← Quay lại trang sách

Chương 19 TRIS

TÔI KHÔNG ĐUỔI theo anh, vì tôi không biết phải nói gì.

Khi tôi phát hiện ra mình là một pergent, tôi đã xem nó như một sức mạnh bí mật mà không ai khác sở hữu, là một thứ khiến tôi khác biệt, tốt hơn, mạnh hơn. Giờ đây, sau khi so sánh DNA của tôi và Tobias trên một cái màn hình máy tính, tôi nhận ra “pergent” không có ý nghĩa lớn lao như tôi tưởng. Nó chỉ là một từ chỉ một đoạn đặc biệt trong DNA của tôi, cũng như một từ để chỉ tất cả những người có mắt nâu và tóc vàng vậy.

Tôi vùi đầu vào hai bàn tay. Nhưng những người này vẫn nghĩ nó có một ý nghĩa nào đó – họ vẫn nghĩ nó có nghĩa là tôi lành lặn theo cách mà Tobias không có. Và họ muốn tôi tin vào điều đó, tin tưởng tuyệt đối vào nó.

Chà, tôi không tin. Và tôi không rõ vì sao Tobias lại tin – vì sao anh lại sốt sắng tin rằng bản thân mình bị hỏng.

Tôi không muốn nghĩ tới nó nữa. Tôi ra khỏi phòng trị liệu gen đúng lúc Nita bước vô lại.

“Chị đã nói gì với anh ấy vậy?” Tôi hỏi.

Cô ta đẹp. Cao ráo nhưng không lỏng khỏng, mảnh mai nhưng không ốm o, da thì sẫm màu.

“Tôi chỉ đảm bảo anh ta biết mình đang đi đâu thôi,” cô ta nói. “Đây là một nơi dễ lạc đường.”

“Chắc chắn rồi.” Tôi tiến về phía trước – chà, tôi không biết mình đang đi đâu, nhưng cũng là đi khỏi Nita, cô gái xinh đẹp đã nói chuyện với bạn trai tôi khi tôi không có mặt ở đó. Nhưng nói đi thì phải nói lại, nó không phải là cuộc trò chuyện dài.

Tôi nhìn thấy cô Zoe ở cuối hành lang, và cô ta vẫy tôi lại gần. Cô ta nom thoải mái hơn sáng nay, vầng trán của cô ta mịn màng không một nếp nhăn, tóc xõa xuống vai.

Cô ta nhét hai tay vào túi bộ đồ áo liền quần.

“Tôi mới nói với những người kia,” cô ta nói. “Chúng tôi đã lên lịch cho một chuyến bay sẽ cất cánh trong vòng hai tiếng nữa cho những ai muốn đi. Em có đi cùng không?”

Sợ hãi và hào hứng đan vào nhau trong bụng tôi, cũng giống như lúc tôi được cài đai chuẩn bị cho trò trượt dây cáp trên đỉnh tòa nhà Hancock. Tôi tưởng tượng cảm giác phóng vèo vào giữa không trung trong một cái buồng có cánh, năng lượng của động cơ và những luồng gió mạnh thổi ào ào khắp xung quanh, và khả năng, dù nhỏ xíu, rằng cái gì đó sẽ rớt xuống và tôi sẽ lao thẳng xuống gặp diêm vương.

“Có,” tôi nói.

“Chúng ta sẽ gặp nhau ở cổng B14. Hãy đi theo các tấm biển!” Cô ta cười và bỏ đi.

Tôi nhìn qua những ô cửa sổ trên đầu. Bầu trời trong vắt và nhợt nhạt, cùng màu với mắt tôi. Có một sự gì chắc chắn, không thể tránh khỏi trong đó, như thể nó đã luôn chờ đợi tôi, có thể vì tôi say mê độ cao trong khi những người khác thì sợ nó, hay có thể vì một khi bạn đã nhìn thấy những thứ tôi đã thấy thì chỉ còn một lĩnh vực duy nhất để khám phá, và nó ở trên kia.

Những bậc thang kim loại dẫn xuống vệ đường kêu ken két theo mỗi bước chân tôi. Tôi phải nghiêng đầu ra sau để nhìn cái máy bay, nó to hơn tôi tưởng và có màu trắng bạc. Ngay dưới cái cánh là một cái ống hình trụ khổng lồ với những lưỡi dao đang quay vòng vòng bên trong. Tôi tưởng tượng mấy cái lưỡi dao đó hút tôi vào trong một đầu rồi phun tôi ra từ đầu bên kia, và khẽ rùng mình.

“Làm sao cái thứ to đến như thế lại bay được trên trời nhỉ?” Uriah thắc mắc từ phía sau tôi.

Tôi lắc đầu. Tôi không biết, và tôi không muốn nghĩ về điều đó. Tôi theo cô Zoe lên một cái cầu thang nữa, cái này nối với một cái lỗ bên thân máy bay. Tay tôi run lên khi nắm tay vịn, và tôi ngó ra sau lần cuối, để xem Tobias có bắt kịp chúng tôi không. Anh không có ở đó. Tôi đã không gặp anh kể từ cuộc kiểm tra gen.

Tôi cúi đầu xuống khi đi qua cái lỗ, dù nó cao quá đầu tôi. Bên trong cái máy bay là từng hàng từng hàng ghế phủ vải sợi màu xanh đã sờn và bung chỉ. Tôi chọn một ghế gần phía đầu, kế bên cửa sổ. Một thanh kim loại chọc vào xương sườn tôi. Nó cứ như một bộ khung xương ghế mà không có chút thịt nào đỡ lấy cả.

Chị Cara ngồi cạnh tôi, Peter và anh Caleb tiến đến đuôi máy bay và ngồi gần nhau, kế bên cửa sổ. Tôi không biết họ là bạn bè cơ đấy. Cũng hợp lắm, xét trên việc cả hai đều đáng khinh như thế nào.

“Cái thứ này bao nhiêu tuổi rồi?” Tôi hỏi cô Zoe, cô đang đứng gần phía đằng trước.

“Cũng khá già rồi,” cô ấy đáp. “Nhưng chúng tôi đã tu sửa lại hoàn chỉnh các bộ phận quan trọng. Nó vừa vặn với những gì chúng tôi cần.”

“Các vị dùng nó làm gì?”

“Phần lớn là cho các nhiệm vụ giám sát. Chúng tôi muốn để ý tới những chuyện đang diễn ra ở vùng giáp ranh, đề phòng trường hợp nó đe dọa đến những gì đang diễn ra ở đây.” Cô Zoe ngừng lại. “Vùng giáp ranh là một khu vực rộng lớn và hơi lộn xộn nằm giữa Chicago và khu trung tâm gần nhất được chính phủ cai trị. Milwaukee, cách đây khoảng ba tiếng lái xe.”

Tôi muốn hỏi chính xác thì cái gì đang diễn ra ở vùng giáp ranh, nhưng Uriah và Christina đã ngồi xuống kế bên tôi, và thời cơ đó qua luôn. Uriah hạ cái đồ gác tay xuống giữa hai đứa tôi và chồm qua tôi để nhìn ra cửa sổ.

“Nếu những Dauntless mà biết về thứ này, cả đám sẽ xếp hàng để được học lái nó cho mà coi,” nó nói. “Kể cả mình.”

“Không, họ sẽ tự cột vào cánh máy bay.” Christina chọc chọc cánh tay Uriah. “Bộ cậu không hiểu gì phái của chính mình sao hả?”

Uriah trỏ một phát vào má con nhỏ để đáp trả, rồi quay lại nhìn cửa sổ.

“Nãy giờ hai cậu có nhìn thấy Tobias đâu không?” Tôi hỏi.

“Không, không thấy anh ấy đâu,” Christina trả lời. “Mọi việc ổn cả chứ?”

Trước khi tôi kịp trả lời, một bà cô có nhiều nếp nhăn quanh miệng đã đứng trên lối đi giữa các dãy ghế và vỗ tay.

“Tên tôi là Karen, và tôi sẽ lái chiếc máy bay này hôm nay!” Bà ta thông báo. “Có thể sẽ hơi đáng sợ, nhưng hãy nhớ: nguy cơ chúng ta bị đâm máy bay ít hơn nhiều nguy cơ đụng xe hơi.”

“Nguy cơ chúng ta sống sót nếu lỡ có đụng thật cũng vậy,” Uriah lầm bầm, nhưng nó đang cười toe toét. Đôi mắt sẫm màu của nó rất lanh lợi, và nhìn nó rất ham vui, như con nít. Tôi chưa từng thấy Uriah thế này kể từ lúc Marlene chết. Nó đã đẹp trai trở lại rồi.

Cô Karen biến mất vào trong phần đầu máy bay, và cô Zoe ngồi xuống hàng ghế bên kia lối đi, ngang với Christina, xoay người lại để hô lên những chỉ dẫn như “Gài dây an toàn lại!” và “Đừng đứng lên cho tới khi chúng ta đạt đến độ cao tuần tra!” Tôi không chắc độ cao tuần tra là gì, và cô ấy không buồn giải thích, đúng kiểu cô Zoe. Chỉ mỗi việc hồi nãy cô ta nhớ mà giải thích vùng giáp ranh là cái gì đã là cả một phép màu rồi.

Chiếc máy bay bắt đầu lùi lại, và tôi ngạc nhiên khi thấy nó chạy êm như thế nào, cứ như chúng tôi đã trôi trên không khí rồi vậy. Rồi nó rẽ và trượt trên đường băng được sơn phết với cả tá đường nét và biểu tượng. Chúng tôi càng đi xa khỏi đặc khu, tim tôi đập càng nhanh, rồi giọng bà Karen vang lên qua hệ thống liên lạc: “Chuẩn bị cất cánh.”

Tôi siết chặt tay vịn khi máy bay bắt đầu chạy ào ào.

Đà chạy ép tôi vào chiếc ghế xương xẩu, và khung cảnh ngoài cửa sổ biến thành một đốm màu. Rồi tôi cảm thấy nó – chiếc máy bay nhấc bổng lên, bay lên, rồi tôi thấy mặt đất trải rộng ra bên dưới chúng tôi, mọi thứ nhanh chóng hóa nhỏ dần nhỏ dần. Miệng tôi há hốc và tôi quên cả thở.

Tôi nhìn thấy đặc khu, có hình thù như một nơ-ron thần kinh mà có lần tôi đã thấy trong sách giáo khoa, và hàng rào bao quanh nó. Xung quanh đó là chi chít những con đường bằng bê tông với những tòa nhà kẹp ở giữa.

Và rồi đột nhiên, tôi thậm chí không nhìn thấy đường sá hay nhà cửa gì nữa, vì tất cả chỉ còn là một màn xám và xanh và nâu bên dưới chúng tôi, và ở phía xa hơn tầm mắt, bốn phương tám hướng đều là đất, đất và đất.

Tôi không biết mình mong đợi điều gì. Nhìn thấy nơi thế giới kết thúc, chẳng hạn như một vách đá khổng lồ treo lơ lửng trên trời ư?

Cái tôi không mong đợi là biết rằng tôi đã từng là một người đứng trong một căn nhà mà từ đây tôi không nhìn thấy được. Rằng tôi đã đi trên một con đường trong hàng trăm – hàng ngàn – con đường.

Cái tôi không mong đợi là cảm giác thấy mình bé nhỏ, nhỏ vô cùng.

“Chúng ta không thể bay quá cao hoặc quá gần thành phố bởi vì chúng ta không muốn thu hút sự chú ý, nên chúng ta sẽ quan sát từ một khoảng cách xa. Sắp sửa hiện ra phía bên trái máy bay là một vài sự phá hủy gây ra bởi Cuộc Thuần Chiến, trước khi quân nổi loạn viện đến một cuộc chiến tranh sinh học để thay thế cho chất nổ,” cô Zoe thuyết minh.

Tôi phải chớp mắt cho khỏi nhòe nước trước khi có thể nhìn thấy nó, thứ ban đầu nhìn như một cụm những tòa nhà đen thui. Khi nhìn kỹ hơn, tôi nhận thấy những tòa nhà đó đáng ra không đen thui như thế – chúng đã bị hóa thành than, nằm ngoài khả năng nhận diện. Vài ngôi nhà trong số đó đã bị san bằng. Những lối đi giữa chúng bể nát thành từng mảnh nhỏ như vỏ trứng bị nghiền nát.

Nó giống với một số khu vực của thành phố, nhưng đồng thời lại không giống gì hết. Sự tàn phá trong thành phố có thể là do con người gây ra. Còn cái này phải là hậu quả của một thứ gì đó khác, thứ gì đó to lớn hơn.

“Và giờ các bạn sẽ được nhìn sơ qua Chicago!” Cô Zoe nói. “Các bạn sẽ thấy có vài cái hồ đã được tháo cạn để chúng tôi xây hàng rào, nhưng chúng tôi đã để lại nhiều diện tích nguyên vẹn hết mức có thể.”

Khi cô ta nói tới đó, tôi nhìn thấy tòa Hub với hai chóp nhỏ như đồ chơi ở phía xa, đường khung lởm chởm của thành phố cắt ngang biển bê tông mênh mông. Và phía trước đó nữa, một dải đất rộng màu nâu – cái đầm lầy – và bên kia nó là… màu xanh dương.

Đã có thời tôi trượt cáp xuống từ trên nóc tòa Hancock và thả hồn tưởng tượng dung mạo của cái đầm lầy khi còn đầy nước, tuyền một màu xám xanh và lấp lánh dưới ánh mặt trời. Và giờ đây khi nhìn được xa hơn những gì tôi từng thấy, tôi biết rằng xa phía bên kia ranh giới thành phố chúng tôi, nó giống y như tôi hình dung, cái hồ ở phía xa lấp lánh những tia nắng, điểm xuyết những gợn sóng lăn tăn.

Xung quanh tôi trong máy bay im lặng như tờ, ngoại trừ tiếng gào rú của động cơ.

“Ui chao,” Uriah thốt lên.

“Suỵt,” Christina trả lời.

“So với phần còn lại của thế giới thì nó to như thế nào?”

Peter nói vọng lên từ phía dưới. Nghe giọng nó như mỗi chữ nói ra đều bị sặc. “Ý tôi là thành phố của chúng tôi ấy.

Về diện tích đất. Bao nhiêu phần trăm?”

“Chicago rộng chừng hai trăm hai mươi bảy dặm vuông,” cô Zoe đáp. “Diện tích đất liền của hành tinh này ít hơn hai trăm triệu dặm vuông một chút. Tỉ lệ phần trăm… nhỏ quá nên hầu như không đáng kể.”

Cô ta đưa ra thông tin một cách thản nhiên, như thể nó chẳng hề có ý nghĩa gì với mình. Nhưng nó làm tôi choáng váng, và tôi thấy như bị bóp nghẹt, như thể có cái gì đó đang nghiền nát tôi. Quá nhiều không gian. Tôi tự hỏi không biết ở những nơi phía bên kia nữa của chúng tôi nó ra làm sao; tôi tự hỏi người ta sống ở đó như thế nào?

Tôi lại nhìn ra ngoài cửa sổ, thở thật sâu, hít thật chậm không khí vào một cơ thể đang căng thẳng đến mức cấm có nhúc nhích được. Và trong khi nhìn vùng đất ngoài kia, tôi nghĩ rằng việc này, nếu không còn gì khác, là một bằng chứng thuyết phục về Đức Chúa Trời của ba mẹ tôi, rằng thế giới của chúng tôi rộng lớn tới mức nó hoàn toàn vượt ngoài tầm kiểm soát, rằng chúng tôi không thể nào rộng lớn như chúng tôi nghĩ.

Nhỏ quá nên hầu như không đáng kể.

Thật lạ, nhưng có gì đó trong suy nghĩ này khiến tôi cảm thấy gần như… tự do.

Tối đó, khi mọi người đều đã đi ăn tối, tôi ngồi trên bệ cửa sổ trong phòng ngủ và bật cái máy tính bảng mà ông David đưa tôi lên. Tay tôi run rẩy khi mở tập tin có tên “Nhật ký”.

Ghi chép đầu tiên:

David cứ bắt tôi ghi lại những gì đã trải qua. Tôi nghĩ anh ấy tưởng rằng nó phải kinh hoàng lắm, hay thậm chí muốn nó như thế nữa kìa. Tôi nghĩ phần nào thì đúng vậy, nhưng chúng tồi tệ với tất cả mọi người, nên tôi không phải là trường hợp đặc biệt.

Tôi lớn lên trong một gia đình một thế hệ ở Milwaukee, Wisconsin. Tôi chưa từng biết nhiều về những người sống trong lãnh thổ bên ngoài thành phố (mà mọi người ở đây đều gọi là “vùng giáp ranh” ), chỉ biết là tôi không được đến đó. Mẹ tôi làm việc trong cơ quan hành pháp; bà rất nóng tính và khó hài lòng. Ba tôi là một giáo viên; ông ấy dễ bị tác động, ưa thông cảm và vô dụng. Một ngày nọ bọn họ cãi nhau to trong phòng khách và mọi thứ vượt ngoài tầm kiểm soát, và ông ấy tóm lấy bà ấy và bà ấy đã bắn ông. Đêm đó bà ấy đã chôn xác ông ấy trong sân sau trong lúc tôi thu dọn đồ đạc của mình và bỏ đi qua cửa trước. Tôi không bao giờ gặp lại bà ấy nữa.

Ở nơi tôi lớn lên, bi kịch diễn ra khắp nơi. Hầu hết ba mẹ của bạn tôi đều uống như hũ chìm hoặc khoái gào thét mắng chửi hoặc đã thôi yêu nhau từ đời nào, và đó là cách mọi việc diễn ra, chẳng có gì to tát. Nên khi tôi bỏ đi, tôi chắc mình chỉ là một mục nữa trên cái danh sách dài sọc chứa đủ mọi thứ kinh khủng đã xảy ra quanh khu nhà tôi năm đó.

Tôi biết nếu mình đến chỗ nào thuộc chính quyền, như một thành phố khác chẳng hạn, thì đó cũng là kiểu cơ quan sẽ mau chóng đưa tôi quay về nhà với mẹ tôi, và tôi không nghĩ tôi có thể nhìn mặt bà ấy mà không thấy những vệt máu do cái đầu của ba tôi đã để lại trên thảm phòng khách, nên tôi không đi tới đâu thuộc chính quyền.

Tôi đến vùng giáp ranh, nơi đó có một đám người đang sống tập trung thành một cụm dân cư nhỏ dựng nên từ vải dầu và nhôm trong vài phế tích hậu chiến, sống trong mớ giấy cũ rách nát và cháy sém cho ấm người vì chính phủ không thể chu cấp, vì bọn họ còn đang dành tất cả nguồn lực để gom chúng tôi trở lại, và tình trạng này đã kéo dài hơn một thế kỷ kể từ lúc chiến tranh chia rẽ chúng tôi. Hoặc họ sẽ không chu cấp. Tôi không biết.

Một ngày nọ tôi nhìn thấy một gã đàn ông đang đánh một đứa trẻ trong vùng giáp ranh, và tôi nện vô đầu gã ta bằng một tấm ván mục để gã ngừng tay lại, và gã chết, ngay trên đường. Tôi mới có mười ba tuổi. Tôi bỏ chạy. Tôi bị một người trong một cái xe tải bắt lại, một người trông giống cảnh sát. Nhưng anh ta không lôi tôi qua bên đường để cho tôi ăn kẹo đồng và anh ta cũng không tống tôi vô tù; anh ta chỉ đưa tôi đến khu vực an toàn này và kiểm tra gen của tôi và kể cho tôi nghe tất cả về những cuộc thí nghiệm của chính phủ và rằng bộ gen của tôi sạch sẽ hơn của người khác như thế nào. Anh ta còn chiếu bản đồ gen của tôi lên một cái màn hình để chứng minh.

Nhưng tôi đã giết người, y như mẹ tôi. David nói không sao đâu tại tôi đâu có cố ý, và vì hắn ta sắp sửa giết thằng nhóc kia mà. Nhưng tôi khá chắc chắn là mẹ tôi cũng đâu cố ý giết ba tôi đâu, vậy thì khác nhau chỗ nào, giữa việc cố ý và vô tình? Là tai nạn hay cố tình thì kết quả vẫn giống như nhau, và đó là thế giới ít hơn một mạng sống so với vốn dĩ.

Đó là những điều tôi đã trải qua. Và theo như David nói thì mọi chuyện xảy ra là bởi vì hồi xưa xửa xừa xưa, người ta đã làm lộn xộn bản chất con người lên và kết cục lại làm nó hóa ra tệ lậu hơn.

Tôi đoán lý do đó nghe có lý. Hoặc là tôi muốn vậy.

Răng tôi cắn chặt vào môi. Ở trong đặc khu Cục này, ngay bây giờ, người ta đang ngồi trong căn tin, ăn uống và cười đùa. Trong thành phố có lẽ họ cũng đang như vậy.

Cuộc sống bình thường vẫn diễn ra xung quanh tôi, còn tôi ngồi lẻ loi ở đây với những tiết lộ này.

Tôi siết chặt cái máy vào ngực. Mẹ tôi đến từ đây. Nơi này vừa là lịch sử vừa là hiện tại của tôi. Tôi có thể cảm thấy mẹ trong những bức tường, trong bầu không khí. Tôi cảm thấy bà nằm trong lòng tôi, không bao giờ bỏ tôi đi nữa. Cái chết không thể xóa đi hình bóng bà, bà là vĩnh cửu.

Cái lạnh của mặt kính thấm qua áo tôi, và tôi rùng mình. Uriah và Christina bước qua cửa để vào phòng ngủ, đang cười đùa chuyện gì đó. Đôi mắt trong veo và bước đi chắc chắn của Uriah làm tôi thấy vô cùng nhẹ nhõm, rồi tự nhiên mắt tôi ngấn lệ. Nó và Christina trông hoảng hồn, và hai đứa nó liền dựa vào cửa sổ hai bên tôi.

“Bồ ổn không?” Con nhỏ hỏi.

Tôi gật đầu và chớp mắt. “Hôm nay hai cậu đã đi đâu vậy?”

“Sau vụ đi máy bay tụi mình tới phòng điều khiển ngó mấy cái màn hình một lát,” Uriah nói. “Thật sự rất kì cục khi nhìn thấy họ đang làm gì khi giờ tụi mình đi mất rồi.

Tình hình vẫn y chang vậy, có hơn một chút, bà Evelyn vẫn là đồ phát xít, bè lũ của bà ta cũng cá mè một lứa, và vân vân – nhưng nó giống như đọc báo cáo tin tức vậy.”

“Mình không nghĩ mình muốn coi,” tôi nói. “Hơi ghê ghê và lại xâm phạm nữa chứ.”

Uriah nhún vai. “Mình không biết. Nếu mấy người đó muốn nhìn mình gãi mông hay xực bữa tối thì mình cảm thấy chuyện đó nói lên con người họ hơn là con người mình.”

Tôi phá ra cười, “Chính xác thì bao lâu cậu mới gãi mông một lần?”

Nó thúc cùi chỏ vô người tôi.

“Không phải để chuyển chủ đề khỏi mấy cái mông, chủ đề mà chúng ta đều có thể đồng ý là quan trọng vô ngần…”

Christina khẽ cười. “Nhưng mình đồng ý với bồ, Tris à.

Chỉ nhìn mấy cái màn hình đó thôi cũng khiến mình thấy kinh khủng rồi, giống như đang làm chuyện gì lén lút lắm vậy. Mình nghĩ từ giờ trở đi mình sẽ tránh nó ra.”

Con nhỏ chỉ cái máy tính bảng đang đặt trong lòng tôi, đèn vẫn phát sáng trên những từ những chữ của mẹ tôi.

“Cái gì đó?”

“Hóa ra là,” tôi đáp, “mẹ mình đến từ chỗ này. Chà, bà ấy xuất thân từ thế giới bên ngoài, nhưng sau đó đã đến đây, và lúc mười lăm tuổi, bà ấy được cài vào Chicago như một Dauntless.”

Christina hỏi, “Mẹ bồ là người ở đây sao?”

Tôi gật đầu. “Ừ. Tâm thần thật. Còn kì cục hơn nữa, bà ấy đã viết cuốn nhật ký này và để lại cho họ. Đó là thứ mình đang đọc trước khi hai cậu tới.”

“Chà,” Christina nói khẽ khàng. “Tốt quá mà, phải không? Ý mình là bồ sẽ hiểu hơn về bà ấy.”

“Ừ, tốt mà. Và không, mình không còn buồn đâu, bồ có thể thôi nhìn mình như vậy được rồi.” Cái nhìn lo lắng hiện lên từ nãy giờ trên mặt Uriah biến mất.

Tôi thở dài. “Mình chỉ nghĩ hoài… rằng theo một cách nào đó thì mình thuộc về nơi này. Như là có lẽ nơi này có thể là nhà.”

Christina bóp trán.

“Có lẽ,” nó nói, và tôi có cảm giác nó không tin điều đó, nhưng nó vẫn thật tử tế khi nói vậy.

“Mình không biết,” Uriah nói, giờ thì giọng nghe đã có vẻ nghiêm túc. “Mình không chắc liệu sẽ có nơi nào lại đem lại cảm giác như ở nhà nữa. Ngay cả khi chúng ta quay về cũng không.”

Có lẽ đúng. Có lẽ dù đi đâu thì chúng tôi cũng là người lạ, dù là thế giới bên ngoài Cục, hay ở đây – bên trong Cục, hay quay về cuộc thí nghiệm. Mọi thứ đã thay đổi, và nó sẽ không ngừng thay đổi chỉ trong thời gian ngắn.

Hay có lẽ chúng tôi có thể tự tạo mái ấm bên trong chúng tôi, để mang theo mình đến bất cứ nơi nào – đó là cách tôi mang mẹ theo mình bây giờ.

Anh Caleb bước vào phòng ngủ. Có vết bẩn trên áo anh ấy giống vết nước xốt, nhưng anh ấy có vẻ không để ý – giờ tôi mới nhận ra là trong mắt anh có một sự hứng thú với tri thức, và trong một giây, tôi tự hỏi anh ấy đã đọc hay xem cái gì mới có được cái vẻ ấy.

“Chào,” anh ấy lên tiếng, và gần như định tiến về phía tôi, nhưng hẳn đã nhìn thấy sự ghê tởm của tôi, vì anh ấy đã ngừng lại khi mới bước được nửa bước.

Tôi lấy tay che cái màn hình lại, mặc dù anh ấy không thể nhìn thấy gì từ tuốt bên kia căn phòng, và trừng mắt nhìn anh ấy, không thể – hay không sẵn lòng – nói câu gì để đáp lời.

“Em nghĩ sẽ có lúc nào em nói chuyện lại với anh không?”

Anh ấy buồn bã nói, khóe miệng trễ xuống.

“Nếu có thì tôi sẽ chết vì sửng sốt mất,” Christina lạnh lùng nói.

Tôi nhìn đi chỗ khác. Sự thật là thỉnh thoảng tôi chỉ muốn quên phứt những chuyện đã xảy ra và quay lại như trước, lúc hai chúng tôi mỗi đứa chọn một phái. Ngay cả khi anh ấy luôn chỉnh tôi, nhắc nhở tôi phải vô kỷ thì vẫn còn tốt hơn chuyện này – cái cảm giác tôi cần phải bảo vệ thậm chí là nhật ký của mẹ tôi khỏi anh ấy, để anh ấy không thể đầu độc nó như đã làm với mọi thứ khác. Tôi đứng dậy và nhét nó xuống dưới gối.

“Đi nào,” Uriah nói với tôi. “Muốn đi với bọn này kiếm chút đồ tráng miệng không?”

“Chứ hai cậu chưa ăn chút gì hả?”

“Rồi thì đã sao?” Uriah đảo mắt và khoác tay qua vai tôi, lái tôi về phía cửa.

Ba chúng tôi cùng nhau đi tới căn tin, bỏ anh trai tôi lại phía sau.