếu giảm được nguy cơ xuất hiện của những đức tính không mong muốn trên trong dân chúng bằng cách sửa chữa chúng. Nói cách khác, bằng cách sửa chữa lại nhân cách con người.

“Đó là lý do các thí nghiệm điều chỉnh di truyền học ra đời. Phải mất vài thế hệ mới thấy được kết quả của công tác điều chỉnh di truyền, nhưng có nhiều người trong toàn thể dân cư đã được chọn ra với số lượng lớn, căn cứ trên tiểu sử và hành vi, và họ được trao cho một chọn lựa, đó là họ có thể tặng cho thế hệ tương lai một món quà, một sự thay đổi trong gen sẽ khiến hậu duệ của họ tốt đẹp hơn một chút.”

Tôi nhìn những người khác. Miệng Peter cong lên khinh khỉnh. Caleb cau mày. Chị Cara thì há hốc mồm, cứ như đang đói câu trả lời và định cạp nó từ trong không khí vậy.

Christina nom nghi hoặc, một bên lông mày nhướn lên, còn Tobias thì đang cắm cúi chú mục xuống chân.

Tôi có cảm giác như những điều đang nghe chẳng có gì mới mẻ hết – cũng y như thứ triết lý đã sinh ra các môn phái mà thôi, thao túng con người để điều chỉnh gen của họ thay vì phân chia thành các nhóm theo đức tính. Tôi hiểu chuyện đó. Trên một mức độ nào đó tôi còn đồng tình nữa kìa. Nhưng tôi không hiểu chuyện đó thì liên quan gì đến chúng tôi, ngay tại đây, ngay bây giờ.

“Nhưng khi việc điều chỉnh di truyền bắt đầu phát huy tác dụng, những biến đổi đã mang lại những kết quả thảm hại. Hóa ra kết quả của nỗ lực đó không phải là những gen đã được sửa chữa mà là những gen hư hại,” ông David nói.

“Lấy đi nỗi sợ hãi, sự dốt nát và dối trá của một người…

tức là anh đã lấy đi lòng trắc ẩn của họ. Lấy đi tính hiếu thắng của một người là anh lấy đi động lực, hay khả năng khẳng định bản thân của họ. Lấy đi sự ích kỷ của họ là anh đã lấy đi sự thúc bách tự nhiên để sinh tồn. Nếu các cô cậu suy nghĩ kĩ về việc đó, tôi chắc các cô cậu sẽ hiểu chính xác điều tôi muốn nói.”

Tôi đánh dấu từng phẩm chất một trong đầu trong lúc ông ta nói – sợ hãi, ngu dốt, dối trá, hiếu thắng, ích kỷ. Ông ta đang nói đến các môn phái. Và ông ta nói đúng rằng mỗi phái đều đánh mất một điều gì đó để có được một đức tính nổi trội: phái Dauntless, can đảm nhưng tàn nhẫn; phái Erudite, thông minh nhưng hão huyền; phái Amity, ôn hòa nhưng bị động; phái Candor, thành thật nhưng vô tâm; phái Abnegation, không vị kỷ nhưng bị gò bó.

“Con người chưa bao giờ là hoàn hảo, nhưng những biến đổi gen đã khiến tình hình tồi tệ như chưa bao giờ tệ hơn. Việc này thể hiện trong cái mà chúng tôi gọi là Cuộc Thuần Chiến. Một cuộc nội chiến, nổ ra giữa những người có gen hỏng và chính phủ cùng với tất cả những ai có gen lành. Cuộc Thuần Chiến đã gây ra một mức độ tàn phá chưa từng có trước đó trên đất Mỹ, giết chết gần phân nửa dân số cả nước.”

“Hình lên rồi,” một người ngồi ở một cái bàn trong phòng điều khiển lên tiếng.

Một bản đồ hiện ra trên màn hình phía trên ông David.

Hình dạng nó nhìn lạ hoắc, nên tôi không biết đó là bản đồ của cái gì, nhưng nó được phủ kín với những đốm đèn màu hồng, đỏ và đỏ thẫm.

“Đây là đất nước của chúng ta trước Cuộc Thuần Chiến,” ông David thuyết minh. “Và đây là sau khi…”

Ánh đèn bắt đầu tắt đi, những cái đốm tắt dần và rút lại như những vũng nước nhỏ đang khô dần dưới ánh mặt trời. Rồi tôi nhận ra những đốm đèn màu đỏ chính là con người – con người, đang biến mất, ánh đèn tượng trưng cho họ đang tắt dần. Tôi nhìn chằm chằm lên màn hình, không thể tin nổi một sự mất mát lớn lao như thế.

Ông David nói tiếp, “Khi cuộc chiến cuối cùng cũng chấm dứt, người dân yêu cầu phải có một giải pháp vĩnh viễn cho vấn đề về gen. Và đó là lý do Cục An sinh Di truyền được thành lập. Được trang bị với tất cả các kiến thức khoa học để chính phủ tùy nghi sử dụng, những người tiền nhiệm của chúng tôi đã thiết kế nên các thí nghiệm để phục hồi con người về lại trạng thái thuần chủng về mặt di truyền học.”

“Họ triệu tập những cá nhân đã bị tổn thương về mặt di truyền để Cục có thể thay đổi gen cho họ. Sau đó Cục đưa họ vào những môi trường an toàn để ổn định về lâu về dài, trang bị cho họ những phiên bản huyết thanh cơ bản để giúp họ điều hành xã hội của mình. Họ sẽ phải chờ thời gian trôi đi – hết thế hệ này đến thế hệ khác, chờ mỗi thế hệ sản xuất ra nhiều con người được chữa lành gen hơn. Hay như các vị biết họ với cái tên…

pergent.”

Kể từ khi cô Tori nói cho tôi biết cái từ miêu tả con người tôi – pergent – tôi đã luôn muốn biết ý nghĩa của nó. Và đây là câu trả lời đơn giản nhất tôi nhận được: “pergent”

nghĩa là gen của tôi đã được chữa lành. Thuần khiết. Toàn vẹn. Tôi nên cảm thấy nhẹ nhõm vì cuối cùng cũng biết câu trả lời mới phải. Nhưng tất cả những gì tôi cảm thấy là như có cái gì đó mới xìu xuống, ngứa ngáy, khó chịu trong đầu.

Tôi từng nghĩ rằng “pergent” giải thích mọi thứ tôi đã là và mọi thứ tôi có thể trở thành. Có lẽ tôi đã lầm.

Tôi bắt đầu cảm thấy khó thở khi bức màn bí mật mới được vén lên bắt đầu len vào tâm trí và trái tim tôi, khi ông David đã lột trần lớp vỏ dối trá và bí mật. Tôi sờ lên ngực để cảm nhận được tim mình đang đập, cố gắng làm mình bình tĩnh lại.

“Thành phố của các bạn là một trong những thí nghiệm để hồi phục gen, và đến giờ là thí nghiệm thành công nhất, nhờ vào định lượng biến cải hành vi. Chính là các môn phái.” Ông David mỉm cười với chúng tôi, như thể chúng tôi nên lấy đó làm tự hào, nhưng tôi không hề thấy tự hào. Họ đã tạo ra chúng tôi, họ định hình thế giới của chúng tôi, họ bảo chúng tôi những điều phải tin.

Nếu chính họ đã bảo chúng tôi phải tin vào thứ gì đó, và chúng tôi đã không làm điều đó trong sự tự nguyện thì liệu nó có còn thật không? Tôi áp tay lên ngực chặt hơn.

Bình tĩnh.

“Các môn phái là nỗ lực của những người tiền nhiệm của chúng tôi nhằm kết hợp yếu tố ‘tác động môi trường’ vào cuộc thí nghiệm – họ khám phá ra rằng chỉ đơn thuần sửa chữa gen thì không đủ để thay đổi cách con người cư xử. Một trật tự xã hội mới, cộng với sự điều chỉnh về di truyền, được xác định là giải pháp hoàn chỉnh nhất cho các rắc rối về hành vi mà những hư hại về gen đã gây ra.”

Nụ cười của ông David biến mất khi ông ta nhìn khắp lượt chúng tôi. Tôi không biết ông ta trông mong điều gì – chờ chúng tôi toe toét cười lại với ông ta chăng? Ông ta tiếp tục, “Các môn phái sau đó được áp dụng vào hầu hết các thí nghiệm khác của chúng tôi, ba trong số đó vẫn đang hoạt động. Chúng tôi đã trải qua một quá trình dài dằng dặc để bảo vệ các bạn, quan sát các bạn, và học từ các bạn.”

Chị Cara đưa tay vuốt tóc, như kiểm tra xem có sợi tóc nào bung ra không. Không tìm thấy gì, chị ấy nói, “Vậy khi bà Edith Prior nói chúng tôi phải quyết định vụ pergent và ra ngoài để giúp các ông, đó là…”

“‘pergent’ là cái tên chúng tôi quyết định đặt cho những người đã tiếp cận được với mức độ gen lành lặn mong muốn,” ông David nói. “Chúng tôi muốn đảm bảo rằng những người đứng đầu thành phố các bạn trân trọng họ. Chúng tôi không ngờ thủ lĩnh của phái Erudite lại bắt đầu săn lùng và hạ gục họ – hay cũng không ngờ phái Abnegation nói cho cô ta biết họ là ai – và trái với những gì Edith Prior nói, chúng tôi chưa bao giờ thực sự dự định để các bạn cử một đội quân pergent ra đây với chúng tôi. Sau cùng thì chúng tôi không thật sự cần sự giúp đỡ của các bạn. Chúng tôi chỉ cần những gen đã được phục hồi của các bạn không bị đụng đến và được truyền lại cho các thế hệ tiếp theo.”

“Vậy cái ông đang nói ở đây là nếu chúng tôi không phải là pergent, tức là chúng tôi bị hỏng,” anh Caleb lên tiếng. Giọng anh run rẩy. Tôi chưa từng nghĩ sẽ thấy anh Caleb rơm rớm nước mắt vì một việc như thế này, nhưng quả là anh ấy sắp khóc thật.

Bình tĩnh, tôi tự nhủ một lần nữa, và hít thêm một hơi chậm, sâu.

“Hỏng về mặt di truyền, đúng thế,” ông David đáp. “Tuy nhiên, chúng tôi rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng các thành tố biến cải hành vi của thí nghiệm hoạt động khá hiệu quả – cho đến mãi gần đây, việc nó thật sự có tác dụng với những vấn đề về hành vi đã khiến việc kiểm soát gen lại rắc rối ngay từ đầu. Nói một cách chung nhất, anh không thể nói được liệu gen của một người bị hỏng hay đã được hồi phục chỉ dựa trên hành vi của họ.”

“Tôi thông minh,” anh Caleb nói. “Vậy ông đang nói đó là bởi vì tổ tiên của tôi được biến đổi để trở nên thông minh, tôi, hậu duệ của họ, không thể hoàn toàn thương cảm được. Tôi, và tất cả những người bị hư hại về mặt di truyền khác, thì bị giới hạn bởi bộ gen hỏng của chúng tôi. Còn những pergent thì không.”

“Chậc,” ông David nói, nhún một vai. “Hãy nghĩ về việc đó xem có đúng không.”

Caleb nhìn sang tôi lần đầu tiên trong nhiều ngày qua, và tôi trừng trừng nhìn lại. Đó có phải là lời giải thích cho sự phản bội của Caleb – bộ gen hỏng của anh ấy? Như một căn bệnh anh ấy không thể chữa lành, và không thể điều khiển? Không đúng.

“Gen không phải là tất cả,” ông Amar lên tiếng. “Con người, ngay cả những người hư hại về mặt di truyền, đều đưa ra lựa chọn. Đó mới là thiết yếu.”

Tôi nghĩ tới ba tôi, sinh ra là một Erudite, không phải pergent; một người không thể nào không thông minh được, đã chọn Abnegation, đã bỏ cả cuộc đời để cưỡng lại bản chất tự nhiên của mình, và cuối cùng thành công.

Một người đã chiến đấu với chính bản thân mình, như tôi đã chiến đấu với chính tôi.

Cuộc chiến bên trong đó không giống sản phẩm của một sự hư hại về gen – nó hoàn toàn, thuần khiết là con người.

Tôi nhìn Tobias. Nom anh rất phờ phạc và mệt mỏi, như sắp ngất xỉu đến nơi. Không phải chỉ mình anh mới phản ứng như vậy: Christina, Peter, Uriah và anh Caleb đều choáng váng. Chị Cara vò vò vạt áo trong các ngón tay, ngón cái miết đi miết lại trên vải, nhíu mày.

“Lượng thông tin này là rất nhiều để các cô cậu tiếp nhận,” ông David nói.

Đó là nói bớt đi rồi đấy.

Cạnh tôi, Christina khịt mũi.

“Và các cô cậu đã thức cả đêm rồi,” ông David kết thúc câu, cứ như không có gì mới xen ngang vậy. “Nên tôi sẽ dẫn các cô cậu đến một nơi để nghỉ ngơi và kiếm cái gì bỏ bụng một chút.”

“Đợi đã,” tôi nói. Tôi nghĩ tới tấm hình trong túi, và việc cô Zoe biết tên tôi khi đưa nó cho tôi. Tôi nghĩ tới những gì ông David nói, về việc quan sát và rút ra bài học từ chúng tôi. Tôi nghĩ tới những dãy màn hình trống trơn trước mặt tôi. “Ông nói các ông đã quan sát chúng tôi.

Bằng cách nào?”

Cô Zoe mím môi. Ông David gật đầu với một người ngồi ở cái bàn đằng sau ông ta. Tất cả màn hình đồng loạt bật lên, mỗi cái chiếu một cảnh từ những những máy quay khác nhau. Trên cái màn hình gần tôi nhất, tôi nhìn thấy tổng hành dinh Dauntless. Trung tâm Ác Ôn. Công viên Thiên Niên Kỷ. Tòa Hancock. Tòa Hub.

“Các bạn luôn biết là phái Dauntless giám sát thành phố bằng những máy quay an ninh,” ông David nói. “Chà, chúng tôi cũng truy cập được những máy quay đó.”

Họ đã quan sát chúng tôi suốt thời gian qua.

Tôi nghĩ tới chuyện bỏ đi.

Chúng tôi đi ngang qua chốt an ninh trên đường đến cái nơi quỷ quái nào đó mà ông David đang dẫn chúng tôi đến, và tôi nghĩ tới việc phải đi xuyên qua nó một lần nữa, nhặt súng lên và chạy trốn khỏi cái nơi đã quan sát chúng tôi bấy lâu nay. Từ lúc tôi còn nhỏ. Những bước đi đầu tiên của tôi, những từ bập bẹ đầu tiên của tôi, ngày đi học đầu tiên của tôi, nụ hôn đầu tiên của tôi.

Quan sát, khi tôi bị Peter tấn công. Khi phái của tôi bị đặt vào trình mô phỏng và biến thành một đạo quân. Khi ba mẹ tôi chết.

Họ còn thấy những gì nữa?

Thứ duy nhất khiến tôi chưa thể ra đi là tấm hình trong túi. Tôi chưa thể rời khỏi những người này trước khi tìm hiểu được tại sao họ lại biết mẹ tôi.

Ông David dẫn chúng tôi đi xuyên qua đặc khu đến một khu vực được trải thảm với những chậu cây hai bên.

Giấy dán tường cũ kĩ và vàng vọt, bị tróc lở ở góc tường.

Chúng tôi đi theo ông ta vào một căn phòng lớn có trần cao, sàn gỗ và đèn màu vàng cam. Có những cái giường cũi xếp thành hai hàng thẳng tắp, cạnh mỗi giường có một cái rương để đựng đồ đạc chúng tôi mang theo, và những ô cửa sổ lớn bên kia căn phòng treo những tấm rèm thanh lịch. Khi đến gần, tôi thấy chúng đã sờn và đường viền đã bung chỉ hết cả.

Ông David nói với chúng tôi chỗ này của đặc khu là một khách sạn, được nối với sân bay qua một đường hầm, và căn phòng này từng là phòng khiêu vũ. Một lần nữa, cái từ đó chẳng có nghĩa lý gì với chúng tôi, nhưng dường như ông ta không để ý.

“Dĩ nhiên đây chỉ là nơi ở tạm thôi. Khi các cô cậu quyết định xong sẽ làm gì, chúng tôi sẽ thu xếp một chỗ khác cho cô cậu, trong đặc khu này hoặc ở nơi khác. Zoe sẽ đảm bảo các cô cậu được chăm sóc tử tế,” ông ta nói.

“Mai tôi sẽ quay lại để xem tình hình các cô cậu thế nào.”

Tôi quay qua nhìn Tobias, anh vừa đi đi lại lại trước mấy cái cửa sổ vừa gặm móng tay. Tôi đã không nhận ra anh có thói quen đó. Có lẽ trước đây anh chưa bao giờ căng thẳng tới mức phải làm như thế.

Tôi có thể ở lại an ủi anh, nhưng tôi cần câu trả lời về mẹ tôi, và tôi sẽ không đợi lâu hơn nữa. Tôi chắc rằng Tobias, hơn hết thảy những ai khác, sẽ hiểu. Tôi theo ông David ra hành lang. Ngay bên ngoài căn phòng, ông ta dựa vô tường vài gãi gáy.

“Xin chào,” tôi lên tiếng. “Tôi là Tris. Tôi tin là ông biết mẹ tôi.”

Ông ta khẽ giật mình, nhưng cuối cùng cũng mỉm cười với tôi. Tôi khoanh tay lại. Tôi cảm thấy cùng một cảm giác như lúc Peter nhẫn tâm giật phăng cái khăn tắm khỏi người tôi lúc còn trong giai đoạn nhập môn của phái Dauntless: bị lột trần, xấu hổ, giận dữ. Có thể không công bằng khi nhắm tất cả những cảm giác đó vào ông David, nhưng tôi không dừng được. Ông ta là người đứng đầu của đặc khu này – của Cục.

“Vâng, đương nhiên rồi,” ông ta nói. “Tôi nhận ra cô.”

Từ đâu? Từ những cái máy quay đáng sợ đã theo sát nhất cử nhất động của tôi ư? Tôi áp chặt tay vào người hơn.

“Như vầy.” Tôi đợi một chút rồi mới nói, “Tôi cần biết về mẹ của tôi. Cô Zoe có đưa cho tôi một bức hình của bà ấy, và ông đứng ngay cạnh bà ấy trong hình, nên tôi nghĩ ông có thể giúp tôi.”

“À,” ông ta nói. “Có thể cho tôi xem bức hình được không?”

Tôi lấy nó ra từ trong túi và đưa cho ông ta. Ông ta dùng đầu ngón tay vuốt phẳng nó, và một nụ cười lạ lùng nở trên mặt ông ta khi ông ta nhìn nó, như thể ông ta đang vuốt ve nó bằng ánh mắt vậy. Tôi nhấp nhổm từ chân này qua chân kia. Tôi cảm thấy như thể đang xâm phạm vào một giây phút cực kỳ riêng tư.

“Có lần cô ấy đã quay lại đi thăm chúng tôi,” ông ta nói.

“Trước khi trở thành một bà mẹ. Đó là lúc chúng tôi chụp tấm hình này.”

“Quay lại thăm?” Tôi hỏi. “Bà ấy là một trong số các ông?”

“Đúng vậy,” ông David nói một cách đơn giản, như thể đó không phải là từ sẽ thay đổi toàn bộ thế giới của tôi.

“Cô ấy xuất thân từ nơi này. Chúng tôi đã cử cô ấy vào thành phố khi cô ấy còn trẻ để giải quyết một rắc rối trong cuộc thí nghiệm.”

“Vậy là bà ấy biết,” giọng tôi run lên, nhưng tôi không biết tại sao. “Bà ấy biết về nơi này, và những gì bên ngoài hàng rào.”

Ông David có vẻ lúng túng, đôi lông mày rậm rạp cau lại. “Ồ, đương nhiên rồi.”

Cơn run rẩy lan từ cánh tay xuống bàn tay tôi, và cả người tôi nhanh chóng run lên, như đang kháng lại một thứ độc dược mới vừa nuốt phải, và chất độc đó là thông tin, thông tin về nơi này và những cái màn hình và tất cả những dối trá dựng thành cuộc đời tôi. “Bà ấy biết các ông đang quan sát chúng tôi mọi lúc… quan sát lúc bà ấy chết và ba tôi chết và mọi người bắt đầu giết chóc lẫn nhau! Và các ông có cử ai đến giúp bà ấy không, giúp tôi không?

Không! Không, tất cả những gì các người làm là ngồi đây mà ghi chép.”

“Tris…”

Ông ta cố chạm vào tôi, nhưng tôi gạt phắt tay ông ta qua một bên. “Đừng có gọi tôi như thế. Ông không được quyền biết cái tên đó. Ông không được quyền biết bất cứ điều gì về chúng tôi hết.”

Run rẩy, tôi quay vào phòng.

Bên trong, những người khác đã chọn xong giường và để đồ đạc xuống. Chỉ có chúng tôi ở đây, không có người ngoài. Tôi dựa lên tường kế cửa ra vào và chùi hai lòng bàn tay lên quần để lau mồ hôi.

Coi bộ không người nào có vẻ thích ứng tốt cho lắm.

Peter đang nằm quay mặt vô tường. Uriah và Christina đang ngồi cạnh nhau, thì thà thì thầm. Anh Caleb đang mát-xa hai thái dương bằng đầu ngón tay. Tobias thì vẫn đang đi qua đi lại, gặm móng tay. Và chị Cara thì đứng một mình, hai tay bưng mặt. Lần đầu tiên kể từ lúc tôi biết chị ấy, chị có vẻ thất vọng, chiếc áo giáp Erudite đã biến mất.

Tôi ngồi xuống đối diện chị ấy. “Trông chị không ổn lắm.”

Tóc của chị, bình thường vẫn mượt mà và cột lại gọn gàng, giờ rối bời. Chị ấy trừng mắt nhìn tôi. “Thật tử tế quá.”

“Xin lỗi,” tôi nói. “Em không có ý như vậy đâu.”

“Chị biết.” Chị ấy thở dài. “Chị… chị là một Erudite mà, em biết đấy.”

Tôi cười yếu ớt. “Vâng, em biết.”

“Không.” Cara lắc lắc đầu. “Đó là toàn bộ con người chị.

Erudite. Và giờ thì người ta nói với chị rằng đó là kết quả của một sai sót nào đó trong di truyền… và chính những môn phái là những nhà tù tinh thần để giữ chúng ta trong vòng kiểm soát. Y như những gì bà Evelyn Johnson và những kẻ vô môn phái nói.” Chị ấy dừng lại. “Vậy thì thành lập Allegiant để làm gì kia chứ? Còn ra ngoài này làm cái gì kia chứ?”

Tôi không nhận ra chị Cara đã trung thành nhiều như thế nào với cái ý tưởng làm một Allegiant, trung thành với hệ thống môn phái, trung thành với các nhà sáng lập của chúng tôi. Với tôi nó chỉ là một thân phận tạm thời, có sức ảnh hưởng mạnh vì nó có thể giúp tôi ra khỏi thành phố. Với chị ấy, sự gắn bó hẳn phải sâu sắc hơn rất nhiều.

“Việc chúng ta ra ngoài này vẫn có ích đấy chứ,” tôi nói.

“Chúng ta đã tìm ra sự thật. Điều đó không đáng giá với chị sao?”

“Dĩ nhiên là có,” Cara nhẹ nhàng nói. “Nhưng nó có nghĩa là chị cần những từ ngữ khác để miêu tả chính mình.”

Ngay sau khi mẹ tôi chết, tôi đã vịn vào thân thế pergent của mình như vịn vào một bàn tay đang chìa ra để cứu vớt tôi. Tôi đã cần cái từ đó để nhắc cho tôi nhớ mình là ai khi xung quanh tất cả đều đang tan rã. Nhưng giờ thì tôi băn khoăn không biết mình có cần nó nữa không, liệu chúng tôi có thật sự cần những từ ngữ này hay không. “Dauntless”, “Erudite”, “pergent”, “Allegiant”, hay liệu có thể nào chúng tôi chỉ là bạn bè hay tình nhân hay anh em, được định hình bởi những lựa chọn của chúng tôi cùng tình yêu và lòng trung thành ràng buộc chúng tôi.

“Nên đi coi cậu ấy sao đi,” Cara nói, hất đầu về phía Tobias.

“Vâng,” tôi nói.

Tôi băng ngang qua căn phòng và đến đứng trước mấy cái cửa sổ, nhìn ra những thứ chúng tôi có thể nhìn thấy của đặc khu, nhiều hơn kính và thép, vỉa hè và cỏ và hàng rào.

Khi anh nhìn thấy tôi, anh dừng lại và đến đứng cạnh tôi.

“Anh có sao không?” Tôi hỏi anh.

“Không sao.” Anh ngồi lên bệ cửa sổ, quay mặt về phía tôi, thế là tầm mắt của hai chúng tôi ngang nhau. “Ý anh là không, không hẳn. Ngay lúc này anh chỉ đang nghĩ về việc mọi thứ đều vô nghĩa như thế nào. Ý anh là hệ thống môn phái ấy.”

Anh miết tay sau gáy, và tôi tự hỏi không biết có phải anh đang nghĩ về những hình xăm trên lưng không.

“Chúng ta đã dành toàn bộ những gì chúng ta có cho nó,” anh nói. “Tất cả chúng ta. Dù chúng ta không nhận ra.”

“Đó là điều anh đang nghĩ ư?” Tôi nhướn mày. “Tobias, bọn họ đã quan sát chúng ta. Tất cả những điều đã xảy ra, tất cả những thứ chúng ta làm. Họ không hề can thiệp, họ chỉ xâm phạm sự riêng tư của chúng ta. Thường xuyên.”

Anh dùng đầu ngón tay xoa xoa thái dương. “Anh đoán là vậy. Nhưng đó không phải là điều khiến anh bận tâm.”

Chắc tôi đã tặng anh một cái nhìn rất ngờ vực, vì anh lắc đầu. “Tris, anh làm trong phòng điều khiển của Dauntless. Máy quay có mặt ở mọi nơi, mọi lúc. Anh đã cố cảnh báo với em rằng người ta quan sát em suốt giai đoạn nhập môn, nhớ không?”

Tôi nhớ lại lúc mắt anh liếc lên trần nhà, đảo về phía góc phòng. Những lời cảnh báo khó hiểu, rít lên giữa kẽ răng. Tôi chưa bao giờ nhận ra là anh đang cảnh báo tôi về những cái máy quay – tôi chưa bao giờ nghĩ tới việc đó.

“Nó đã từng khiến anh bận tâm,” anh nói. “Nhưng anh đã vượt qua lâu rồi. Chúng ta đã luôn nghĩ chúng ta chỉ có một mình, và hóa ra là chúng ta đã đúng – họ để mặc chúng ta một mình. Mọi thứ là vậy đấy.”

“Em nghĩ là em không chấp nhận được chuyện đó,”

tôi nói. “Nếu anh thấy có người gặp rắc rối, anh nên giúp người ta. Dù có phải thí nghiệm hay không. Và… Chúa ơi.”

Tôi co rúm người. “Tất thảy những thứ mà bọn họ đã thấy.”

Anh mỉm cười với tôi, yếu ớt.

“Sao?” Tôi hỏi.

“Anh chỉ đang nghĩ tới vài thứ trong những gì họ thấy thôi,” anh nói, đặt tay lên hông tôi. Tôi trừng mắt với anh một chút, nhưng không giữ được lâu, nhất là khi anh cứ cười với tôi như thế. Không biết rằng anh đang cố gắng làm tôi thấy khá hơn. Tôi cười lên được một chút.

Tôi ngồi xuống bệ cửa sổ kế anh, tay lèn giữa hai chân và cái bệ gỗ. “Anh biết không, việc Cục lập ra môn phái cũng không khác mấy so với điều chúng ta nghĩ: Ngày xưa, một nhóm người quyết định rằng hệ thống môn phái là cách tốt nhất để sống – hay là cách giúp người ta sống một cuộc đời tốt nhất có thể.”

Thoạt tiên anh không trả lời, chỉ cắn môi bên trong và nhìn xuống chân của chúng tôi đang đặt kế nhau dưới đất.

Mấy ngón chân tôi chỉ sượt qua chứ không chạm sàn.

“Thật ra cũng có ích,” anh nói. “Nhưng có nhiều dối trá quá nên khó mà phát hiện ra điều gì là đúng, cái gì là thật, cái gì là quan trọng được.”

Tôi nắm tay anh, đan tay vào giữa những ngón tay anh.

Anh cụng trán mình lên trán tôi.

Tôi bắt gặp bản thân mình đang nghĩ, Cảm ơn Chúa vì điều này, theo thói quen, và rồi tôi hiểu ra anh đang băn khoăn về chuyện gì. Nếu như Chúa trời của ba mẹ tôi cùng toàn bộ hệ thống đức tin của họ chỉ là thứ được chế ra bởi một đám các nhà khoa học để giữ chúng tôi trong tầm kiểm soát thì sao? Và không chỉ đức tin của họ vào Chúa và vào bất cứ cái gì ngoài kia mà còn về khái niệm đúng và sai, về sự vô kỷ? Tất cả những điều đó có phải thay đổi không khi giờ đây chúng tôi đã biết thế giới của mình được tạo thành như thế nào rồi?

Tôi không biết.

Suy nghĩ đó làm tôi lo lắng. Nên tôi hôn anh – một cách chậm rãi, để cảm nhận hơi ấm từ môi anh và sức ép nhẹ nhàng và hơi thở của anh khi chúng tôi tách ra.

“Tại sao mà,” tôi nói, “xung quanh chúng mình lúc nào cũng có người thế này?”

“Anh không biết,” anh đáp. “Có lẽ vì chúng ta ngốc quá đó.”

Tôi bật cười, và chính tiếng cười chứ không phải ánh sáng là thứ xua đi những bóng tối bên trong tôi, nhắc tôi nhớ rằng mình vẫn còn sống, ngay cả khi đang ở nơi này, nơi tất cả những thứ tôi từng biết tới đều vụn vỡ. Tôi biết một số điều – tôi biết tôi không chỉ có một mình, rằng tôi có bạn bè, rằng tôi đang yêu. Tôi biết mình đến từ đâu. Tôi biết mình không muốn chết, và với tôi, vậy là có ý nghĩa rồi – hơn những gì tôi nghĩ mấy tuần trước.

Đêm đó chúng tôi đẩy hai cái giường tới gần nhau một chút, và nhìn sâu vào trong mắt nhau trong khoảnh khắc trước khi ngủ thiếp đi. Khi anh cuối cùng cũng thiếp đi, những ngón tay của chúng tôi đan chặt vào nhau giữa hai cái giường.

Tôi khẽ mỉm cười, và cũng thả mình trôi theo vào giấc ngủ.