← Quay lại trang sách

Chương 18 TOBIAS

THẬT LẠ LÙNG khi nhìn những người mình không mấy thân thiết lúc mới sáng sớm, với đôi mắt ngái ngủ và vết gối hằn trên má; khi biết rằng Christina rất vui vẻ vào buổi sáng, và Peter thức dậy với cái đầu tóc xẹp lép toàn diện, nhưng còn Cara thì chỉ giao tiếp bằng hàng loạt tiếng gầm gừ, lần mò từng bước, chân nọ xọ chân kia về phía ly cà phê.

Việc đầu tiên tôi làm là đi tắm và thay bộ đồ họ đưa cho chúng tôi, không khác lắm với những thứ đồ tôi đã quen thuộc, nhưng tất cả những màu sắc được trộn lẫn với nhau như thể chúng không có nghĩa gì với những người ở đây, mà có lẽ không có thật. Tôi tròng vào một cái áo đen và một cái quần jeans xanh, và cố thuyết phục mình rằng như vậy là bình thường, rằng tôi thấy bình thường, rằng tôi đang thích nghi.

Phiên xử ba tôi sẽ diễn ra hôm nay. Tôi vẫn chưa quyết định có đi xem hay không.

Khi tôi quay lại, Tris đã thay đồ xong, đang ngồi vắt vẻo trên một cạnh giường, tư thế sẵn sàng nhổm dậy bất cứ lúc nào. Y như Evelyn.

Tôi cầm một cái bánh nướng xốp trên khay đồ ăn sáng người ta mang cho tôi, và ngồi xuống đối diện em. “Chào buổi sáng. Em dậy sớm nhỉ.”

“Vâng,” em nói, chìa một bàn chân lên trước để nêm vào giữa hai bàn chân tôi. “Cô Zoe tìm thấy em ở chỗ cái bức tượng điêu khắc to đùng kia sáng nay – lão David có một thứ muốn đưa cho em.” Em cầm lên một cái màn hình bằng kính nằm trên giường bên cạnh em. Nó sáng lên khi em chạm vào, một tài liệu được mở ra. “Đây là hồ sơ của mẹ em. Bà ấy đã viết một cuốn nhật ký – ngắn thôi, nhìn có vẻ vậy – nhưng vẫn là tập nhật ký.” Em nhấp nha nhấp nhổm như thể không thấy thoải mái. “Em chưa coi kỹ nữa.”

“Vậy,” tôi hỏi, “sao em không đọc nó đi?”

“Em không biết.” Em đặt nó xuống, và cái màn hình tự động tắt ngúm. “Em nghĩ là em sợ nó.”

Những đứa con trong phái Abnegation hiếm khi biết rõ ba mẹ chúng theo một cách đặc biệt nào, vì các bậc cha mẹ Abnegation không bộc lộ bản thân theo cách các bậc cha mẹ khác vẫn làm khi con cái họ lớn đến một độ tuổi nhất định. Họ gói mình trong lớp áo giáp là những bộ đồ xám xịt và những hành động vô kỷ, bị thuyết phục rằng chia sẻ đồng nghĩa với buông thả. Thứ này không chỉ là một phần của mẹ Tris, được phục hồi; nó còn là một trong những cái nhìn chân thực đầu tiên và cuối cùng mà Tris có về con người thật của cô Natalie Prior.

Lúc này, tôi hiểu tại sao em lại cầm nó trên tay như một vật ma thuật, một vật có thể biến mất bất cứ lúc nào. Và tại sao em lại muốn để yên nó ở đó một lúc, giống như cảm giác của tôi về phiên xử người cha của tôi. Nó có thể cho em biết những điều em không hề muốn biết.

Tôi nhìn theo ánh mắt em về phía bên kia căn phòng nơi Caleb ngồi, đang nhồm nhoàm một miệng ngũ cốc, âu sầu ủ ê, như một đứa trẻ đang hờn dỗi.

“Em có định cho cậu ta coi không?” Tôi hỏi.

Em không trả lời.

“Bình thường thì anh sẽ không tán đồng việc cho cậu ta bất cứ thứ gì,” tôi nói. “Nhưng trong trường hợp này… cái này không thật sự thuộc về một mình em.”

“Em biết chứ,” em trả lời gọn lỏn. “Dĩ nhiên em sẽ cho anh ấy coi. Nhưng em nghĩ mình nên ở một mình với nó trước đã.”

Tôi không thể tranh cãi gì được. Phần lớn cuộc đời tôi đã dành để giữ kín những thông tin trong lòng, lật đi lật lại nó trong đầu. Sự thôi thúc chia sẻ điều gì đó là mới có, còn cái thôi thúc giấu kín thì lại tự nhiên như hơi thở.

Em thở dài rồi bẻ một miếng bánh xốp trên tay tôi. Tôi phẩy phẩy ngón tay em khi em rút tay lại. “Này. Có quá chừng bánh ở bên phải kìa, cách em chưa tới hai mét nữa đó.”

“Vậy thì anh không nên quá lo lắng về việc cái bánh của anh bị mất vài miếng đâu,” em nhe răng cười.

“Được thôi.”

Em nắm lấy vạt áo và kéo tôi lại gần rồi hôn tôi. Tôi trượt tay xuống dưới cằm em và giữ lấy em trong khi hôn đáp lại.

Rồi tôi thấy em lại trộm thêm một mẩu bánh nữa, và tôi lùi lại, trừng mắt với em.

“Thật chứ,” tôi nói. “Anh sẽ lấy cho em một cái từ cái bàn đó. Mất có mấy giây chứ mấy.”

Em toe toét cười. “À mà có chuyện này em muốn hỏi anh. Sáng nay anh có chịu làm một bài kiểm tra gen nho nhỏ không?”

Cụm từ “bài kiểm tra gen nho nhỏ” thình lình ập đến như một nghịch lý.

“Tại sao?” Tôi hỏi. Đề nghị xem bộ gen của tôi cũng gần giống như đòi tôi phải lột hết đồ đạc trên người ra vậy.

“Là thế này, có người này em mới vừa gặp – tên anh ta là Matthew – làm việc trong một phòng thí nghiệm ở đây, và anh ta nói rằng họ rất muốn nghiên cứu các chất liệu gen của chúng ta,” em nói. “Và anh ta đặc biệt hỏi anh, vì đại khái anh là một trường hợp cá biệt.”

“Cá biệt?”

“Hình như anh biểu hiện một số đặc điểm này của pergent và không biểu hiện những đặc điểm khác,”

em nói. “Em không biết nữa. Anh ta chỉ tò mò thôi. Anh không cần phải làm đâu.”

Không khí xung quanh đầu tôi dường như nóng hơn và nặng nề hơn. Để làm vơi đi cảm giác không thoải mái trong người, tôi sờ gáy, chà xát chân tóc.

Một tiếng đồng hồ nữa hay khoảng đó, ba mẹ tôi – Marcus và Evelyn – sẽ xuất hiện trên màn hình. Đột nhiên tôi biết mình sẽ không thể nào xem những hình ảnh đó được.

Vậy nên dù tôi không thật sự muốn cho một người lạ kiểm tra những mảnh ghép cấu thành nên sự tồn tại của tôi, tôi vẫn nói, “Chắc chắn rồi, anh sẽ tham gia.”

“Tuyệt,” Tris nói, và em cắn thêm một miếng bánh nữa của tôi. Một cọng tóc xòa xuống mắt em, và tôi gạt nó ra sau còn trước khi em nhận ra. Em khum tay ôm lấy bàn tay tôi, tay em ấm và chắc chắn, và khóe môi em cong lên thành một nụ cười.

Cửa bật mở, đón một người đàn ông trẻ với đôi mắt xiên xiên góc cạnh và mái tóc màu đen. Tôi nhận ra ngay tức thì đó là George Wu, em trai của cô Tori. “Georgie” là cái tên cô gọi anh ấy.

Anh ấy nở một nụ cười hớn hở, và tôi cảm thấy thôi thúc muốn lùi lại, muốn tăng thêm khoảng cách giữa tôi và nỗi đau thương sắp đến với người đàn ông ấy.

“Tôi mới vừa về tới,” anh ấy nói muốn hụt hơi. “Họ nói với tôi chị ấy đi cùng với các bạn, và…”

Tris và tôi bối rối nhìn nhau. Xung quanh chúng tôi, những người khác đã chú ý đến George vừa đến và đồng loạt im lặng, cùng một bầu không khí im lặng như trong một đám tang Abnegation. Ngay cả Peter, cái gã tôi tưởng sẽ thèm khát nhìn thấy người khác đau đớn, trông cũng lúng túng, đổi hai tay từ chống hông sang đút vô túi rồi lại chống hông lại.

“Và…” George lại nói. “Sao các bạn lại nhìn tôi như thế?”

Cara bước lên trước, chuẩn bị thông báo tin xấu, nhưng tôi không hình dung ra Cara có thể chia sẻ cái tin đó một cách tế nhị, nên tôi đứng lên và nói thay cô ấy.

“Chị gái anh đúng là có ra đi cùng chúng tôi,” tôi nói.

“Nhưng chúng tôi bị tấn công bởi những người vô môn phái, và cô ấy… không vượt qua được.”

Có quá nhiều điều mà cụm từ đó không diễn tả được –

nó xảy ra nhanh chóng như thế nào, và âm thanh khi cơ thể cô ấy ngã xuống đất ra sao, sự hỗn loạn khi tất cả mọi người chạy tứ tán trong màn đêm, vấp váp trên cỏ. Tôi đã không quay lại cứu cô ấy. Lẽ ra tôi nên làm thế – trong số những người cùng băng với tôi, tôi biết cô Tori rõ nhất, biết rõ cô cầm cây kim xăm chặt như thế nào, tiếng cười của cô giòn tan như thế nào, như được chà bằng giấy nhám vậy.

Anh George vịn vào bức tường sau lưng để đứng vững.

“Cái gì?”

“Cô ấy đã hy sinh để bảo vệ chúng tôi,” Tris lên tiếng, nhẹ nhàng đến ngạc nhiên. “Không có cô ấy, không ai trong chúng tôi có thể thoát được.”

“Chị ấy… chết rồi ư?” George yếu ớt hỏi. Anh dựa cả người vào tường, vai thõng xuống.

Tôi nhìn thấy chú Amar xuất hiện trong hành lang, tay cầm một miếng bánh mì nướng và nụ cười nhanh chóng héo đi. Ông ấy đặt miếng bánh mì lên một cái bàn gần cửa.

“Tôi đã cố tìm cậu sớm hơn để báo cho cậu biết,” chú Amar nói.

Tối qua chú Amar chỉ ngẫu nhiên nhắc tới tên George nên tôi không nghĩ họ thật sự quen biết nhau. Nhưng rõ ràng là họ có quen nhau thật.

Đôi mắt anh George ngấn nước, và một tay chú Amar kéo anh ấy lại để ôm. Những ngón tay của anh George co quắp lại trên áo của chú ấy, khớp ngón tay gồng lên trắng bệch. Tôi không nghe tiếng anh ấy khóc, và có lẽ anh ấy không khóc, có lẽ tất cả những gì anh ấy cần chỉ là được vịn vào thứ gì đó. Tôi chỉ còn giữ những ký ức mơ hồ về nỗi đau đớn của tôi dành cho mẹ tôi, khi tôi nghĩ bà ấy chết rồi – chỉ còn cái cảm giác rằng tôi bị chia cách khỏi mọi thứ xung quanh, và cảm giác thường trực cần phải nuốt thứ gì đó xuống khỏi họng. Tôi không biết với người khác thì sao.

Sau cùng, chú Amar dẫn anh George ra khỏi phòng, và tôi nhìn họ bước đi trên hành lang, vai kề vai, thì thầm trò chuyện cùng nhau.

Tôi hầu như chẳng nhớ mình đã đồng ý tham gia vào buổi kiểm tra gen đến khi có một người xuất hiện trước cửa phòng ngủ – một thằng nhóc, không hẳn là một thằng nhóc, vì hắn nhìn cỡ tuổi tôi. Tên đó vẫy Tris.

“Ồ, Matthew kìa,” em nói. “Em nghĩ chúng ta nên đi thôi.”

Em nắm tay dắt tôi ra cửa. Không biết sao mà tôi đã bỏ qua đoạn em nói “Matthew” không phải là một nhà khoa học già khú đế cộc cằn. Hoặc có lẽ em đã không hề nhắc tới.

Đừng có ngu thế, tôi nghĩ thầm.

Matthew chìa tay ra. “Xin chào. Rất vui được gặp cậu.

Tôi là Matthew.”

“Tobias,” tôi nói, bởi vì “Số Bốn” nghe là lạ ở đây, nơi người ta sẽ chẳng bao giờ định danh bằng số lượng nỗi sợ hãi mình có. “Tôi cũng vậy.”

“Vậy thì chúng ta đến phòng thí nghiệm chứ nhỉ,” gã nói. “Chúng ở hướng này.”

Sáng nay đặc khu kín đặc người, tất cả đều mặc đồng phục màu xanh dương và xanh lá ngắn ngang mắt cá chân hoặc dừng lại vài phân phía trên giày, tùy thuộc vào chiều cao của người mặc. Đặc khu có rất nhiều không gian mở được phân nhánh ra từ những hành lang chính, như những khoang tim, mỗi cái được đánh dấu bằng một chữ cái và một con số, và có vẻ như người ta di chuyển qua lại giữa chúng, vài người mang theo cái thiết bị bằng kính giống cái Tris mang về sáng nay, vài người đi tay không.

“Những con số này là sao?” Tris hỏi. “Chỉ là cách đánh ký hiệu mỗi khu vực thôi hả?”

“Chúng từng là những cánh cổng,” Matthew đáp.

“Nghĩa là mỗi cái bao gồm một cánh cửa và một lối đi dẫn vào một chiếc máy bay riêng bay đến một địa điểm riêng.

Khi họ chuyển sân bay thành đặc khu, họ tháo hết mấy cái ghế để cho người ta ngồi đợi máy bay và thay chúng bằng những thiết bị cho phòng thí nghiệm, hầu hết lấy từ các trường học trong thành phố. Về cơ bản, khu vực này của đặc khu là một phòng thí nghiệm khổng lồ.

“Họ đang làm gì? Tôi nghĩ các vị chỉ quan sát những thí nghiệm thôi chứ,” tôi nói, nhìn một người phụ nữ chạy cuống cuồng từ bên này hành lang sang bên kia với một cái màn hình giữ thăng bằng trên hai lòng bàn tay như một lễ vật. Những tia sáng vắt ngang qua sàn lát đá bóng loáng, xuyên qua những cửa sổ trên trần. Nhìn qua cửa sổ, mọi thứ trông rất yên bình. Mỗi bụi cỏ đều được cắt tỉa gọn gàng, những chùm cây dại đu đưa ở phía xa, và thật khó tưởng tượng rằng người ta đang hủy hoại lẫn nhau ngoài kia vì những “bộ gen hỏng” hay đang sống dưới những luật lệ hà khắc của Evelyn trong thành phố mà chúng tôi đã bỏ lại phía sau.

“Một số người quả có đang làm việc đó thật. Tất cả những gì họ chú ý trong những thí nghiệm còn lại phải được ghi chép và phân tích, nên việc đó cần rất nhiều nhân lực. Nhưng vài người trong số họ thì đang nghiên cứu các phương pháp tốt hơn để chữa những thương tổn về gen, hoặc nghiên cứu phát triển các huyết thanh để phục vụ nhu cầu của chúng tôi thay vì cho các thí nghiệm – cả tá dự án. Tất cả những gì cậu phải làm là nghĩ ra một ý tưởng, tập hợp một nhóm, và đề xuất nó với một hội đồng quản lý đặc khu này dưới quyền ông David. Thường thì họ duyệt hết những thứ không quá mạo hiểm.”

“Phải rồi,” Tris nói. “Ai lại đi muốn dấn thân mạo hiểm chứ?”

Em khẽ đảo mắt.

“Họ có lý do cho những nỗ lực của họ,” Matthew nói.

“Trước khi các môn phái được đề ra, cùng với đó là huyết thanh, tất cả những thí nghiệm đều từng gánh chịu những công kích khá thường xuyên ngay từ bên trong. Các loại huyết thanh giúp những người trong thí nghiệm giữ mọi thứ trong tầm kiểm soát, nhất là huyết thanh ký ức. Chậc, tôi nghĩ hiện giờ thì không có ai đang nghiên cứu nó cả –

nó đang nằm trong Phòng Vũ Khí rồi.”

“Phòng Vũ Khí.” Cậu ta phát âm từ đó cứ như chúng là một thứ đồ dễ vỡ trong miệng cậu ta vậy. Những từ đáng sợ.

“Vậy là Cục đã cung cấp các huyết thanh cho chúng tôi, ngay từ đầu,” Tris nói.

“Đúng vậy,” gã ta đáp. “Rồi phái Erudite tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện chúng. Trong đó có anh trai cô. Thật ra mà nói, chúng tôi có được một số tiến triển trong huyết thanh của chúng tôi là nhờ họ, nhờ quan sát họ trong phòng điều khiển. Chỉ có điều họ không đụng nhiều tới huyết thanh ký ức – loại huyết thanh của phái Abnegation.

Chúng tôi đã có bước tiến xa hơn với nó, vì nó là vũ khí lợi hại nhất của chúng tôi.”

“Một vũ khí,” Tris lặp lại.

“Chậc, nó dành cho những thành phố để chống lại cuộc nổi loạn của chính họ, vì một mục đích – xóa ký ức của người ta và thế là không cần thiết phải giết họ nữa; họ chỉ quên béng mất mình đã đấu tranh vì cái gì. Và chúng tôi cũng có thể sử dụng nó để chống lại bọn phiến quân từ vùng giáp ranh, nơi đó cách đây một tiếng đồng hồ đi xe. Thỉnh thoảng những người ở vùng giáp ranh tấn công chúng tôi, và huyết thanh ký ức ngăn được họ mà không phải giết họ.”

“Đó…” tôi bắt đầu.

“Vẫn dễ sợ quá chứ gì?” Matthew nhắc bài. “Ừ, đúng vậy.

Nhưng những chóp bu ở đây lại coi nó là một thứ duy trì sự sống, như một cái máy thở vậy. Chúng ta đến rồi.”

Tôi nhướn mày. Cậu ta mới vừa dè bỉu lãnh đạo của mình, bình thản tới mức tôi suýt nữa thì bỏ qua mất. Tôi băn khoăn không biết đây có phải là cái nơi như thế không – nơi những bất đồng quan điểm có thể được nói oang oang nơi công cộng, giữa những cuộc nói chuyện bình thường, thay vì ở những chỗ bí mật, bằng những giọng nói thầm thì.

Cậu ta quét tấm thẻ an ninh lên cánh cửa bên trái, và chúng tôi bước vào một hành lang nữa, lần này hẹp và sáng mờ mờ, đèn huỳnh quang. Cậu ta dừng lại trước một cánh cửa đề PHÒNG TRỊ LIỆU GEN 1. Bên trong, một cô gái có làn da màu nâu sáng và mặc bộ đồ áo liền quần màu xanh lá cây đang thay những tờ giấy phủ kín trên bàn kiểm tra.

“Đây là Juanita, kỹ thuật viên phòng thí nghiệm. Juanita, đây là…”

“Vâng, tôi biết họ là ai rồi,” cô ta nói, mỉm cười. Qua khóe mắt, tôi thấy Tris cứng người lại, chuẩn bị nổi cơn tam bành với một lời khẳng định rằng cả đời chúng tôi đều đã bị phơi trên máy quay. Nhưng Tris không đả động gì tới chuyện đó.

Cô gái chìa tay ra. “Người hướng dẫn của Matthew là người duy nhất gọi tôi là Juanita. Ngoại trừ Matthew, rõ là thế. Tôi là Nita. Cậu cần chuẩn bị hai bài kiểm tra phải không?”

Matthew gật đầu.

“Để tôi lo.” Cô ta mở một loạt tủ dựng bên kia căn phòng và bắt đầu lôi đồ lôi đạc ra. Tất cả những thứ đó đều được bọc kín trong bọc nhựa hoặc giấy và được dán nhãn màu trắng. Căn phòng toàn tiếng sột soạt và tiếng xé giấy.

“Đến giờ các bạn thấy nơi này thế nào?” Cô ta hỏi chúng tôi.

“Chúng tôi vẫn đang tập thích nghi,” tôi đáp.

“Vâng, tôi hiểu ý anh.” Nita cười với tôi. “Tôi đến từ một cuộc thí nghiệm khác – ở Indianapolis, cái vụ bị thất bại đó. Ồ, các bạn không biết Indianapolis là ở đâu phải không? Không xa đây lắm. Chưa tới một giờ bay.” Cô ta dừng lại. “Cái đó cũng không có nghĩa gì với các bạn nốt đúng không. Mà biết sao không? Chẳng quan trọng đâu.”

Cô ta lấy ra một cái xi lanh và kim tiêm từ cái bọc nhựa – giấy – và Tris liền căng thẳng.

“Cái đó để làm gì vậy?” Tris hỏi.

“Nó là thứ sẽ giúp chúng tôi đọc bộ gen của cô,” Matthew đáp. “Cô có sao không?”

“Không sao,” Tris trả lời, nhưng em vẫn căng thẳng.

“Tôi chỉ… tôi không thích bị tiêm chất gì lạ vô người.”

Matthew gật đầu. “Tôi thề nó sẽ chỉ đọc bộ gen của cô thôi.

Tác dụng của nó chỉ có vậy. Nita có thể đảm bảo điều đó.”

Nita gật đầu.

“Được rồi,” Tris nói. “Nhưng… tôi tự làm được không?”

“Chắc chắn rồi,” Nita nói. Cô ta chuẩn bị ống tiêm, hút đầy cái thứ gì đó họ định tiêm vào người chúng tôi, và đưa nó cho Tris.

“Tôi sẽ giải thích đơn giản cho các bạn về cách thức hoạt động của thứ này,” Matthew nói trong lúc Nita chùi tay Tris bằng bông sát trùng. Mùi chua lè, xộc thẳng vào mũi tôi.

“Chất lỏng này chứa những vi máy tính. Chúng được thiết kế để phát hiện những dấu hiện của các gen đặc biệt và truyền dữ liệu về một chiếc máy tính. Sẽ mất khoảng một tiếng để chúng gửi cho tôi đủ thông tin cần thiết, dù sẽ mất lâu hơn nhiều để chúng đọc được hết các chất liệu gen của các bạn, đương nhiên.”

Tris đâm kim vô tay em và nhấn ống bơm.

Nita ra hiệu cho tôi chìa cánh tay ra và chùi miếng gạc thấm màu cam lên. Chất lỏng trong xi-lanh có màu xám bạc, như vảy cá, và khi nó chạy vào người tôi qua cây kim, tôi hình dung ra cảnh thứ công nghệ vi mô đang luồn lách trong người tôi, đọc vị tôi và phân tích tôi. Bên cạnh tôi, Tris đang giữ chặt miếng bông vải lên chỗ da mới bị tiêm và khẽ mỉm cười với tôi.

“Vi máy tính… là gì?” Matthew gật đầu, và tôi nói tiếp.

“Chính xác thì chúng đang tìm cái gì?”

“Chà, khi những người tiền nhiệm của chúng tôi ở Cục gài những đoạn gen “đã được sửa chữa” vào tổ tiên của các bạn, họ cũng gài luôn cả một thiết bị theo dõi gen, cơ bản là một thứ cho chúng tôi biết khi người đó đã hồi phục gen. Trong trường hợp này, thiết bị theo dõi gen chính là sự tỉnh táo trong suốt quá trình mô phỏng – nó là thứ chúng tôi có thể dễ dàng kiểm tra, sẽ cho chúng tôi biết liệu gen của anh đã hồi phục hay chưa. Đó là một trong những lý do tại sao mọi người trong thành phố đều phải làm bài kiểm tra tư cách khi đến tuổi mười sáu – nếu họ tỉnh táo trong suốt bài kiểm tra, chúng tôi sẽ biết rằng có lẽ họ sỡ hữu bộ gen đã hồi phục.”

Tôi thêm bài kiểm tra tư cách vào danh sách ở trong đầu những thứ đã từng rất quan trọng với tôi, giờ thì dẹp qua một bên vì nó chỉ là một trò bịp để những người này lấy được thông tin hoặc kết quả họ cần.

Tôi không thể tin sự tỉnh táo trong suốt các trình mô phỏng đó, thứ đã khiến tôi cảm thấy mạnh mẽ và độc nhất, thứ mà mụ Jeanine và phái Erudite đã vì đó mà giết người, thực ra chỉ là một dấu hiệu của việc phục hồi gen với những người này. Như một từ khóa đặc biệt, nói với họ rằng tôi nằm trong cái xã hội lành lặn về gen của họ.

Matthew nói tiếp, “Vấn đề duy nhất của thiết bị theo dõi gen là việc tỉnh táo trong suốt trình mô phỏng và việc chống lại huyết thanh không nhất thiết phải có nghĩa rằng người đó là pergent, nó chỉ là một sự tương quan mạnh mẽ mà thôi. Thỉnh thoảng có người vẫn tỉnh táo trong quá trình mô phỏng hoặc có khả năng kháng lại huyết thanh ngay cả khi họ vẫn còn bộ gen hỏng.” Cậu ta nhún vai. “Đó là lý do vì sao tôi hứng thú với bộ gen của anh, Tobias. Tôi tò mò không biết anh có phải pergent thật không, hay chỉ là sự tỉnh táo trong trình mô phỏng khiến anh trông giống vậy thôi.”

Nita đang dọn dẹp cái kệ, mím chặt môi như đang cố ngậm không cho những từ trong miệng vọt ra lại. Đột nhiên tôi thấy không thoải mái. Có khả năng tôi không phải là pergent ư?

“Giờ chỉ còn ngồi chờ thôi,” Matthew nói. “Tôi sẽ đi lấy đồ ăn sáng. Hai người có muốn ăn gì không?”

Tris và tôi đều lắc đầu.

“Tôi sẽ quay lại nhanh thôi. Nita, trò chuyện với họ nhé, được không?”

Matthew bỏ đi mà không đợi Nita trả lời, và Tris thì ngồi trên bàn nghiên cứu, giấy kêu sột soạt bên dưới em và rách toạc nơi chân em buông xuống cạnh bàn. Nita xỏ hai tay vô túi cái áo liền quần của mình và nhìn chúng tôi. Mắt cô ta sẫm màu, với một vẻ óng ánh giống như một vũng dầu rỉ bên dưới một chiếc máy bị rò. Cô ta đưa tôi một miếng bông vải, và tôi nhấn nó lên nốt máu trên cùi chỏ.

“Vậy là chị cũng đến từ một thành phố thí nghiệm,”

Tris mở lời. “Chị ở đây bao lâu rồi?”

“Từ khi cuộc thí nghiệm Indianapolis bị giải tán, khoảng tám năm trước. Tôi đã có thể gia nhập vào phần dân số đông hơn ở bên ngoài các cuộc thí nghiệm, nhưng như vậy tôi chịu không nổi.” Nita tựa vào kệ. “Nên tôi tình nguyện đến đây. Có lúc tôi từng làm gác cổng. Tôi đoán là tôi đang thăng tiến dần.”

Cô ta kể với giọng điệu đượm mùi cay đắng. Tôi ngờ rằng ở đây, cũng như ở phái Dauntless, có một giới hạn với sự thăng tiến của cô ta, và cô ta đang tiến tới gần nó nhanh hơn mong đợi. Cũng giống như tôi, khi tôi chọn công việc trong phòng điều khiển.

“Và thành phố của chị, nó không có các môn phái ư?”

Tris hỏi.

“Không, nó là nhóm đối chứng – nó giúp họ ngộ ra thông qua những so sánh rằng các môn phái thật sự hiệu quả. Dù vậy, ở đó vẫn có rất nhiều luật lệ – lệnh giới nghiêm, giờ dậy, quy định an ninh. Cấm vũ khí. Những thứ đại loại vậy.”

“Chuyện gì đã xảy ra?” Tôi hỏi, và một tích tắc sau tôi ước mình đã không hỏi, vì khóe miệng Nita trễ xuống, như thể ký ức đang treo nặng hai bên mép cô ta.

“Để coi, một số người bên trong vẫn biết cách chế tạo vũ khí. Họ đã chế ra bom – các bạn biết đấy, một loại chất nổ – và kích nổ trong tòa nhà chính phủ,” cô ta kể. “Đã có rất nhiều người bỏ mạng. Và sau đó, Cục quyết định cuộc thí nghiệm của chúng tôi là một thất bại. Họ xóa trí nhớ của những kẻ đánh bom và cho phần còn lại chúng tôi chuyển đi. Tôi là một trong những người duy nhất muốn tới đây.”

“Tôi rất tiếc,” Tris khẽ nói. Thỉnh thoảng tôi vẫn quên tìm kiếm những phần dịu dàng của em. Trong một thời gian dài, tất cả những gì tôi nhìn thấy là sự mạnh mẽ, nổi bật như những cơ bắp dẻo dai trên tay em hay những hình xăm màu đen gần cổ em.

“Không sao. Đâu phải hai người không biết về những việc tương tự như thế đâu,” Nita nói. “Với những gì bà Jeanine Matthews đã làm và tất cả mọi thứ.”

“Tại sao họ chưa đóng cửa thành phố của chúng tôi?”

Tris hỏi. “Giống như họ đã làm với thành phố của chị ấy?”

“Họ vẫn có thể đóng cửa nó,” Nita nói. “Nhưng tôi nghĩ cuộc thí nghiệm Chicago, đặc biệt, đã là một thành công quá lâu rồi nên họ có hơi lưỡng lự một chút, không muốn bỏ nó đi như vậy. Nó là cuộc thí nghiệm đầu tiên có môn phái mà.”

Tôi bỏ miếng bông khỏi tay. Có một chấm đỏ nhỏ xíu nơi kim tiêm đâm vào, nhưng máu đã ngừng chảy.

“Tôi thích nghĩ rằng tôi sẽ chọn Dauntless,” Nita nói.

“Nhưng tôi không nghĩ mình đủ gan cho nó.”

“Chị sẽ ngạc nhiên với những việc chị đủ gan để làm khi tình thế bắt buộc đấy,” Tris nói.

Ngực tôi nhói lên. Em nói đúng. Sự tuyệt vọng có thể khiến một người làm những việc đáng kinh ngạc. Hai chúng tôi đều biết vậy.”

Matthew quay lại sau đúng một tiếng đồng hồ, và cậu ta ngồi dán mắt trước máy tính rất lâu sau đó, mắt đảo tới đảo lui trong lúc đọc trên màn hình. Thỉnh thoảng cậu ta lại kêu lên một tiếng như phát hiện được điều gì, một tiếng “hmm!” hay “à!”. Cậu ta chần chừ chưa nói gì, bất cứ điều gì, với chúng tôi càng lâu, cơ bắp tôi càng căng lên, cho đến khi có cảm giác vai tôi làm bằng đá chứ không phải bằng thịt. Cuối cùng, cậu ta nhìn lên và xoay màn hình qua để chúng tôi nhìn thấy những thứ trên đó.

“Chương trình này giúp chúng tôi diễn giải dữ liệu theo một cách dễ hiểu. Cái các bạn đang thấy ở đây là một miêu tả đơn giản của một đoạn DNA đặc biệt trong mẫu gen của Tris,” cậu ta nói.

Bức hình trên màn hình là một nùi rối rắm toàn đường nét và con số, với một số phần nhất định có màu vàng và đỏ. Tôi không hiểu mô tê gì cái bức tranh đó cả ngoài việc đó – nó vượt quá nhận thức của tôi.

“Những sự chọn lọc ở đây là những gen đã lành lặn.

Chúng ta sẽ không thể nhìn thấy chúng nếu chúng còn bị hỏng.” Cậu ta vỗ lên vài chỗ trên màn hình. Tôi không hiểu những gì cậu ta đang chỉ, nhưng cậu ta hình như không để ý, vẫn mê mải giải thích. “Những vùng chọn lọc ở đây chỉ ra rằng chương trình cũng tìm thấy máy theo dõi gen, chính là sự tỉnh táo trong trình mô phỏng. Sự kết hợp của các gen lành và các gen tỉnh trong trình mô phỏng đúng là thứ tôi mong sẽ thấy trong bộ gen của một pergent. Giờ tới phần lạ lùng đây.”

Cậu ta lại chạm vào màn hình, và màn hình thay đổi, nhưng nó vẫn rối rắm như vậy, một mạng nhện toàn đường kẻ và những chuỗi số má rối tinh.

“Đây là bản đồ gen của Tobias,” Matthew thuyết minh.

“Như các bạn có thể thấy, anh ấy có những thành phần cấu thành gen đúng của sự tỉnh táo trong trình mô phỏng, nhưng anh ấy không có những gen ‘lành lặn’ như Tris.”

Cổ họng tôi khô khốc, và tôi cảm thấy như mới nhận một tin vô cùng xấu, nhưng tôi vẫn chưa nắm được cái tin xấu đó là gì.

“Điều đó có nghĩa là gì?” Tôi hỏi.

“Nó có nghĩa là,” Matthew nói, “cậu không phải là pergent. Bộ gen của cậu vẫn bị hỏng, nhưng cậu có một độ dị thường về gen cho phép cậu vẫn tỉnh táo trong suốt các trình mô phỏng. Nói cách khác, cậu có những biểu hiện của pergent nhưng không thật sự là một pergent.”

Tôi xử lý thông tin đó một cách chậm chạp, từng tí từng tí một. Tôi không phải là pergent. Tôi không giống Tris.

Tôi có bộ gen hỏng.

Từ “hỏng” chìm vào người tôi như thể nó được làm bằng chì. Tôi đoán mình đã luôn biết bản thân mình có gì đó không ổn, nhưng tôi cứ nghĩ đó là do ba tôi, hay mẹ tôi, và nỗi đau họ để lại cho tôi như một vật gia truyền, truyền lại từ đời nay đến đời khác. Và điều này đồng nghĩa với việc thứ tốt đẹp duy nhất mà ba tôi có – tính chất pergent của ông ấy – đã không truyền lại được cho tôi.

Tôi không nhìn Tris – tôi không chịu nổi. Thay vào đó tôi nhìn Nita. Mặt cô ta đanh lại, như đang giận dữ.

“Matthew,” cô ta nói. “Anh không muốn đem những dữ liệu này về phòng thí nghiệm của anh mà phân tích sao?”

“Chà, tôi đang định thảo luận sâu hơn với các chủ thể của chúng ta ở đây,” Matthew đáp.

“Tôi không nghĩ đó là ý hay,” Tris nói sắc như dao cạo.

Matthew nói gì đó mà tôi không thật sự nghe thấy; tôi đang lắng nghe tim mình đập. Cậu ta lại vỗ lên màn hình, và hình ảnh về DNA của tôi biến mất, màn hình lại trống trơn, chỉ còn mặt kính. Rồi cậu ta rời đi, chỉ chúng tôi cách ghé qua phòng thí nghiệm của cậu ta nếu muốn biết thêm thông tin, và Tris, Nita và tôi đứng lại trong im lặng.

“Chẳng phải chuyện gì to tát cả,” Tris nói cứng. “Được chứ?”

“Đừng có nói với anh nó không phải chuyện to tát!” Tôi nói, lớn tiếng hơn mong muốn.

Nita tự làm mình bận rộn với cái kệ, đảm bảo cho mấy cái chai lọ được xếp ngay hàng thẳng lối, dù chúng chẳng nhúc nhích lấy một phân kể từ lúc chúng tôi vào đến giờ.

“Em cứ nói đó!” Tris kêu lên. “Anh vẫn là cùng một con người của năm phút đồng hồ trước và bốn tháng trước và mười tám năm trước! Việc này chẳng thay đổi bất cứ thứ gì về anh cả.”

Tôi nghe thấy trong những lời em vừa nói có cái gì đó đúng, nhưng hiện tại khó lòng mà tin lời em được.

“Vậy em nói với anh là chuyện này chẳng ảnh hưởng gì hết,” tôi nói. “Sự thật chẳng ảnh hưởng gì hết.”

“Sự thật nào?” Em nói. “Những người này nói có gì đó không ổn với bộ gen của anh và anh tin ngay sao?”

“Nó ở ngay đó mà.” Tôi chỉ cái màn hình. “Em đã nhìn thấy mà.”

“Em cũng thấy anh nữa,” Tris giận dữ nói, tay em siết chặt cánh tay tôi. “Và em biết anh là ai.”

Tôi lắc đầu. Tôi vẫn không thể nhìn em, không thể nhìn vào bất cứ thứ gì. “Anh… cần phải đi dạo một chút. Anh sẽ gặp em sau.”

“Tobias, đợi đã…”

Tôi bước ra ngoài, và một ít áp lực trong người dường như được giải tỏa bớt ngay khi tôi không còn ở trong căn phòng đó nữa. Tôi bước trên cái hành lang chật hẹp cứ ép vào tôi như một hơi thở ra để vào một hội trường đầy nắng ở đầu bên kia. Bầu trời màu xanh dìu dịu. Tôi nghe thấy tiếng bước chân vang lên từ phía sau, nhưng nó quá nặng nề nên không thể nào là của Tris được.

“Này.” Nita xoay chân, làm nó kêu ken két trên sàn.

“Không áp lực gì đâu, nhưng tôi muốn nói chuyện với cậu về chuyện… hỏng gen này. Nếu cậu hứng thú, hãy gặp tôi tối nay lúc chín giờ. Và… không có ý gì với bạn gái của cậu hay gì đâu, nhưng có lẽ cậu không muốn mang cô ấy theo đâu.”

“Tại sao?” Tôi hỏi.

“Cô ấy là một GL – gen lành. Nên cô ấy sẽ không hiểu được chuyện đó – chà, thật khó giải thích. Hãy tin tôi, được chứ? Tốt hơn cô ấy nên đứng ngoài chuyện này ít lâu.”

“Được thôi.”

“Được.” Nita gật đầu. “Tôi phải đi đây.”

Tôi nhìn cô ta chạy ngược lại phòng trị liệu gen, rồi tiếp tục sải bước. Tôi không biết chính xác mình đang đi đâu, chỉ là khi tôi đi bộ, sự điên cuồng trong những thông tin lĩnh hội được những ngày qua thôi không còn xoay vần quá nhanh nữa, thôi không còn kêu gào quá lớn trong đầu tôi nữa.