← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ NĂM - Sự Đổi Thay -Chương 14 Trung Đông: Con Đường Hoà Bình Đầy Khó Khăn

dịch giả: lâm hoàng mạnh

PHẦN THỨ NĂM - Sự Đổi Thay -Chương 14

trung đông: con đường hoà bình đầy khó khăn

uốc kỳ Palestin hình chữ nhật, bên cán cờ có hình tam giác nhỏ màu đỏ, bên phải có ba sọc đen, trắng và xanh lá cây. Trong thời gian Chiến tranh sáu ngày năm 1967 cho đến khi Hiệp định Hòa bình Oslo ký kết năm 1993, chính phủ Israel cấm treo lá cờ này ngay tại vùng đất của chính người Palestin. Lá cờ được coi là biểu tượng của chủ nghĩa khủng bố, đối kháng của phong trào Intifada, gây nên các cuộc bạo động chống lại luật lệ của Israel, làm rung chuyển vùng lãnh thổ Palestin vào những năm cuối của thập niên 1980s. Ngay cả sau 17 năm Hiệp định Oslo được ký kết, lá cờ Palestin vẫn là chủ đề tranh cãi, nóng bỏng đối với một số người bảo thủ Do Thái. Vì vậy, điều thật bất ngờ trung tuần tháng 9-2010, tại trụ sở chính ở Jerusalem của Thủ tướng Benjamin “Bibi” Netanyahu, nhà lãnh đạo cánh tả của Đảng Likud, người ta thấy lá cờ sọc đen, trắng, xanh lá cây và tam giác đỏ treo bên cạnh lá cờ xanh-trắng của Israel quen thuộc.

Bibi từng chỉ trích người tiền nhiệm Ehud Olmert treo cờ Palestine mấy năm trước là một cử chỉ hoà giải của Thủ tướng với vị khách đến thăm hôm ấy, Tổng thống Chính quyền Palestine Mahmoud Abbas. Đón Abbas, ông Bibi nói: “Tôi rất hân hạnh được đón tiếp ngài đến thăm nhà tôi.” Tổng thống Palestine dừng lại giữa lối vào, ghi vào cuốn sổ khách mời của Thủ tướng: “Hôm nay tôi trở lại khu nhà mà lâu nay xa vắng để tiếp tục đàm phán và thương lượng, với niềm hy vọng sẽ đạt được một nền hòa bình vĩnh cửu trong khu vực, đặc biệt hòa bình giữa nhân dân hai nước Israel và Palestine.”

Sự ăn miếng trả miếng trong ngôn từ hôm ấy không gây áp lực, chúng tôi đàm phán trong phòng làm việc riêng của ông Netanyahu, trong khi đó có một lệnh cấm sắp hết thời hạn. Chưa đầy hai tuần nữa lệnh cấm 10 tháng về việc xây dựng các khu định cư cho người Do Thái bên West Bank (Bờ Tây) sẽ hết hiệu lực, trừ khi chúng tôi có thể đạt được thỏa thuận kéo dài lệnh cấm. Cuộc đàm phán vừa mới bắt đầu, Abbas đòi rút khỏi cuộc đàm phán còn Netanyahu kiên quyết cho rằng 10 tháng là quá đủ. Mất gần hai năm vận động ngoại giao vất vả mới được hai nhà lãnh đạo này đồng ý trực tiếp mặt đối mặt giải quyết cuộc xung đột Trung Đông trong nhiều thập niên qua. Hai bên tranh cãi kịch liệt về những vấn đề cốt lõi, lảng tránh những nỗ lực về hoà bình, bao gồm biên giới của nhà nước Palestine trong tương lai; Thoả thuận an ninh cho Israel; Về người tỵ nạn; Về tình trạng Jerusalem, một thành phố mà cả hai bên đều tuyên bố là thủ đô của mình. Tình hình bấy giờ căng thẳng tưởng như cả hai sẽ bỏ cuộc họp trong thời điểm quan trọng, nhưng tôi rất tự tin sẽ tìm được giải pháp thoát khỏi sự bế tắc.

Tôi viếng thăm Israel lần đầu vào tháng 12-1981 theo tour du lịch của nhà thờ đến Holy Land cùng với Bill Clinton. Còn Chelsea ở nhà với ông bà ngoại ở Little Rock, hai chúng tôi dành hơn 10 ngày thăm quan, khám phá Galilee, Masada Tel Aviv, Haifa và khu phố cổ của Thành phố cổ Jerusalem. Chúng tôi cầu nguyện tại Nhà thờ Mộ Thánh (Church of Holy Sepilchre), nơi mà các con chiên Kitô giáo tin rằng Chúa Jesus được mai táng và phục sinh. Chúng tôi cũng đến viếng một số vùng đất thánh của Kitô hữu, người Do Thái, người Hồi giáo kể cả Bức tường phiá Tây (Western Wall), nhà thờ Hồi giáo Al – Aqa và Đền thờ Đá Khối (Dome of Rock, một nửa núi đá này là nghĩa địa của người Do Thái - ND). Tôi thật sự yêu mến thành phố Jerasalem. Một thành phố có bề dày lịch sử và thuyền thống và là thành phố sinh động, náo nhiệt. Tôi thật ngưỡng mộ tài năng, sự kiên cường của người dân Israel. Họ đã biến sa mạc thành khu vườn đầy hoa, xây dựng nền dân chủ phát triển mạnh mẽ trong khu vực, nơi có đủ các đối thủ và nền độc tài.

Khi chúng tôi rời thành phố, viếng thăm Jericho ở West Bank, đây là lần đầu tiên tôi tận mắt chứng kiến cuộc sống dưới sự kiểm soát của người Palestine, nơi đã từ chối phẩm giá, quyền tự quyết mà người Mỹ muốn dành cho họ. Tôi và Bill sau chuyến đi cảm thấy có sự gần gũi, thân thiết với Holy Land và người dân nơi ấy, hy vọng một ngày nào đó nhân dân Israel và Palestine sẽ giải quyết được sự xung đột, chung sống trong hoà bình.

Hơn ba mươi năm qua, tôi đến nhiều lần để tìm hiểu và sát cánh với một số nhà lãnh đạo vĩ đại của Israel. Với cương vị Đệ Nhất phu nhân, tôi trở thành bạn thân Thủ tướng Yitzhak Rabin và phu nhân, bà Leah, mặc dù có thể ông không quên chuyện tôi yêu cầu ông phải ra ban công Nhà Trắng giá lạnh hút thuốc. (Rabin lên án tôi gây nguy hiểm cho tiến trinh đàm phán hoà bình vì bắt ông phải ra ngoài hiên hút thuốc, tôi đành nhượng bộ, nói “Thôi được, vì nỗ lực của tiến trình hoà bình tôi sẽ huỷ nguyên tắc này, nhưng chỉ với một mình ông thôi đấy!”) Ký kết Hiệp định Oslo giữa Rabin và Arafat, kèm theo cái bắt tay nổi tiếng giữa hai người tại South Lawn của Nhà trắng ngày 13-9-1993, đó là ngày tươi đẹp nhất trong thời kỳ làm Tổng thống của Bill Clinton. Rabin bị ám sát ngày 04-11-1995, đây là ngày tồi tệ nhất. Tôi không thể nào quên khi ngồi bên cạnh quả phụ phu nhân Leah, nghe người cháu nội, cô Noa đọc diễn văn nói lên sự đau đớn khôn nguôi trong buổi tang lễ ở Israel.

Tôi cũng không thể nào quên những người Isreal, nạn nhân của cuộc khủng bố, tôi từng gặp nhiều năm qua. Tôi nắm bàn tay họ trong phòng bệnh, lắng nghe bác sĩ mô tả về những mảnh bom cắm trong chân tay, cơ thể và trên đầu của nạn nhân. Tôi từng đến thăm quán bán bánh Pizza ở Jerusalem bị đánh bom vào tháng 2 năm 2002, một trong những ngày đen tối nhất của phong trào đệ nhị intifada, đã làm hàng ngàn người Palestine và Israel chết từ năm 2000 đến 2005. Tôi đã đi dọc hành lang an ninh gần Gilo, nói chuyện với những gia đình, nơi tên lửa có thể rơi xuống bất cứ lúc nào đã ám ảnh tôi thường xuyên.

Một trong những câu chuyện của một người Israel đã ảnh hưởng đến tôi. Năm 2002, tôi gặp Yochai Porat, lúc ấy anh ta mới 26 tuổi, nhưng đã là bác sĩ giỏi của MDA, -dịch vụ y tế cấp cứu của Israel. Anh giám sát chương trình đào tạo tình nguyện viên người nưóc ngoài trợ giúp Israel. Tôi tham dự lễ tốt nghiệp của chương trình, không thể quên được nét mặt đầy tự hào của anh và những học viên trẻ tuổi học tập làm nhiệm vụ cứu người. Yochai cũng trong danh sách quân dự bị của Lực lượng Quốc phòng Israel. Một tuần sau, không ngờ anh bị sát hại do nhóm bắn tỉa gần khu rào chắn, cùng với một số binh lính và thường dân khác. MDA đổi tên chuơng trình tình nguyện nước ngoài theo tên anh để tưởng nhớ. Năm 2005, tôi trở lại, gặp gia đình và thân nhân của Yochai, họ nói một cách say sưa, tự hào về tầm quan trọng trong việc tiếp tục ủng hộ sứ mệnh của MDA. Trở về Hoa Kỳ, tôi bắt đầu chiến dịch thuyết phục Hội chữ Thập đỏ Quốc tế thừa nhận MDA là một thành viên chính thức, có đầy đủ quyền biểu quyết sau gần nửa thế kỷ không được công nhận. Đến năm 2006, Hội chữ Thập đỏ Quốc tế đồng ý chấp nhận.

Không phải chỉ có mình tôi có thiện cảm về an ninh và sự thành đạt của Israel. Nhiều người Mỹ cũng ngưỡng mộ Israel coi như một quê hương của những người bị áp bức, của nền dân chủ mà họ nhiều lần phải đứng lên đấu tranh tự vệ. Chuyện của Israel cũng là chuyện của chúng ta, chuyện của tất cả những người đấu tranh cho tự do và quyền tự quyết số phận của chính mình. Đó là lý do vì sao Tổng thống Harry Truman chỉ sau 11 phút đã công nhận Israel là Tân quốc gia năm 1948 ngay sau khi thành lập. Israel một quốc gia mà biết bao thế hệ từng mơ ước, hy vọng giờ đây đã hình thành do những người Israel không phân biệt nam nữ già trẻ chiến đấu không mệt mỏi, bất chấp mọi gian khổ để có ngày hôm nay. Không những thế, Israel còn là nước có nền kinh tế phát triển, một tấm gương cho sự đổi mới, doanh nghiệp và nền dân chủ đưa đến sự thịnh vượng ngay cả trong những hoàn cảnh đầy gian khó nhất.

Tôi cũng là người đầu tiên công khai kêu gọi thành lập nhà nước Palestine. Trong chương trình truyền hình phát qua vệ tinh cuộc họp Thượng đỉnh Hạt giống Hòa binh Thanh niên Trung Đông năm 1998, tôi nói với thanh niên Israel và Palestine, một nhà nước Palestine “sẽ là lợi ích lâu dài của Trung Đông”. Lời bình luận của tôi nhận được sự chú ý đáng kể của giới truyền thông, khi chỉ còn hai năm nữa mãn nhiệm tổng thống, Bill đã đưa ra dự thảo về nhà nước Palestine, Thủ tướng Israel Ehud Barak chấp nhận, nhưng Arafat phản đối và ba năm sau chính quyền Bush công bố về chính sách của Hoa Kỳ về dự thảo này.

Chính quyền Obama lên nắm quyền trong thời kỳ Trung Đông trong tình trạng rối ren. Suốt tháng 12-2008, các chiến binh trong nhóm cực đoan Palestien Harma từ Dải Gaza bắn rocket vào Israel, khu vực do Israel kiểm soát khi phe đối thủ Palestine, Fatah, phải rời bỏ năm 2007. Đầu tháng 1-2009, quân đội Israel đánh chiếm Gaza để ngăn chặn các cuộc tấn công bằng tên lửa. Trong tuần lễ cuối cùng của chính quyền Bush, quân đội Israel đánh trả các tay súng Hamas trên các đường phố trong khu vực đông dân cư. “Chiến dịch Cast Lead” được coi là một chiến thắng quân sự của Israel, Hamas bị thiệt hại nặng nề, các kho dự trữ tên lửa bị mất cùng nhiều vũ khí khác, nhưng nó cũng là thảm hoạ đối với dân chúng. Hơn một ngàn người dân Palestine thiệt mạng, Israel đối mặt với sự lên án của công đồng quốc tế. Ngày 17-2-2009, chỉ vài ngày trước khi Tổng thống Obama nhậm chức, Thủ tướng Ehud Olmert tuyên bố lệnh ngừng bắn có hiệu lực bắt đầu từ nửa đêm, nếu Hamas và các nhóm cực đoan ở Gaza cùng nhóm Hồi giáo Jihad Palestine ngừng bắn rocket. Ngày hôm sau các chiến binh đã đồng ý, các cuộc xung đột tạm dừng, nhưng quân đội Israel vẫn bao vây xung quanh Gaza, đóng cửa biên giới, cấm các phương tiện giao thông đi lại và buôn bán. Nhưng Hamas sử dụng các đường hầm buôn lậu bí mật sát biên giới với Ai Cập mua lậu súng đạn, lập các kho vũ khí mới. Hai ngày sau, Tổng thống Obama tuyên thệ nhậm chức ở Washington.

Cuộc khủng hoảng Gaza gây sự chú ý cả thế giới, với cương vị ngoại trưởng, cuộc điện đàm đầu tiên của tôi với Olmert. Chúng tôi đi thẳng vào vấn đề, làm thế nào bảo vệ được cuộc ngừng bắn đang có khả năng đổ vỡ, ngăn chặn các cuộc tấn công bằng rocket vào Israel, đồng thời giải quyết các nhu cầu cứu trợ nhân đạo khẩn cấp ở Gaza, tái khởi động cuộc đàm phán đưa đến kết thúc các cuộc xung đột mở rộng với Palestine, dẫn đến một nền hoà bình toàn diện cho Israel và khu vực. Tôi thông báo với Thủ tướng Israel, Tổng thống Obama và tôi đề cử cựu Thượng nghị sĩ George Mtichell làm Đặc phái viên mới về Hoà binh Trung Đông ngay hôm ấy. Olmert đánh giá Mitchell “một người tài năng”, bày tỏ hy vọng có thể cùng hành động trên tất cả các lãnh vực như đã thảo luận.

Ngay đầu tháng Ba, tôi tham gia đoàn đại diện các tổ chức tài trợ quốc tế tại hội nghị Ai Cập để tăng viện trợ nhân đạo cho các gia đình nghèo Plaestine ở Gaza. Đây là một bước tiến giúp đỡ người Palestine bị tổn thương do Israel gây ra. Dù đánh giá về vấn đề chính trị còn nhiều rối rắm ở Trung Đông, nhưng chúng ta không thể bỏ qua sự đau khổ của người dân vô tội, nhất là trẻ em. Trẻ em Palestine và Israel có quyền bình đẳng như trẻ em khắp nơi trên thế giới, chúng phải có tuổi thơ an lành, được học hành tử tế, chăm nom sức khỏe và có cơ hội để xây dựng một tương lai tươi sáng. Bậc cha mẹ ở Gaza, West Bank cùng có nguyện vọng chia sẻ với các bậc cha mẹ ở Tel Avic, Haifa và họ cũng cần có việc làm ổn định, nơi ở an toàn và những cơ hội tốt đẹp hơn cho con cái họ. Hiểu được điều đó, đây chính là điểm khởi đầu quan trọng, là cầu nối lấp khoảng trống của sự phân chia khu vực, cung cấp nền tảng cho hoà bình lâu dài. Khi tôi đưa ra quan điểm này tại hội nghị ở Ai Cập, các thành viên trong giới truyền thống Ả Rập vốn mang nặng sự thù địch, họ đã đột ngột vỗ tay hoan nghênh ý kiến của tôi.

Đến Jerusalem tôi rất vui khi được gặp người bạn cũ, Tổng thống Shimon Peres, một mãnh sư phái hữu Israel, người đã có công xây dựng quốc phòng của tân quốc gia, đã tham gia đàm phán Oslo tiếp tục theo đuổi hoà bình sau khi Rabin bị ám sát. Với cương vị đứng đầu nhà nước, Peres đóng vai trò chủ yếu trong các lễ nghi, nhưng sự phục vụ của ông theo đúng lương tâm đạo đức của người Israel. Ông có niềm tin mãnh liệt sự cần thiết cho một giải pháp về hai nhà nước, nhưng ông cũng nhận ra đây là vấn đề phức tạp khó có thể đạt được. Ông nói với tôi: “Tôi không coi nhẹ vấn đề này, đây chính là gánh nặng đang đặt trên vai bà. Nó cũng là vấn đề quan trọng, bà sẽ tìm thấy trong chúng tôi những đối tác thật sự, chân thành với mục đích kép để ngăn chặn, chấm dứt khủng bố, đạt được hoà bình cho mọi người Trung Đông.”

Tôi cũng tham khảo ý kiến Olmert và một nhân vật thông thái, Ngoại trưởng Tzipi Livni cứng rắn, cựu đặc vụ Mossad, về vấn đề giảm căng thẳng ở Gaza và ngừng bắn. Với những cuộc tấn công lẻ tẻ bằng rocket, đạn pháo thường xuyên xảy ra, điều này cho thấy dường như các cuộc xung đột chính thức có thể bùng phát trở lại bất cứ lúc nào. Tôi trấn an Israel, chính quyền Obama cam kết đầy đủ về an ninh của Israel với tương lai của một nhà nước Do Thái. Tôi phát biểu: “Không một quốc gia nào có thể ngồi yên cho phép các cuộc bắn phá bằng tên lửa tấn công vào lãnh địa và giết hại người dân vô tội của nước khác.” Nhiều năm qua, dưới cả hai chính phủ của Đảng Cộng Hoà và Dân chủ, Hoa kỳ cam kết giúp Israel duy trì “lợi thế quân sự tinh nhuệ” với tất cả các đối thủ trong khu vực. Tổng thống Obama và tôi đều muốn nâng cao vấn đề này lên cấp độ mới. Ngay lập tức, chúng tôi đã tiến hành mở rộng hợp tác an ninh, đầu tư các dự án phòng thủ chung quan trọng, bao gồm cả Iron Dome, một hệ thống phòng thủ tên lửa tầm ngắn để bảo vệ các thành phố của Israel và dân cư trong các cuộc tấn công bằng rocket.

Olmert và Livni quyết tâm tiến tới một nền hoà bình toàn diện trong khu vực và giải pháp hai nhà nước trong cuộc xung đột với người Palestine, bất chấp những thất bại trong nhiều thập niên và các cuộc đàm phán bị đổ vỡ. Olmert buộc phải từ chức vì bị cáo buộc tham nhũng từ thời ông làm Thị trưởng Jerusalem. Livni được tạm giữ quyền lãnh đạo Đảng Kadima, chuẩn bị chiến dịch tranh cử với Netanyahu và Likud. Đảng Kadima thực sự giành được thêm một ghế ở Quốc hội Israel so với Đảng Knesset của Likud (28 ghế của Đảng Kadima và 27 ghế của Likud), nhưng Livni không thể liên minh với đảng có số ghế ít hơn để cân bằng quyền lực. Vì vậy Netanyahu có cơ hội được trao quyền thành lập chính phủ.

Tôi trao đổi với Livni về ý tưởng thành lập một chính phủ đoàn kết giữa hai đảng Kadima và Likud có tinh thần cởi mở hơn trong vấn đề theo đuổi hòa bình với Palestine. Nhưng bà kiên quyết khước từ và nói với tôi: “Không, tôi không tham gia chính phủ của ông ấy.” Vì vậy, Netanyahu liên minh với một đảng nhỏ hơn, lập chính phủ vào cuối tháng 3-2009, trở thành Thủ tướng, ông đã từng giữ từ năm 1996 đến 1999.

Tôi biết Netanyahu từ nhiều năm qua. Ông là một nhân vật phức tạp, từng sống ở Hoa Kỳ thời gian dài, học ở Harvard và MIT (Massachusetts Institute of Technology- một học viện hàng đầu thế giới - ND), thậm chí làm việc một thời gian ngắn trong Tập đoàn Tư vấn Boston với Mitt Romney năm 1976. Netanyahu là người hoài nghi hiệp định khung Oslo về giải pháp hai quốc gia, trao trả lại đất cho người Palestine mà Israel chiếm đóng từ năm 1967. Ông rất quan tâm đến sự đe dọa của Iran đối với Israel, đặc biệt Tehran đang tìm cách sở hữu vũ khí hạt nhân. Quan điểm diều hâu của Netanyahu được định hình do kinh nghiệm bản thân ông đã từng tham gia trong Lực lượng Quốc phòng Israel, đặc biệt trong cuộc chiến tranh Yom Kippur năm 1973, tưởng nhớ người anh quá cố Yonatan, một biệt động quân khả kính đã thiệt mạng trong cuộc tấn công Entebbe năm 1976, cùng với ảnh hưởng của phụ thân, ngài Benzion, một sử gia dân tộc chủ nghĩa cực hữu, ủng hộ một nhà nước Do Thái bao gồm toàn bộ phần đất của West bank và Gaza ngay từ khi quốc gia Do Thái mới thành lập. Người anh lớn của Netanyahu nắm chức vụ này cho đến khi qua đời năm 2012 ở tuổi 102.

Tháng 8-2008, sau khi tôi kết thúc chiến dịch tranh cử, Netanyahu đã đến thăm tôi ở văn phòng Thượng viện ở Third Avenue, New York. Sau hơn một thập niên cầm quyền, ông thất cử chiến dịch bầu cử năm 1999, giờ đây Bibi lại leo lên đỉnh cao quyền lực của Likud và trở lại nắm chức vụ Thủ tướng. Dự hội nghị của tôi ở Midtown Manhattan, ông là nhà triết học gặp nhiều thăng trầm. Ông kể với tôi, sau khi bị thất cử, ông nhận được những lời góp ý chân thành của Thủ tướng Margaret Thatcher, Bà Đầm Thép tuyên bố: “Điều bất ngờ luôn luôn xảy ra”. Giờ đây, ông cũng lại đưa ra lời khuyên như thế với tôi. Vài tháng sau, khi Tổng thống Obama đưa ra lời đề nghị giữ chức “Ngoại trưởng”, tôi lại nhớ lời Bibi dự đoán.

Về sau, chúng tôi thường lấy những câu chuyện cũ làm sự khởi đầu trong mối quan hệ. Mặc dù có sự khác biệt về chính sách, nhưng Netanyahu và tôi hoạt động với tinh thần đối tác và bạn bè. Giữa chúng tôi thường bất đồng, tranh luận qua điện thoại có lần kéo dài đến 2 tiếng đồng hồ. Ngay cả khi bất đồng ý kiến, nhưng giữa chúng tôi vẫn duy trì sự cam kết vững chắc về liên minh quốc gia. Tôi học được ở Bibi tinh thần chiến đấu bền bỉ không khoan nhượng dù bị dồn vào chân tường, nhưng nếu cư xử với nhau một cách chân thành như người bạn, cơ hội đạt được thỏa thuận bao giờ cũng có.

Với một khu vực còn chông chênh vì cuộc xung đột Gaza, một người hoài nghi đang nắm quyền ở Israel, chuyện tiềm năng để đạt được một thoả thuận hoà bình toàn diện thật khó khăn, ít ra cũng là như vậy.

Đã gần một thập niên khủng bố do các phong trào Intifada đệ nhị gây ra bắt đầu từ tháng 9-2000. Có khoảng gần một ngàn người thiệt mạng và tám ngàn người Do Thái bị thương trong các cuộc khủng bố từ tháng 9-2000 đến tháng 2-2005. Nhưng số người Palestine thiệt mạng và bị thương còn cao gấp ba lần so với người Do Thái trong cùng thời gian ấy. Israel bắt đầu xây hàng rào an ninh lâu dài để tránh sự đụng độ ở West Bank. Đây coi như một kết quả của biện pháp an ninh, theo báo cáo của chính phủ Israel, từ khi có hàng rào bảo vệ, các cuộc tấn công tự sát đã giảm mạnh, từ con số 50 vụ năm 2002 đã không có vụ đánh bom nào năm 2009. Đó là điều hiển nhiên, một nguồn tin tuyệt vời đối Israel. Nhưng điều này đồng nghĩa việc giảm bớt áp lực sự tìm kiếm an ninh, thậm chí khó thông qua một thỏa thuận hòa bình toàn diện.

Đứng đầu mọi rắc rối là số người Do Thái định cư ở West Bank tiếp tục tăng lên, hầu hết trong số họ cực lực phản đối việc trao trả hoặc ngừng xây dựng khu định cư, cái mà họ gọi là “Judea và Samaria”, -tên trong thánh kinh về vùng đất West Bank sông Jordan-. Một số người định cư chuyển tới vùng tiền tiêu “Green Line” 1967, đường ranh giới tạm thời, tránh cuộc khủng hoảng nhà ờ tại các thành phố Israel vì quá đắt đỏ. Ngoài ra một số người cuồng tín tin vào vùng West Bank đã được Chúa Trời hứa ban cho người Do Thái từ thời xa xưa. Những người định cư này thuộc thành phần cơ bản của tổ chức đối tác liên minh chính trị của Netanyahu, Đảng Yisrael Beiteinu, do Avigdor Lieberman lãnh đạo, một di dân người Nga đã trở thành Ngoại trưởng trong chính phủ mới. Lieberman coi cuộc đàm phán là chuyện nhượng bộ, thể hiện sự yếu kém, từng chống lại hiệp định hòa bình Oslo. Cả Bibi và Lieberman đều tin chương trình hạt nhân của Iran là mối đe dọa lớn và cấp bách nhất, đe dọa an ninh lâu dài của Israel hơn là cuộc xung đột với Palestine. Tất cả các yếu tố này gây nên sự miễn cưỡng trong những lựa chọn khó khăn cần thiết để đạt được nền hoà bình lâu dài của một số lãnh đạo Israel.

Sau những cuộc gặp gỡ với tất cả các nhà lãnh đạo gần mãn nhiệm và sắp nhậm chức ở Jerusalem đầu tháng 3-2009, tôi vượt qua ranh giới West Bank đến Ramallah, trụ sở của chính quyền Palestine (PA). Theo thỏa thuận trước đây, chính quyền Palestine quản lý một số khu vực và duy trì lực lượng an ninh của họ. Tôi thăm lớp học Anh ngữ của học sinh Palestine do Hoa Kỳ tài trợ. Các học sinh đang học Tháng Lịch sử Phụ nữ nói về Sally Ride, nữ phi hành gia đầu tiên của Hoa Kỳ. Các học sinh, nhất là các cô gái đã bị quyến rũ về câu chuyện Sally. Khi tôi đưa ra câu hỏi, hãy mô tả tính cách và thành tích tuyệt vời của Sally với một từ duy nhất, một học sinh đã đứng lên trả lời, “Hopeful” (niềm Hy vọng). Đây là điều thật đáng khích lệ, bởi vì cho chúng ta thấy tinh thần và thái độ thật tích cực trong số những người trẻ lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn như vậy.Tôi tin rằng bất cứ ai khi được nghe câu trả lời ấy cũng không thể nghi ngời về cảm nhận như thế ở miền đất Gaza. Với tôi, đây là ý kiến tóm tắt sự phân kỳ về vận mệnh giữa hai vùng lãnh thổ Palestine.

Trong gần hai mươi năm giữa hai phe, Fatah và Hamas, tìm mọi cách tranh giành ảnh hưởng của họ với nhân dân Palestine. Khi ông Arafat còn sống, vị thế đảng Fatah được tôn vinh, cùng với tầm ảnh hưởng cá nhân của ông đủ lớn để giữ sự cân bằng hoà bình giữa hai phe. Nhưng sau khi ông qua đời năm 2004, cuộc chia rẽ đã lớn mạnh trở thành cuộc xung đột mới. Tiến trình hoà bình đã vỡ mộng, tan thành mây khói trong việc đẩy mạnh những tiến bộ cụ thể hơn, phe Hamas tin một cách sai lầm, nhà nước Palestine chỉ có thể đạt được thông qua bạo lực, kháng chiến đến cùng. Ngược lại, người kế nhiệm Arafat, đứng đầu Fatah và Tổ chức Giải phóng Palestine, ông Mahmoud Abbas (còn có tên gọi Abu Mazen), duy trì bất bạo động, kêu gọi nhân dân tiếp tục đẩy mạnh giải pháp chính trị thông qua đàm phán trong các cuộc xung đột, trong khi ra sức xây dựng, củng cố kinh tế và thể chế của một nhà nước Palestine trong tương lai.

Đầu năm 2006, Hamas đã thắng cử trong cuộc bầu cử hợp hiến ở vùng lãnh thổ Palestine, việc này khiến chính quyền Bush cùng với một số thành viên của Fatah và Israel đưa ra phản đối, không chấp nhận. Chiến thắng khó chịu này dẫn đến cuộc khủng hoảng mới với Israel và cuộc đấu đá quyền lực bằng bạo lực với Fatah xảy ra.

Sau khi kết quả bầu cử công bố, từ văn phòng Thượng viện, tôi lên án Hamas và nhấn mạnh: “Chỉ đến khi nào Hamas từ bỏ bạo lực và khủng bố, từ bỏ lời kêu gọi huỷ diệt nhà nước Israel, Hoa Kỳ mới công nhận Hamas và các quốc gia trên thế giới cũng nên như vậy.” Kết quả bầu cử này là lời cảnh báo, nền dân chủ thực sự không phải chỉ có được thông qua thắng lợi trong bầu cử, nếu Hoa Kỳ thúc đẩy trong quá trình bầu cử, chúng ta có trách nhiệm giúp đỡ, giáo dục người dân, các phe phái trong quá trình này thì kết quả sẽ khác. Fatah đã mất một số ghế vì mỗi đơn vị bầu cử Fatah đưa ra hai ứng cử viên trong khi Hamas chỉ có một. Đây là sai lầm phải trả giá đắt. Năm sau, Hamas làm cuộc đảo chính ở Gaza chống lại quyền lực Abbas, người vẫn giữ chức vụ Tổng thống dù đảng của ông thất cử trong cuộc bầu cử hợp hiến. Fatah vẫn kiểm soát West Bank, người dân Palestine bị chia rẽ giữa hai trung tâm quyền lực với hai quan điểm khác biệt về tương lai.

Sự chia cắt này khiến triển vọng nối lại đàm phán hòa bình càng xa vời, tăng sự ghẻ lạnh của Israel. Tuy vậy, hình như kết quả bất thường này theo sự sắp đặt, cả hai phía đều thử nghiệm cách tiếp cận trong qua trình quản lý. Điều này có thể thấy rõ trong cuộc sống hàng ngày trên đường phố Palestine và các vùng phụ cận.Tại Gaza, Hamas cai quản một vùng khủng bố tan hoang, đổ nát, đầy tuyệt vọng. Các kho dự trữ tên lửa đầy ắp trong khi đó đời sống người dân ngày càng lún sâu vào đói nghèo. Tỷ lệ thất nghiệp lên tới gần 40%, thậm chí tỷ lệ này còn cao hơn ở lứa tuổi thanh niên. Hamas cản trở sự hỗ trợ quốc tế, các tổ chức nhân đạo phi chính phủ (NGO), hầu như họ không làm gì để thúc đẩy kinh tế phát triển. Thay vào đó, Hamas tìm cách đánh lạc hướng người dân Palestine về sự thất bại của họ bằng cách gây thêm căng thẳng với Israel và kích động sự nổi giận của quần chúng.

Trong khi đó bên West Bank, Abbas và Thủ tướng Salam Fayyad, một chuyên gia khoa học, đã đạt được những kết quả bất ngờ trong thời gian tương đối ngắn. Họ đã giải quyết tệ nạn tham nhũng kéo dài trong quá trình lịch sử, xây dựng thể chế minh bạch, có trách nhiệm. Hoa Kỳ và các đối tác quốc tế khác, đặc biệt là Jordan, giúp nâng cao hiệu quả và độ tin cậy vào lực lượng an ninh của Tổ chức Giải phóng Palestine, đó là một ưu tiên hàng đầu đối với Israel. Những cuộc cải cách đã bắt đầu tăng niềm tin của công chúng trong tòa án, riêng năm 2009 họ giải quyết được 67% các trường hợp tăng hơn so với năm 2008. Việc thu thuế cũng đã bắt đầu có hiệu quả. Tổ chức Palestine bắt đầu xây dựng bệnh viện, trường học, đào tạo thầy thuốc và giáo viên. Ngoài ra còn thực hiện chương trình bảo hiểm y tế quốc gia. Chính sách tài chính có trách nhiệm hơn, được sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, - kể cả mỗi năm lên tới trăm triệu đô la từ Hoa Kỳ, khoản tài trợ lớn nhất cho Tổ chức Palestine -, cải thiện an ninh, các quy tắc luật lệ để đưa đến tăng trưởng kinh tế đáng kể. Bất chấp những thách thức nền kinh tế đang diễn ra, nhiều người Palestien sống ở West Bank đã kiếm được việc làm, khởi nghiệp buôn bán, đảo ngược sự trì trệ sau khi bùng nổ phong trào intifada đệ nhị vào năm 2000. Số lượng giấy phép được cấp cho kinh doanh mới trong quý 4 năm 2009 tăng 50% so với cùng thời kỳ năm 2008, người Palestine kinh doanh đủ các ngành nghề, từ quỹ đầu tư mạo hiểm, các vật dụng gia đình đến những khách sạn sang trọng. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu West Bank giảm xuống một nửa so với khu Gaza.

Mặc dù tiến bộ, nhưng còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Vẫn còn quá nhiều người dân thất vọng và không có việc làm. Sự kích động chống Israel và bạo lực vẫn là vấn đề rất nhức nhối, mọi người hy vọng vào những chương trình cải cách lớn hơn, phá bỏ được nạn tham nhũng, thấm nhuần nền văn hóa hòa bình, dung hòa giữa người Palestine, giảm dần sự phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài. Điều này sẽ trở lên dễ dàng để hình thành một nhà nước Palestine độc lập, có đủ khả năng tự trị, nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm bảo an ninh cho người dân và các nước láng giềng. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới tháng 9-2010, nếu chính quyền Palestine duy trì đà phát triển trong việc xây dựng tổ chức, cung cấp đầy đủ các dịch vụ công cộng, các điều ấy “sẽ là một cơ hội tốt cho việc thành lập một nhà nước trong tương lai gần.”

Tôi nhận thấy sự tiến bộ khi đến thăm West Bank năm 2009 và 2010. Nhân viên an ninh Palestine được trang bị đầy đủ, nhiều người được huấn luyện tại Hoa Kỳ, được Jordan hỗ trợ. Xe chạy vào Ramallah, tôi nhìn thấy nhiều khu chung cư mới xây, văn phòng các cơ quan trong cao ốc nổi bật lên từ phía những quả đồi. Nhưng nét mặt những người đàn ông và phụ nữ từ các quầy hàng hay từ nhà của họ vẫn hằn lên nỗi buồn, vẫn không quên lịch sử đau đớn vì nhà nước chưa thành lập. Sự phát triển kinh tế, tiến bộ về thể chế là điều rất quan trọng và thực sự cần thiết, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Nguyện vọng chính đáng của nhân dân Palestine chưa được giải quyết xứng đáng, chỉ đến khi nào giải pháp hai nhà nước được giải quyết, phẩm giá, công lý và an ninh cho cả người dân hai nước Palesatien và Israel mới thực sự được đảm bảo.

Cho đến nay, tôi vẫn tin cuối năm 2000 và đầu năm 2001, ông Arafat đã phạm một sai lầm nghiêm trọng khi ông từ chối Thủ tướng Barak chấp nhận “Thông số Clinton”, một giải pháp tạo cho người Palestin thành lập nhà nước ở West Bank và Gaza với thủ đô là Đông Jerusalem. Giờ đây chúng ta cũng đang cố gắng lần nữa thuyết phục Tổng thống Abbas. Ông đã từng hoạt động lâu năm, tận tâm thực hiện giấc mơ người dân của ông. Ông hiểu, giấc mơ ấy chỉ đạt được thông qua đàm phán và bất bạo động. Ông tin một nhà nước Palestine độc lập có thể song song tồn tại với nhà nước Do Thái trong hòa bình và an ninh, điều cả hai quốc gia đều có thể làm được và rất cần thiết. Tôi cho rằng ông Arafat đã từng có cơ hội giành được hòa bình nhưng lại thiếu quyết tâm. Ông Abbas có quyết tâm nhưng ở trong hoàn cảnh khó khăn, đôi lúc gây cho chúng ta khó chịu, nhưng tôi cần sự quyết tâm của ông ta.

Động viên Israel và Palestine trở lại đàm phán thật không dễ chút nào. Không có sự huyền diệu tuyệt vời với thỏa thuận cuối cùng về hòa bình trông đợi và thỏa thuận đó là sự đổi chác; sự thách thức đang gây xáo trộn giới chính khách của cả hai bên để tìm ra sự lựa chọn và hy sinh cần thiết để chấp nhận thỏa hiệp tiến tới hòa bình. Những nỗ lực ngoại giao của chúng tôi tập trung vào việc xây dựng lòng tin, sự tín nhiệm đối với cả hai bên, giúp các nhà lãnh đạo tạo ra một không gian chính trị để thương lượng với nhau, đồng thời đủ sức thuyết phục cho mọi người hiểu tình trạng hiện tại chưa thật bền vững.

Tôi nhận thấy đây là sự thật. Đối với người Palestine, sau nhiều thập niên chống trả, khủng bố và những cuộc nổi dậy đã không đưa đến kết quả thành lập được một nhà nước độc lập, dù họ có cố gắng hơn nữa cũng không thể thực hiện được nguyện vọng chính đáng của mình. Các cuộc đàm phán là con đường duy nhất đáng tin cậy để đạt mục tiêu đó, nếu chần chừ, chờ thời có nghĩa là kéo dài sự chiếm đóng và gây đau khổ cho cả hai bên.

Đối với Israel, vấn đề này còn khó khăn hơn, vì hiện trạng thật sự chưa rõ ràng, khó khăn chưa ảnh hưởng trực tiếp. Nền kinh tế vẫn phát triển, biện pháp an ninh được cải thiện đã làm giảm đáng kể các mối đe doạ của khủng bố, nhiều người Israel cảm thấy đất nước họ đã thể hiện thiện chí trong hòa bình nhưng đổi lại chẳng nhận được gì ngoài đau khổ và bạo lực. Trong mắt họ, Israel đã đưa ra những điều kiện quá hào phóng cho Arafat và Abbas, nhưng nhân dân Palestine đã khước từ. Dưới thời Thủ tướng Ariel Sharon, Israel đã đơn phương rút khỏi Gaza (không có thỏa thuận hòa bình trong cuộc thương lượng), nơi ấy lại trở thành vùng đất khủng bố mở rộng, dội rocket vào miền nam Israel. Khi Israel rút quân khỏi miền nam Lebanon, Hezbollah và các nhóm chiến binh khác với sự hỗ trợ của Iran, Syria dùng lãnh thổ này như một cứ địa tấn công miền bắc Israel. Vậy lý do gì đã khiến Israel phải từ bỏ nhiều vùng đất để hy vọng sẽ có nên hoà bình thực tế?

Tôi thật sự cảm thông với nỗi sợ hãi, mối đe dọa và sự thất vọng mà họ trải qua. Nhưng là một trong những người có mối quan tâm sâu sắc về an ninh và tương lai của Israel, tôi cảm thấy sự phát triển theo nhân khẩu theo tỷ lệ sinh đẻ, nền công nghiệp cùng với xu hướng về tư tưởng đầy tiềm năng sẽ giúp cho những nỗ lực mới trong cuộc thương lượng nghiêm túc về nền hoà bình.

Tỷ lệ sinh đẻ của người Palestine cao hơn người Do Thái nhiều lần, sự tiếp cận cho thấy người Palestine ngày một đông hơn trong cộng đồng Israel và trong vùng lãnh thổ Palestine. Người Palestine bị coi như công dân hạng hai không có quyền bỏ phiếu. Nếu Israel cố tình chiếm đóng các vùng lãnh thổ đã chiếm, các điều kiện khó khăn càng nảy sinh, cuối cùng họ không thể duy trì tình trạng một nhà nước dân chủ và quốc gia Do Thái. Sớm muộn gì, Israel cũng sẽ phải lựa chọn một giải pháp, phải cho người Palestine thành lập nhà nước riêng của chính họ.

Trong khi đó, số lượng rocket tuồn vào phe Hamas ở Gaza và Hezbollah ở Lebanon ngày càng nhiều và tinh vi, có khả năng bắn tới các cộng đồng dân cư Israel ở xa vùng biên giới. Tháng 4-2010, có báo cáo Syria đã chuyển giao tên lửa Scud tầm xa cho Hezbollah ở Lebanon, tầm bắn của nó có thể vươn tới tất cả các thành phố lớn của Israel. Mùa xuân 2014, Israel đã chặn một tầu hàng của Syria chở tên lửa M-320 đất đối đất có thể bắn tới tất cả vùng lãnh thổ Israel, đi Gaza cung cấp cho chiến binh Palestine. Chúng ta phải tiếp tục xây dựng hệ thống phòng thủ đối không cho Israel, vì hệ thống phòng thủ tốt nhất chính là để đảm bảo nền hoà bình lâu dài. Cuộc xung đột càng kéo dài, nó càng củng cố, tiếp tay cho những kẻ cực đoan, làm suy yếu giải pháp ôn hòa ở Trung Đông.

Với tất cả những lý do trên, tôi tin Israel muốn có sự an ninh lâu dài, còn vấn đề ngoại giao phải chờ cơ hội khác. Tôi không ảo tưởng cho rằng một thỏa thuận sẽ đạt được dễ dàng hơn mà chính quyền thời kỳ trước đạt được, nhưng Tổng thống Obama đã sẵn sàng đặt uy tín cá nhân của ông vào việc này. Netanyahu nổi tiếng với chính sách diều hâu, rất có uy tín với dân chúng Israel trong vấn đề thỏa thuận, giống như Nixon đến Trung Quốc, nếu ông bị thuyết phục, đó chính là vì lợi ích an ninh của Israel. Abbas đã lớn tuổi, cũng không thể nào đoán trước ông còn nắm giữ quyền lực được bao lâu; Chúng ta không thể đảm bảo người kế nhiệm ông dù là bất cứ ai chăng nữa, có thể cam kết thỏa thuận hòa bình. Với hành trang chính trị cùng với sự hạn chế cá nhân, Abbas có thể là lần cuối, với niềm hy vọng tốt nhất tìm kiếm đối tác Palestine cam kết tìm ra một giải pháp ngoại giao đáng tin cậy để giao phó trọng trách của người dân giao phó cho họ. Thực ra cũng nguy hiểm khi sa lầy trong cuộc đàm phán hoà bình Trung Đông. Sự cố gắng cũng như thất bại làm nản lòng, mất uy tín với những người ôn hòa, nhưng lại củng cố cho bọn cực đoan, gây thêm sự mất niềm tin của các bên, càng khó khăn và xa lánh hơn trước. Nhưng thành công cũng có thể có nếu chúng ta cố gắng thử sức, vì thế tôi quyết định hành động.

Bước đầu tiên hướng tới để khởi động tiến trình hoà bình váo tháng 1-2009, tôi bổ nhiệm George Mitchell làm Đặc phái viên, ông có thể lập lại những gì ông đã thành công khi đạt được Hiệp định Good Friday ở Bắc Ireland. Với chất giọng nhẹ nhàng của cựu Thượng nghị sĩ từ Maine nhanh chóng chỉ ra sự khác biệt giữa hai cuộc đụng độ, nhưng ông cũng rất hứng thú vì thực tế vấn đề Bắc Ireland cũng đã từng được coi như rất khó giải quyết như tình hình Trung Đông hiện tại, ấy thế mà ông đã giải quyết được thông qua đàm phán. Ông thường nói: “Tôi đã từng trải qua 700 ngày thất bại, nhưng một ngày thành công là tôi đã thắng lợi.” Mặt khác, khi Mitchell nhận xét với khán thính giả ở Jerusalem rằng, cuộc xung đột đã trải qua 800 năm cuối cùng hoà bình đã trở lại Bắc Ireland, một người đàn ông lớn tuổi chế riễu, “Cũng giống như cuộc xung đột gần đây ông giải quyết, có gì lạ đâu!”

Tổng thống Obama đồng ý với tôi, Mitchell rất có uy tín trên trường quốc tế, dày dạn trong đàm phán, biết lựa tính khí từng đối tượng để giải quyết công việc. Tôi cũng yêu cầu Dennis Ross, người đã từng làm Đặc phái viên Trung Đông từ những năm 1990s về làm việc ở Bộ Ngoại giao giúp vấn đề Iran và trong khu vực. Tổng thống Obama có ấn tượng tốt với Ross, cũng muốn đưa Ross về Nhà Trắng làm tư vấn, đồng thời trao đổi phương cách về tiến trình hoà bình. Đôi khi có sự căng thẳng giữa Mitchell và Ross vì công việc được giao chồng chéo, trách nhiệm chính không rõ ràng, nhưng tôi đánh giá cả hai đều có năng lực cao, đồng thời biết ơn cả hai người vì có rất nhiều kinh nghiệm, ý tưởng tốt trong chính sách đối ngoại trong nhóm của chúng tôi.

Chỉ một ngày sau khi được bổ nhiệm, Mitchell đã khởi hành đến khu vực trong chuyến viếng thăm nhiều quốc gia. Người Israel vẫn còn phân vân với tân chính phủ của họ, vì thế Michell thăm thủ đô của các nước trong thế giới Ả-Rập trước. Nhiệm vụ của ông tìm kiếm hoà bình không chỉ giữa Israel với Palestine mà còn với tất cả các nước láng giềng của Israel. Kế hoạch cơ bản cho một khu vực hòa bình toàn diện do nhà vua Abdullah của Saudi Arabia đề xuất năm 2002. Kế hoạch này được các thành viên Liên đoàn Ả Rập nhất trí thông qua, kể cả Syria vào tháng 3-2002. Theo Sáng kiến Hòa bình Ả Rập, -như tên gọi-, tất cả các quốc gia đa số người Hồi giáo ngoài khu vực, đồng ý bình thường hoá quan hệ với Israel nếu như một thỏa thuận hoà bình thành công có được giữa Israel với người Palestine, bao gồm kinh tế, chính trị và hợp tác an ninh. Nếu điều này đạt được, nó có tác động lớn lao đối với các động thái chiến lược ở Trung Đông. Bởi vì vẫn còn có nghi ngờ về sự chia sẻ của họ với Iran và quan hệ đối tác với Hoa Kỳ, Israel và rất nhiều quốc gia Ả Rập khác, đặc biệt với các chế độ quân chủ vùng Vịnh cần phải tạo thành một liên minh bình thường trong quan hệ. Hận thù trong các cuộc xung đột Palestine đã ngăn cản sự hình thành vấn đề đó. Trước chiến tranh 2008 - 2009 ở Dải Gaza, Thổ Nhĩ Kỳ đã cố gắng đứng ra làm trung gian đàm phán hoà bình giữa Israel và Syria. Nếu Syria từ bỏ liên minh độc hại với Iran để đổi lại vùng đất Cao nguyên Golan đã bị Israel chiếm đóng từ năm 1967- điều đó cũng có những kết quả quan trọng về chiến lược.

Đến thủ đô nào Mitchell đều nghe yêu cầu của các nước buộc Israel phải dừng ngay việc xây dựng các khu định cư trên vùng đất mà một ngày nào đó phải trao trả lại cho người Palestine. Mỗi khu định cư mới sau đường phân chia từ năm 1967 sẽ gây rất nhiều khó khăn để đạt được thỏa thuận cuối cùng. Trong nhiều thập niên Hoa Kỳ đã từng phản đối việc mở rộng các khu vực định cư, coi đó là việc làm phản tác dụng cho những nỗ lực tìm kiếm hoà bình. Tổng thống Bush và Ngoại trưởng Jim Baker đã đình chỉ bảo lãnh vốn vay cho Israel chỉ vì vấn đề này. Tổng thống George W. Bush yêu cầu đóng băng toàn diện “Lộ trình hoà bình” của ông. Tuy vậy, mối quan hệ chính trị Netanyahu khi đưa ra hạn chế vấn đề định cư gặp rất nhiều khó khăn.

Sau khi tham khảo ý kiến, Mitchell cho rằng chúng ta nên kêu gọi cả ba bên: Israel, Palestine và các nước Ả Rập - có những bước đi cụ thể mang tính xây dựng, thể hiện niềm tin thật sự, đặt nền tảng cho cuộc đàm phán hoà bình trực tiếp.

Đối với chính quyền Palestine, chúng tôi muốn họ tích cực hơn nữa ngăn chặn khủng bố, giảm sự kích động chống phá Israel. Như việc kích động thay tên quảng trường ở West Bank sau khi quân khủng bố giết hại nhiều thường dân Israel, tung tin Israel đang lên kế hoạch phá huỷ Thánh địa Hồi giáo, kêu gọi thánh chiến và khuyến khích tăng cường bạo lực. Với Hamas, cần tiếp tục cô lập chúng cho đến khi họ từ bỏ bạo lực, công nhận Israel, cam kết tuân thủ các thỏa thuận đã được ký kết từ trước. Những điều cơ bản đó họ không thực hiện, Hamas sẽ không có đại diện trong bàn đàm phán. Đồng thời chúng ta yêu cầu thả ngay Gilad Shalit, quân nhân Israel bị bắt cóc ở Gaza.

Đối với các quốc gia Ả rập, hy vọng có những bước tiến đến bình thường hóa quan hệ với Israel theo Sáng kiến Hòa bình Ả Rập, trong đó vận tải hàng không của Israel được phép qua không phận, mở lại các văn phòng thương mại, thiết lập các tuyến đường bưu chính. Nenayahu đã ra điều kiện với tôi trong buổi dạ tiệc tại Bộ Ngoại giao tháng 5-2009. Đặc biết ông muốn thấy động thái từ Saudi Arabia, quốc gia đóng vai trò “Giám sát của hai nhà thờ Hồi giáo” phải thể hiện hành động thật sự với các nước ngoài khu vực. Tháng 6-2009, Tổng thống Obama viếng thăm Riayadh, với danh nghĩa cá nhân, ông đã nêu vấn đề này với nhà vua Abdullah.

Đối với Israel, chúng tôi yêu cầu dừng ngay việc xây dựng các khu định cư trong vùng lãnh thổ Palestine vô điều kiện. Trong quá khứ ngừng xây dựng khu định cư theo cách cứng rắn như thế không thể thực hiện được.

Israel ban đầu khước từ yêu cầu, sự bất đồng diễn ra một cách công khai, đưa đến sự bế tắc giữa Tổng thống Obama và Netanyahu, giảm độ tin cậy giữa hai nhà lãnh đạo trong mối quan hệ. Điều này gây thêm khó khăn kể cả sự thỏa hiệp. Các quốc gia Ả Rập đều hân hoan làm người ngoài cuộc và lợi dụng sự bất đồng như một cái cớ đề không hành động gì cả. Còn Abbas từng liên tục kêu gọi dừng việc xây dựng các khu định cư trong nhiều năm, giờ đây tuyên bố đó là ý tưởng của chúng tôi, ông không đến bàn đàm phán hòa bình nếu như lệnh cấm xây dựng khu định cư không thực hiện.

Tổng thống và các cố vấn tranh luận tìm giải pháp khôn ngoan nhất về vấn đề đóng băng khu định cư. Người ủng hộ mạnh mẽ nhất vấn đề này là Chánh văn phòng Nhà Trắng Rahm Emanuel. Rahm, một cựu tình nguyện viên dân sự thuộc Lực lượng Quốc phòng Israel, cá nhân ông đã từng ràng buộc với an ninh Israel. Dựa trên kinh nghiệm cá nhân dưới thời chính quyền Clinton, Rahm tin rằng cách tốt nhất đối phó với tân liên minh chính phủ Netanyahu là loại ông ra khỏi chính trường, nếu không ông sẽ gây rất nhiều bất lợi. Tổng thống có chiều hướng ngả theo lập luật đó, nhấn mạnh việc đóng băng khu định cư sẽ giải quyết tốt cả hai về chính sách và chiến lược thông minh, giúp Mỹ như một nhà trung thực trong tiến trình tìm kiếm hòa bình, giảm nghi ngờ Hoa Kỳ luôn luôn đứng phía sau chống lưng cho Israel. Tôi và Mitchell rất lo, vì như thế có thể chúng ta lâm vào tình trạng đối đầu không cần thiết, Israel sẽ tin bị đòi hỏi quá nhiều so với các bên, vì có lần chúng tôi đưa ra công khai, Abbas sẽ không đàm phán nghiêm túc nếu không đình chỉ xây dựng khu định cư. Một quan chức cao cấp Israel giải thích với tôi, điều tồi tệ nhất là “Freier”, theo tiếng lóng của ngôn ngữ Do Thái nghĩa là “con nít”. Người tài xế Israel nói với tôi, thà vào bệnh viện (vì tai nạn) còn hơn không được chạy trên đường cao tốc. Bibi từng trích dẫn câu thành ngữ “Chúng tôi không phải là con nít, vì vậy không chỉ biết nhận mà không cho.” Tôi lo ngại yêu cầu đóng băng không được đón nhận nồng nhiệt. Nhưng tôi tán thành ý kiến của Rahm và Tổng thống, nếu muốn hồi sinh tiến trình hoà bình đang hấp hối, chúng ta phải chấp nhận rủi ro. Vì vậy, mùa xuân tôi gửi thông điệp mạnh mẽ của Tổng thống, với những nỗ lực của chúng tôi, mà hai bên vẫn không có dấu hiệu tiến bộ, họ sẽ chịu những hậu quả nghiêm trọng.

Tháng 6-2009, có hai bài phát biểu quan trọng về vấn đề ngoại giao ở hai nơi. Đầu tiên ở Cairo, Tổng thống Obama đưa ra lời kêu gọi đầy tham vọng, tái khẳng định về mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và thế giới Hồi giáo. Thông điệp gửi tới các quốc gia, ông một lần nữa khẳng định với tư cách cá nhân, theo đuổi giải pháp hai quốc như vậy sẽ đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân hai nước Israel và Palestine. Trước khi Tổng thống đưa ra thông điệp, tôi đã tham quan với danh nghĩa cá nhân, nhà thờ Hồi giáo Sultan Hassan của thành phố nhiều hang động, một trong nhà thờ lớn nhất thế giới. Chúng tôi phải tháo giầy, chùm khăn giống như một thợ thủ công thời trung cổ, lắng nghe lời giải thích từ người Mỹ gốc Hy Lạp về lịch sử nghệ thuật. Đây là khoảng lặng yên tĩnh đáng yêu nhất trong chuyến đi đầy sóng gió, triển khai chính sách lớn của Tổng thống. Chuyến tham quan này làm tôi mỉm cười khi Tổng thống phát biểu: “Nền văn minh Hồi giáo đã xây dựng một mái vòm hùng vĩ với ngọn tháp cao vút, cùng với nền thi ca vượt cả thời gian, nền âm nhạc chan chứa tình yêu, dòng thư pháp tao nhã và là nơi chiêm nghiệm của hoà binh.”

Mười ngày sau, Bibi đến trường Đại học Bar-Llan ngoại ô Tel Avis, trong khi ông vẫn từ chối giải pháp đóng băng, nhưng lần đầu tiên ông ủng hộ ý tưởng của giải pháp hai quốc gia. Nó xem ra giống như cách đáp lại mang tính học thuật, điều mà Netanyahu muốn thể hiện là một nhà lãnh đạo sẵn sàng chấp nhận sự rủi ro, chấp nhận thỏa thuận mang tính lịch sử.

Mitchell và tôi đã dành trọn mùa hè và đầu thu làm việc với Israel và Palestine nhằm phá vỡ thế bế tắc về vấn đề khu định cư. Công bằng mà nói, chúng tôi đã chia sẻ trách nhiệm gây ra sự bế tắc vì đã thử nghiệm về lòng quyết tâm và ý chí của hai bên. Tổng thống Obama quyết định, cách tốt nhất cho tiến trình, hai nhà lãnh đạo cùng ngồi lại với nhau khi họ đến họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York vào tháng Chín. Tuy đây không phải là cuộc đàm phán chính thức, nhưng chính là cơ hội đầu tiên cho hai nhà lãnh đạo gặp gỡ trao đổi trực tiếp, xây dựng một số động lực hướng tới quá trình mang tính thiết thực hơn. Cuộc họp ở New York coi như không thánh công, cả hai nhà lãnh đạo không tỏ ra thân thiện, không mấy sẵn sàng thỏa hiệp, nhất là vấn đề khu định cư. Tổng thống Obama nói với họ: “Tất cả chúng ta phải chấp nhận sự rủi ro về hoà bình. Thật khó có thể tách ra khỏi vấn đề lịch sử, nhưng chúng ta hãy cố gắng vượt qua.”

Hầu như mọi chuyện chưa có tác động gì khi chúng tôi rời New York. Nhưng Mitchell và tôi tiếp tục trao đổi với Netanyahu, cuối cùng ông ta đồng ý tạm thời ngừng một phần xây dựng khu định cư tại West Bank trong tương lai. Chúng tôi cần phải rà soát, phân loại việc đình chỉ xây dựng trong thời hạn bao lâu, cũng như ở khu vực nào được xác định, đây là vấn đề rất hệ trọng của sự khởi đầu đối với chính phủ Israel nào từ trước đến nay sẵn sàng thực hiện. Điểm gắn kết chính là Jerusalem. Đông Jerusalem cùng với West Bank đã bị chiếm đóng từ năm 1967, người Palestine vẫn mơ ước một ngày nào đó, nơi đây chính là thủ đô của nhà nước Palestine trong tương lai. Chính vì thế người Palestine ngăn chặn việc xây dựng khu định cư ở Đông Jerusalem. Đối với Bibi chẳng hứng thú gì vấn đề này, ông từ chối bất cứ sự hạn chế nào về vấn đề xây dựng khu định cư ở Đông Jerusalem.

Đầu tháng 10, tôi nói chuyện với Rhud Barak, đối tác liên minh của Netanyahu, đồng thời cũng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, người có tiếng nói rất quan trọng của chính phủ trong vấn đề hòa bình. Barak rất lạc quan, mặc dù sống ở nơi hầu như mọi chuyện xảy ra đều không đúng hướng. Ông cũng là một trong những người được tặng huân chương anh hùng trong một quốc gia mà người dân rất tôn vinh anh hùng quân đội. Theo như người ta kể, trong bộ quân phục lính đặc nhiệm, ông có những cuộc đột kích táo bạo vào Beirut những năm 1980s. Chúng tôi quan tâm nhiều vấn đề. Nhiều lần ông nói: “Này bà Hilary, chúng ta hãy trao đổi về chiến lược”, rồi ông đưa ra hàng loạt ý tưởng, sau đó chúng tôi tranh luận. Ông làm mọi cách giúp tôi tìm ra biện pháp giải quyết vấn đề khu định cư, tiến trình đàm phán được trở lại. Ông nói: “Chúng tôi sẵn sàng lắng nghe nhưng cũng cần nhanh nhạy để biết cách ứng xử”. Israel cuối cùng chỉ đồng ý đóng băng xây dựng khu định cư mới ở West Bank trong thời gian 10 tháng, kiên quyết chống lại đóng băng kéo dài kể cả khu vực Đông Jerusalem.

Tôi điện đàm với Abbas thảo luận về các đề nghị của Israel. Phía Palestine ngay lập tức bác bỏ với lý do “điều kiện đưa ra quá tệ và vô tác dụng”, nhưng tôi cho rằng đây là giải pháp tốt nhất, cơ hội tiến tới đàm phán trực tiếp. Tôi cam đoan: “Tôi xin nhấn mạnh một lần nữa với ngài Tổng thống, chính sách về vấn đề khu định cư của chúng tôi vẫn không thay đổi, thông qua lệnh cấm Israel xây dựng khu định cư mà Mittchel đã trao đổi với ngài là vấn đề lớn, đây là một bước tiến chưa từng có của chính phủ Israel, lộ trình không thể thay đổi theo cam kết của Israel.” Nhưng Abbas không chấp nhận lời đề nghị khi tôi dùng từ “chưa từng xảy ra”, không hài lòng về việc loại trừ Đông Jerusalem, giới hạn thời gian vì thế ông không đồng ý đàm phán.

Để tỏ thiện chí, Abbas cũng có những nhượng bộ. Ông đề nghị phía Palestine sẽ trì hoãn cuộc bỏ phiếu ở Liên Hiệp Quốc về Báo cáo Goldstone gây tranh cãi, trong đó cáo buộc tội ác chiến tranh năm 2008 ở Gaza. Abbas bị các nước trong thế giới Ả Rập chỉ trích cay nghiệt về quyết định trên, kể cả đài truyền hình Al Jazeera phủ sóng toàn cầu của Qatar tấn công cá nhân ông. Bản thân Abbas rất lo lắng, tâm sự với tôi, ông rất lo về sự an toàn tính mạng cá nhân cũng như đàn cháu nội ngoại sẽ bị sách nhiễu ở trường học. Tôi cảm ơn ông về “những quyết định dũng cảm và quan trọng”, nhưng cũng cảnh báo ý chí của ông bắt đầu dao động. Khoảng một tuần sau, ông thay đổi quyết định, kêu gọi cuộc bỏ phiếu tại Liên Hiệp Quốc về Báo cáo Goldstone. Sau đó, năm 2011, chính Richard Goldstone chỉnh sửa một số lời buộc tội trong bản báo cáo, trong đó có việc quân đội Israel đã cố tình tấn công thường dân, gây ra những tổn thất và thiệt hại nặng nề do họ gây ra.

Cuối tháng 10-2009, tôi tập trung cao độ về lệnh cấm phải được thực thi, hy vọng đây là cách dọn đường cho đàm phán trực tiếp giữa các bên. Tôi gặp Abbas ở Abu Dhabi, sau đó gặp Netanyahu ở Jerusalem. Đứng bên Bibi tại cuộc họp báo trong đêm khuya, tôi mô tả vấn đề đóng băng xây dựng khu định cư là “chưa từng có” như tôi đã từng trao đổi với Abbas. Nhưng lần này lại gây ra sự phẫn nộ đối với các nước trong thế giới Ả rập, họ cho rằng tôi đã quá ưu ái với đề nghị khi nó có đủ điều kiện mà lại chỉ nêu ra với thời gian quá ngắn, đồng thời không tính đến Đông Jerusalem. Đây không phải là lần đầu tiên, cũng chưa phải là lần cuối cùng bị phản ứng mỗi khi tôi nói ra sự thật.

Nhiều nước trong khu vực tỏ ra thơ ơ về vấn đề tạm đình chỉ. Nhưng nhu cầu cấp bách là làm sao có thể xoa dịu được tình hình, tái tập trung sự lưu ý các nước trong khu vực về đàm phán trực tiếp. Những ngày tiếp theo tôi phải tìm cách xoa dịu Morocco và Ai Cập. Tại Cairo, tôi giải thích riêng với Tổng thống Hosni Mubarak cũng như với công chúng, chính sách của chúng tôi về vấn đề khu định cư không hề thay đổi. Chúng tôi hoàn toàn phản đối việc xây dựng khu định cư, đóng băng toàn diện việc xây dựng. Tôi bảo vệ đề xuất là “ngăn chặn tất cả các hoạt động xây dựng khu định cư mới, chấm dứt việc thu hồi đất đai có giấy phép và không có giấy phép.” Bởi vì đây là vấn đề thực tế đang xảy ra.

Cuối tháng 11, việc đóng băng xây dựng được thực hiện, đồng hồ cho cuộc đàm phán bắt đầu khởi động. Chúng tôi có khoảng thời gian 10 tháng để tiến hành đưa các bên đến bàn đàm phán, tìm kiếm một thỏa thuận hòa bình toàn diện.

Ngày tháng cứ thế trôi đi. Theo như hứa hẹn, Israel ngừng xây dựng khu định cư mới ở West Bank, nhưng phía Palestine yêu cầu cũng phải ngừng xây ở Đông Jerusalem nếu không vẫn từ chối tham gia các cuộc đàm phán trực tiếp, mặc dù đã thỏa thuận với cái gọi là “tiến gần đến đàm phán” với việc Mitchell qua lại giữa hai bên như con thoi để thỏa luận tương lai cuộc đàm phán.

Tháng 3-2010, Israel đã khôn khéo tránh những vụ khiêu khích do phía Palestine gây ra. Phó Thổng thống Biden viếng thăm Israel với ý tưởng thiện chí, tái khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của chính quyền Obama đối với an ninh quốc gia, cố gắng giả