Chương 15 Mùa xuân Ả Rập: Cuộc cách mạng
dịch giả: lâm hoàng mạnh
Chương 15
mùa xuân ả rập: cuộc cách mạng
ôi rất bức xúc: “Họ đang ngồi trên thùng thuốc súng, nếu không chịu thay đổi, cố giữ những gì họ có, thùng thuốc ấy sẽ nổ tung.” Đấy là tuần đầu tiên của tháng 1-2011, chúng tôi đang lập kế hoạch cho chuyến viếng thăm Trung Đông sắp tới. Lần này, chương trình chuyến đi tôi vẫn muốn theo như thông lệ, gặp gỡ, trao đổi, thuyết phục các nhà lãnh đạo với tư cách cá nhân về sự cần thiết cải cách chính trị, kinh tế trong thế giới Ả Rập. Jeff Feltman, Trợ lý Ngoại trưởng về Cận Đông, cố vấn hàng đầu, tán thành ý kiến tôi. Trong quá trình chèo lái thay đổi tình hình Trung Đông đột nhiên tôi thấy khó khăn quá, cảm giác như đụng đầu vào tường, riêng Jeff tham gia công việc này đã nhiều năm, dưới nhiều chính quyền nên vẫn bình tĩnh. Ngoài ra, ông từng giữ nhiều chức vụ khác nhau, Đại sứ ở Lebanon trong thời kỳ lịch sử đầy biến động gần đây nhất, như vụ ám sát Thủ tướng Rafic Hariri năm 2005, cuộc Cách mạng Cedar nổ ra, sự rút lui của quân đội Syria cũng như cuộc chiến tranh giữa Israel và Hezbollah năm 2006. Những trải nghiệm ấy giúp Jeff rất nhiều trong tuần lễ sắp tới, khi chúng tôi có bước chuẩn bị cho đợt sóng thần quét qua khu vực. Thời gian sắp tới, tình hình rất khó phán đoán, khó hiểu ngay cả đối với những nhà ngoại giao dày dạn kinh nghiệm.
Tôi nói với hai người chấp bút bản diễn văn, Megan Rooney và Dan Schwerin: “Tôi chán ngấy cứ phải nhai đi nhai lại những chuyện cũ rích mỗi khi tôi viếng thăm nơi ấy. Lần này, tôi muốn đổi mới, mang tính đột phá.” Hội thảo thường niên sắp tới ở Hội nghị Tương lai Doha, thủ đô của nhà nước giàu năng lượng dầu khí Qatar, đây là cơ hội giúp tôi truyền tải thông điệp tới những người trong hoàng tộc có ảnh hưởng nhất ở Trung Đông, với các thủ lĩnh chính trị, những ông trùm tài phiệt, các nhà học giả và các nhà hoạt động xã hội dân sự. Hầu hết những người này sẽ có mặt trong hội nghị. Nếu muốn nêu tình trạng bất ổn trong khu vực, đây là cơ hội tốt cho tôi thực hiện. Tôi nói với Mega và Dan chuẩn bị bài diễn văn về đề tài này.
Tất nhiên tôi không phải là quan chức đầu tiên của Hoa Kỳ thúc đẩy cải cách. Năm 2005, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Condoleezza Rice đến Ai Cập dự hội nghị đã để lại ấn tượng tốt: Trong hơn nửa thế kỷ qua, Hoa Kỳ đã lựa chọn theo đuổi mục tiêu “ổn định nền dân chủ với cái giá đắt đỏ” và “chưa đạt được điều mong muốn”. Bà quả quyết, điều này sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Bốn năm sau, tại Cairo Tổng thống Obama trong bài phát biểu quan trọng ông cũng kêu gọi cải cách dân chủ.
Tuy nhiên, ngôn từ đưa ra trước công chúng, thậm chí những điểm chính trong những cuộc gặp gỡ riêng, bất chấp những nỗ lực của nhiều người tham gia không ngừng với mục đích xây dựng nhà nước phồn vinh và tự do đầu năm 2011, nhưng nhiều quốc gia Trung Đông và Bắc Phi vẫn không thoát khỏi tình trạng trì trệ về chính trị và kinh tế. Trong đó có nhiều quốc gia dưới sự cai trị của những nhà độc tài, quân phiệt trong nhiều thập niên. Hầu hết các nước trong khu vực, tham nhũng vẫn xảy ra ở mức độ khác nhau. Các đảng chính trị, các tổ chức xã hội dân sự hầu như không được phép hoạt động hoặc bị kiểm soát chặt chẽ; hệ thống tư pháp không được hoạt động độc lập, tự do; Về bầu cử, họ tự ứng cử bắt dân bầu và thường gian lận. Những vấn đề thật xấu hổ này lại lập lại lần nữa vào tháng 11-2010 khi Ai Cập tổ chức bầu cử Quốc hội gian lận, không cho phép các nhà bất đồng chính kiến và đối kháng có quyền tham gia.
Một bản nghiên cứu nổi tiếng được công bố năm 2002 do các học giả hàng đầu ở Trung Đông và Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc về những chuyện đau lòng đã được tiết lộ. Trong Báo cáo Phát triển Con người Ả Rập đã vẽ ra khung cảnh tàn phá khu vực đến cùng kiệt. Bất chấp vùng Trung Đông là vùng giàu có về trữ lượng dầu mỏ, vị trí chiến lược trong thương mại, nhưng tỷ lệ thất nghiệp gần gấp đôi so với tỷ lệ toàn cầu, thậm chí tỷ lệ ấy còn cao hơn nhiều đối với phụ nữ và thanh niên. Số người nghèo khổ, sống trong các khu ổ chuột mất vệ sinh, thiếu nguồn nước sạch, thiếu điện ngày càng tăng nhanh chóng, trong khi đó tất cả nguồn tài nguyên khoáng sản, đất đai lại nằm trong tay một số ít người ở tầng lớp thượng lưu. Và chẳng ai ngạc nhiên khi tỷ lệ người phụ nữ Ả Rập được quyền tham gia chính trị, kinh tế thấp nhất trên thế giới.
Dù phải đối diện với thực tế này, hầu hết các nhà lãnh đạo khu vực, những kẻ môi giới đầy quyền lực dường như họ chỉ nghĩ đến quyền lợi của họ mà thôi. Những thiện chí tốt đẹp nhất của chính quyền Hoa Kỳ về chính sách ngoại giao ưu tiên theo đường lối chiến lược, an ninh khẩn cấp như chống khủng bố, hỗ trợ Israel, ngăn chặn tham vọng hạt nhân của Iran thông qua các mục tiêu dài hạn khuyến khích cải cách nội bộ với các đối tác Ả Rập. Chúng tôi thúc đẩy các nhà lãnh đạo cải cách, vì tin rằng có như thế mới đảm bảo sự ổn định và thịnh vượng lâu dài. Nhưng chúng ta cũng kết hợp với họ về hàng loạt vấn đề bảo mật, không có ý định cắt đứt mối quan hệ quân sự đối với họ.
Nhưng đây cũng là vấn đề tiến thoái lưỡng nan phải đối mặt trong nhiều thế hệ hoạch định chính sách Mỹ. Thật dễ dàng khi đọc diễn văn, viết sách về giá trị của nền dân chủ, thậm chí ngay cả khi có sự xung đột với lợi ích an ninh của chúng ta, nhưng khi phải đối mặt với thực tế, mâu thuẫn trong đời thực tìm cách đánh đổi là những lựa chọn khó khăn. Muốn chắc chắn, kế hoạch hoạch định phải đảm bảo yếu tố cân bằng. Đồng thời hy vọng chúng ta giải quyết đúng nhiều hơn là phạm sai lầm. Nhưng nhiều khi chúng ta cũng từng thấy nhiều lựa chọn xảy ra đáng tiếc, gây hậu quả khó lường, cần phải thực hiện theo hướng mới.
Tôi từng trao đổi mọi vấn đề với các nhà lãnh đạo Ả Rập trong nhiều năm, qua đó hiểu ra rằng nhiều người trong số họ, vấn đề ấy không hề đơn giản, tuy họ chấp nhận nhưng sự chuyển đổi phải từ từ. Tôi tìm cách xây dựng mối quan hệ cá nhân và niềm tin với họ, hiểu hơn nữa quan điểm về văn hoá, xã hội ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động của họ, khi có điều kiện thúc đẩy tiến trình chuyển đổi nhanh hơn.
Tất cả vấn đề này hình thành trong tâm trí tôi từ năm 2011 trong chuyến viếng thăm Trung Đông lần nữa. Tôi dành nhiều thời gian trong năm 2009 và 2010 làm việc với Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak và nhà vua Abdullah II của Jordan giúp các nhà lãnh đạo Israel và Palestine trong các cuộc đàm phán hòa binh trực tiếp, rồi lại nhìn thấy sự đổ vỡ sau ba vòng đàm phán. Đã đến lúc, lại một lần nữa, tôi trao đổi với cả hai bên tình hình hiện tại không ổn định, thiếu bền vững, họ cần phải có sự lựa chọn cần thiết đưa đến nền hoà bình và tiến bộ. Giờ đây, tôi cũng lại suy nghĩ vẫn một điều về tình hình toàn cục của khu vực. Nếu các nhà lãnh đạo các nước Ả Rập, nhiều người trong số đó là đối tác của Mỹ, bỏ lỡ cơ hội thay đổi, họ tự đánh mất quyền kiểm soát với lớp thanh niên, quần chúng nhân dân, tạo điều kiện mở cửa cho sự bất ổn và khủng bố. Đó là điều tôi muốn trao đổi với họ không cần những thủ tục ngoại giao thường lệ làm giảm chủ đề đưa ra.
Như dự kiến trong chuyến công du với các mục tiêu kinh tế, chính trị và môi trường, các diễn biến đang xảy ra của các nước có chiều hướng tăng cao.
Chính phủ thân phương Tây của Jordan đang đứng bên bờ sụp đổ dưới áp lực mạnh từ Hezbollah, lực lượng dân vệ được trang bị vũ khí có ảnh hưởng đáng kể trong chính trường Lebanon. Ngày 07 tháng Một, tôi đến New York thảo luận về cuộc khủng hoảng với Thủ tướng Lebanon, Sad Hariri, con trai của cựu lãnh đạo bị ám sát Rafic Hariri, và nhà vua Abdullah nước Saudi Arabia đang viếng thăm Hoa Kỳ.
Ngay lúc đó, báo cáo cho hay, các cuộc biểu tình rầm rộ trên đường phố ở Tunisai, thuộc địa cũ của Pháp trên bời biển Địa Trung Hải thuộc Bắc Phi, nằm giữa Libya và Algeria dưói sự cai trị của nhà độc tài khét tiếng trong nhiều thập niên, Zine el Abidine Ben Ali. Do có rất nhiều khách du lịch châu Âu đến các khu nghỉ mát xinh đẹp bên bờ biển, vì thế người ta lãng quên những mặt tối của nhà độc tài Ben Ali. So với các nước Trung Đông khác, người phục nữ ở nước này có nhiều quyền hạn hơn, nền kinh tế cũng đa dạng hơn, còn những kẻ cực đoan không được hoan nghênh, chào đón. Nhưng chế độ này rất tàn bạo, đàn áp dã man và tham nhũng, ngoài những khu du lịch hào hoa, phù phiếm người dân sống trong cảnh nghèo đói và tuyệt vọng.
Sự bất ổn bắt đầu từ một sự việc đau lòng vào ngày 17-12-2010. Một người đàn ông Tunisai tên là Mohamed Bouaziz, bán trái cây dạo với chiếc xe đẩy ở Sidi Bouzid, một thị trấn nghèo phía nam thủ đô Nunis. Như rất nhiều người khác ở Tunisia, việc buôn bán của anh nằm trong thị trường chợ đen, anh cố gắng kiếm tiền nuôi gia đình. Bouazizi không có thẻ môn bài, anh đã ẩu đả với nữ cảnh sát trong khu vực và cảm thấy nhục nhã, đầy tuyệt vọng. Sau đó, cuối ngày anh tự thiêu trước cơ quan chính quyền địa phương. Việc tự thiêu gây chấn động mạnh mẽ, các cuộc biểu tình nổ ra trên toàn quốc Tunisia. Mọi người xuống đường tuần hành chống tham nhũng, chống sỉ nhục và cuộc sống không có tương lai. Trên các phương tiện truyền thông xã hội đã chuyển tải những câu chuyện tham nhũng tồi tệ, khủng khiếp của Ben Ali, một số tin tức lấy từ nguồn tin của các nhà ngoại giao Hoa Kỳ về những hành động thái quá của chính quyền trong nhiều năm qua do WikiLeaks đưa ra không lâu trước khi các cuộc biểu tình xảy ra.
Chính quyền phản ứng bằng cách sử dụng lực lượng đàn áp dã man đã thổi bùng ngọn lửa phẫn nộ của dân chúng. Chính Ben Ali đã đến bệnh viện thăm Bouazizi, nhưng động thái giải quyết quá nhỏ không thể dập tắt được tình trạng bất ổn ngày càng lan rộng. Người đàn ông tội nghiệp ấy đã chết sau vài ngày.
Ngày 9 tháng Một, từ Washington tôi đến Abu Dahabi khởi đầu chuyến công du qua các nước Tiểu vương quốc Ả rập (UAE), Yemen, Oman, Qatar. Lực lượng an ninh Tunisia tăng cường đàn áp những người biểu tình, nhiều người bị chết. Hầu hết các nhà quan sát nước ngoài đã chứng kiến, sự đàn áp trở thành cơn lốc xoáy gây chấn động trong khu vực.
Tiểu vương quốc Ả rập là quốc gia nhỏ bé trong vùng Vịnh Ba Tư nhưng cực kỳ giàu có, nhờ trữ lượng dầu mỏ và khí đốt to lớn. Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Thái tử Mohammed bin Zayed Al Nahyan đã đầu tư ngành năng lượng mặt trời để đa dạng hoá nền kinh tế, tránh sự rủi ro do sự biến động trong tương lai của thị trường dầu mỏ toàn cầu, một biểu tượng hiếm gặp với tầm nhìn xa trông rộng trong kế hoạch đầy thông minh của quốc gia dầu mỏ. Tại Viện Nghiên cứu Công nghệ cao Masdar ở sa mạc cách Abu Dhabi 20 dặm, tôi nói chuyện với sinh viên tốt nghiệp về khả năng cạn kiệt nguồn dầu mỏ và nước sạch trong biểu đồ của khu vực. Tôi phát biểu: “Những chiến lược cũ cho sự tăng trưởng và thịnh vượng đã lỗi thời. Bởi vì ngày nay trên thế giới dân số quá đông cho ta thấy tình trạng hiện tại không còn bền vững.”
Nhưng không có quốc gia nào coi trọng lời cảnh báo của tôi như Yemen, quốc gia tận cùng của Bán đảo Ả Rập. Sự tuơng phản của thủ đô Sanaa kiến trúc thời trung cổ vốn bụi bặm nhưng đầy sáng tạo, duyên dáng mang sắc thái của thành phố Dhabi, Dubai ở nhà nước UAE thật khó phân biệt. Quốc gia Yemen một xã hội bộ lạc thành lập từ năm 1990 do người anh hùng quả cảm Ali Abdullah Saleh nổi dậy trong cuộc bạo động ly khai chi nhánh của bọn khủng bố có quan hệ mật thiết với al Qaeda, nơi mà nạn thất nghiệp lan tràn, hạn hán kéo dài, số lượng trẻ em sống sót rất đáng báo động, ấy thế giờ đây theo dự báo dân số Yemen sẽ tăng gấp đôi trong vòng 20 năm tới. Quốc gia Yemen nơi mà người dân có nhiều vũ khí nhất và cũng là nơi tỷ lệ mù chữ cao nhất thế giới.
Mối quan hệ giữa Mỹ và Tổng thống Saleh trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan về trọng tâm của chính sách Trung Đông của chúng ta. Ông ta vừa tham nhũng vừa là nhà độc tài, nhưng lại cam kết kiên quyết chống al Qaeda và quản lý được những kẻ điên khùng cực đoan trong nước. Chính quyền Obama quyết định chúng tôi đừng “dính mũi” vào chuyện nội bộ, tăng cường quân sự và viện trợ cho Yemen đồng thời mở rộng hợp tác chống khủng bố. Trong tiệc trưa kéo dài ở cung điện, tôi trao đổi với Saleh về vấn đề thắt chặt hơn nữa an ninh, đồng thời yêu cầu ông nới rộng nhân quyền và cải cách kinh tế. Hầu như ông ta chả quan tâm đến những lời đề nghị của tôi, ông chỉ khoe khẩu súng trường đồ cổ quý hiếm do Đại tướng Norman Schwarzkopf tặng. Ông kiên quyết mời tôi đi thăm một vòng Thành Cổ Sanaa trước khi kết thúc chuyến đi.
Thành Cổ đúng như trong truyện Đêm Ả rập, một dẫy những khu nhà xây bằng gạch bùn, phía tường phủ kín bằng thạch cao có nét hoa văn, lộn xộn chồng chất trông như những ngôi nhà làm bằng bánh gừng. Đám đông dân chúng tò mò chăm chú theo dõi từ các cửa hàng tạp phẩm, quán cà phê khi chúng tôi đi ngang qua. Hầu hết phụ nữ đều có mạng che mặt hijah hoặc khăn trùm kín đầu rộng bản, gọi là niqab. Đàn ông đeo con dao quắm to dài ở thắt lưng, thỉnh thoảng có người khoác khẩu súng trường Kalashnikov. Rất nhiều người đàn ông vừa đi vừa nhai lá “khat”, một loại cần sa của Yemen. Tôi ngồi trong chiếc xe bọc thép SUV vừa đủ lọt qua các đường phố hẹp. Xe chạy sát tường nhà các cửa hàng, giá như các cửa nhà hàng mở, chống cánh liếp lên cao, chắc xe lọt ngay dưới quầy hàng.
Nơi đến của tôi là khách sạn Movenpick, ngay sát bên bờ sông nhìn ra thành phố, tại đây tôi gặp gỡ các nhà hoạt động, sinh viên, một trong những tầng lớp dân sự trong xã hội đầy năng động của Yemen. Tôi mở cuộc họp báo, đưa thông điệp, không phải chỉ với nhân Yemen mà tới tất cả nhân dân vùng Trung Đông: “Những thế hệ nối tiếp ở Yemen tới đây sẽ rất thiếu công ăn việc làm, họ đòi hỏi cần được chăm sóc y tế, được học hành, phải xây dựng một nền giáo dục và đào tạo nhân tài để kết nối với nền kinh tế toàn cầu, đồng thời họ sẽ lập ra một chính phủ dân chủ có trách nhiệm phục vụ cộng đồng của chính mình.” Toàn khu vực sẽ hiểu làm thế nào cung cấp cho tầng lớp thanh thiếu niên tầm nhìn về những cơ hội trong tương lai trên cơ sở cuộc sống ổn định và an toàn. Lời kêu gọi của tôi đưa ra những ý tưởng, tình cảm, ý chí với đám đông đang có mặt. Những sinh viên đã từng du học nước ngoài, nói lý do vì sao họ trở về quê hương để tham gia công cuộc kiến thiết xây dựng đất nước. Mặc dù họ còn thất vọng về sự tham nhũng và độc đoán nhưng vẫn đặt niềm tin vào sự tiến bộ chắc chắn sẽ xảy ra.
Một nữ thanh niên trong đám đông, Nujood Ali, cô bé đã chiến thắng trong phiên toà ly hôn khi cô mới 10 tuổi. Cô bé bị cưỡng bức lấy người đàn ông nhiều tuổi gấp ba lần, bắt cô phải nghỉ học. Chuyện tảo hôn không phải là chuyện hiếm gặp ở Yemen, nhưng đối với Nujood, cô coi như bị án tù chung thân. Tuyệt vọng khi không còn lối thoát khỏi cuộc tảo hôn, giấc mơ được đi học và cuộc sống tự lập đổ vỡ. Cô bé lên xe buýt đến toà án địa phương. Hầu hết người lớn không ai để ý, cho đến khi người thẩm phán hỏi cô đến đây để làm gì. Nujood nói, cô đến đây để xin được ly hôn. Luật sư Shada Nasser thấy thế đã đến giúp cô. Cả hai người đã gây chấn động toàn cõi Yemen và thế giới, khi họ đã chiến thắng trong phiên tòa. Tôi tin rằng chuyện đời của cô bé Nujood sẽ là tấm gương giúp Yemen chấm dứt nạn tảo hôn.
Hôm sau, nhiều chuyện tương phản khác tôi được chứng kiến khi đến thăm Oman dưới sự cai trị của Sultan Qaboos bin Said Al Said, người có những lựa chọn khôn ngoan hơn trong nhiều năm qua, xây dựng đất nước ông trở thành xã hội hiện đại trong khi vẫn giữ được văn hóa truyền thống. Ông tuyên bố: “Hãy cố gắng học dù lớp học dưới lùm cây.” Năm 1970, cả nước chỉ có ba trường tiểu học, tổng số học sinh nam nữ chưa tới một ngàn em. Nhưng đến năm 2014, giáo dục cấp tiểu học đã phổ cập toàn quốc, tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học cao hơn nam giới rất nhiều. Oman là quốc gia quân chủ, chưa phải nhà nước dân chủ, nhưng đã cho chúng ta thấy những chuyển biến tích cực nếu như người lãnh đạo biết quan tâm đến giáo dục, trao quyền cho phụ nữ, đặt lợi ích người dân vào những kế hoạch phát triển chiến lược. Năm 2010, Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc đã xếp Oman là quốc gia cải thiện nhanh nhất thế giới trong việc phát triển con người kể từ năm 1970.
Cũng hôm ấy, ngày 12-1, trong khi Thủ tướng Lebanone đang viếng thăm Washington chuẩn bị gặp Tổng thống Obama, chính phủ ông đang rơi vào tình trạng đấu đá giữa các phe cánh, trong khi chính phủ Lebanone đang ra sức cố gắng giữ thế cân bằng lợi ích cùng các chương trình nghị sự hoà hợp khối cộng đồng phức tạp gồm đủ các thành phần Suni, Shiite, Kitô hữu và Druze. Trong khi đó bạo lực đang leo thang trên các đường phố ở Tunisia. Tuy nó chưa thể hiện sự khủng hoàng toàn diện, nhưng chắc chắn đây là dấu hiệu của cuộc rung chuyển lớn trong khu vực.
Điểm đến cuối cùng của tôi là Doha, Qatar, đọc bản diễn văn tại hội nghị khu vực mà tôi đã chuẩn bị kỹ lưỡng. Sáng sớm 13-1, tôi bước vào hội trường đông đúc, đầy đủ các nhà lãnh đạo Ả Rập, tôi nêu ra những thách thức trong khu vực một cách thẳng thừng, không úp mở về: nạn thất nghiệp, tham nhũng, nền chính trị cứng nhắc, khước từ phẩm giá người dân và tình trạng nhân quyền phổ quát bị xâm phạm. Tôi nói: “Rất nhiều nơi, nhiều quốc gia, bằng nhiều cách khác nhau, nền tảng của nhà nước đang bị vùi dần trong sa mạc.” Đây là vấn đề tôi đã từng nhấn mạnh trong chuyến công du. Tôi đã từng trực tiếp trao đổi với thành viên trong nội các chính phủ, tôi nói tiếp: “Quý vị chỉ có thể xây dựng tương lai tươi sáng khi nào các thế hệ thanh niên tin tưởng, sát cánh cùng hành động và bảo vệ nó.” Nếu không, “Những ai cố tình bám lấy hiện trạng một cách cố hữu, họ chỉ có thể giữ được trong một thời gian ngắn chứ chẳng bao giờ vĩnh viễn.”
Rất ít nhà lãnh đạo Ả Rập quen với những lời chỉ trích công khai và trực tiếp như thế này. Mặc dù hiểu phong tục tập quán và cảm nhận của họ, nhưng vì tôi nghĩ đều quan trọng, họ cần phải nghiêm túc xử lý như thế nào khi thế giới xung quanh có những bước chuyển biến nhanh chóng. Tôi cảm thấy đã quá lời theo phong cách ngoại giao. “Chúng ta nên thực tế khi đối mặt với tương lai, hãy công khai trao đổi thảo luận một cách cởi mở những gì chúng ta cần phải làm. Nhân cơ hội và thời điểm này, chúng ta phải vượt qua trở ngại của quá khứ, quyết tâm từ bỏ những kế hoạch nửa vời, cam kết đẩy mạnh khu vực của quý vị tiến nhanh, tiến mạnh và đúng hướng.” Đây là bài diễn văn tôi đọc khi bế mạc hội nghị. Phát biểu xong, các ký giả Mỹ đi cùng đoàn đã vây quanh tôi xì xào về bài phát biểu thẳng thắn tôi đưa ra. Nhưng tôi hy vọng và mong mỏi đây là hành động đúng, người ta sẽ làm theo những gì tôi đưa ra.
Hôm sau, cuôc biểu tình ở Tunisia đã bùng phát dữ dội, Ben Ali đã đào tẩu xin tỵ nạn ở Saudi Arabia. Cuộc biểu tình xuất phát điểm từ cuộc phản đối chiếc xe bán trái cây đã biến thành cuộc cách mạng toàn quốc. Tôi thật không ngờ lời “dự đoán vùi trong sa mạc” xảy ra quá nhanh, quá bất ngờ đến như vậy. Tuy vậy, qua sự kiện này, không một ai trong chúng ta có thể tiên đoán những gì sẽ xảy ra tiếp theo.
Các cuộc tuần hành, biểu tình ở Tunisai lan đi khắp nơi. Nhờ hệ thống truyền hình vệ tinh và các phương tiện truyền thông xã hội, thanh thiếu niên toàn khu vực Trung Đông và Bắc Phi ngồi xem hình ảnh nhân dân Tunisia nổi dậy lật đổ Tổng thống Ben Ali như thế nào. Tiếp sức cho sự mạnh bạo, thanh niên các nưóc bắt đầu chỉ trích chính phủ của họ, yêu cầu phải có những chuyện thay đổi, cải cách. Cuối cùng, đa số những người cùng chung số phận đau khổ ở Tunisia trong khu vực, nhất là dưới chính phủ tham nhũng và tàn ác đã vùng đứng lên.
Ngày 25 tháng Giêng, từ các cuộc biểu tình lẻ tẻ chống lại sự đàn áp dã man của cảnh sát đã biến thành cuộc biểu tình tuần hành khổng lồ chống lại chế độ độc tài Hosni Mubarak. Hàng chục ngàn người Ai Cập chiếm quảng trường Tahrir, trung tâm thành phố, chống lại cuộc đàn áp của cảnh sát bắt họ phải giải tán. Mỗi ngày số người tụ tập ở quảng trường đông hơn, cuối cùng họ tập trung vào mục tiêu duy nhất: yêu cầu Hosni Mubarak phải từ chức, từ bỏ quyền lực.
Tôi quen biết Mubarak và vợ ông, bà Suzanne, khoảng chừng gần 20 năm. Xuất thân từ sĩ quan trong Không Lực, đường quan lộ của ông tiến nhanh qua các cấp bậc rồi trở thành Phó Tổng thống dưới quyền Anwar Sadat cai trị Ai Cập, người đã từng tham chiến trong Chiến tranh Yom Kippur với Israel năm 1973, sau đó ký Hiệp ước David Camp. Mubarak bị thương trong cuộc mưu sát Sadat của phe cực đoan năm 1981, nhưng may mắn thoát chết, trở thành Tổng thống, đàn áp mạnh tay với những kẻ Hồi Giáo cực đoan và các phe phái khác. Ông cai trị Ai Cập đúng như một Pharaoh thời tiền sử, nắm trọn quyền lực trong tay kéo dài gần ba chục năm.
Nhiều năm qua, tôi có nhiều thời gian làm việc với Mubarak. Tôi đánh giá cao và ủng hộ Hiệp ước David Camp, một giải pháp hai nhà nước Israel và Palestine. Ông là người nhiệt tình, năng nổ nhất so với các nhà lãnh đạo Ả Rập khác tìm cách thuyết phục Yasser Arafat chấp nhận các thỏa thuận hoà bình trong cuộc đàm phán do chồng tôi, Bill Clinton đưa ra năm 2000. Tuy quan hệ đối tác chiến lược quan trọng của ông với Hoa Kỳ tốt đẹp, nhưng những việc làm của ông chúng tôi rất thất vọng. Sau nhiều thập niên cầm quyền, ông vẫn chối bỏ những quyền lợi cơ bản về tự do cho người dân Ai Cập, quyền con người và sự quản lý kinh tế của ông rất yếu kém. Dưới sự cai trị của Murabak, một quốc gia nổi tiếng “vựa lúa mỳ thời kỳ cổ đại”, nhưng ngày nay người dân chịu đói khổ, đang vật lộn với cuộc sống hàng ngày, trở thành quốc gia nhập khẩu lúa mỳ lớn nhất trên thế giới.
Tháng 5-2009, thằng cháu nội của Murarak 12 tuổi chết đột ngột do không tìm ra được bệnh. Chuyệnh đau buồn ấy đã ảnh hưởng đến nhà lãnh đạo lớn tuổi này. Khi tôi gọi điện chia buồn tới bà Suzanne, bà nói với tôi “thằng bé là đứa cháu cưng nhất của Tổng thống.”
Đối với chính quyền Obama, các cuộc biểu tình ở Ai Cập thể hiện tình huống rất nhạy cảm. Murabak là một đồng minh chiến lược quan trọng trong nhiều thập niên, nhưng ý tưởng của giới thanh niên yêu cầu “bánh mỳ, tự do và nhân phẩm” lại là điều phù hợp với quan điểm của Hoa Kỳ. Ngay ngày đầu tiên nổ ra cuộc biểu tình, một ký giả đã hỏi tôi quan điểm về sự kiện này. Tôi cho rằng đây là sự phản ánh lợi ích cấp bách và giá trị của chúng ta, nhưng trước tình hình bất ổn, chúng tôi tránh đổ thêm dầu vào lửa. Tôi nói: “Chúng tôi ủng hộ những đòi hỏi về các quyền lợi cơ bản của mọi tầng lớp nhân dân, nhưng tôi kêu gọi hai bên nên kiềm chế, tránh các cuộc đụng độ và bạo lực. Tôi cho rằng chính phủ Ai Cập vẫn ổn định, đang tìm kiếm phương cách đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi hợp pháp và lợi ích của nhân dân Ai Cập.” Không ngờ, chế độ này chưa thực sự “ổn định”, nhưng rất ít các nhà quan sát hiểu được sự ổn định ấy chỉ là giả tạo và tạm thời, trong khi thực tế rất mong manh, dễ đổ vỡ.
Ngày 28 tháng Giêng, Tổng thống Obama tham gia cuộc họp với đội ngũ an ninh quốc gia trong Phòng Tình Huống của Nhà Trắng, yêu cầu chúng tôi tìm cách xử lý tình hình Ai Cập. Cuộc tranh luận kéo dài, bàn đi tính lại vẫn chưa ngã ngũ. Chúng tôi một lần nữa nghiên cứu câu hỏi hoạch định kế họach của Hoa Kỳ trong tình hình rối ren như thế này sẽ như thế nào trong thời kỳ tiếp theo: Làm thế nào để cân bằng giữa lợi ích chiến lược với sự chống đối giá trị cốt lõi? Chúng ta có thể gây ảnh hưởng đến sự thành công đối với nội bộ chính trị các quốc gia khác, nuôi dưỡng nền dân chủ ở quốc gia chưa từng bao giờ xảy ra mà không phải hứng chịu những hậu quả ngoài ý muốn? Ý nghĩa như thế nào khi ủng hộ sự tiến bộ của lịch sử? Đây là những câu hỏi mà chúng tôi đã thảo luận rất nhiều, cái mà người ta gọi là Mùa Xuân Ả Rập.
Giống như tất cả thanh niên trên thế giới, một số phụ tá của Tổng thống Obama ở Nhà Tắng bị thu hút những ý tưởng qua những film trên truyền hình, chủ thuyết lý tưởng khi họ xem những hình ảnh của cuộc biểu tình trên Quảng trường Tahriri trên truyền hình. Họ xác định được niềm khao khác nền dân chủ, kiến thức khoa học kỹ thuật của giới thanh niên Ai Cập đang biểu tình. Thực tế người Mỹ ở mọi lứa tuổi với sự hiểu biết chính trị đa dạng đã đồng tình với những đòi hỏi quyền con người nói chung đã bị kiềm chế quá lâu do chính quyền gây ra sự phản ứng như thế này. Tôi chia sẻ với họ về những tính cảm ấy. Cùng với Phó Tổng thống Biden, Bộ trưởng Quốc phòng Bob Gates, cố vấn An ninh Quốc gia Tom Donilon, tôi lo ngại việc một đối tác lâu năm của chúng tôi bị lật đổ, phải ra đi, để lại Ai Cập, Israel, Jordan và các quốc gia trong khu vực trong tình trạng mất ổn định, một tương lai đầy nguy hiểm.
Những cuộc tranh luận về việc Mỹ ủng hộ những người biểu tình đã vượt qua chủ thuyết ý tưởng. Việc ủng hộ nền dân chủ và nhân quyền đã từng là trung tâm chính được các nhà lãnh đạo toàn cầu quan tâm hơn nửa thế kỷ. Đúng vậy, chúng ta đã từng bỏ phí nhiều thời gian để thoả hiệp những giá trị cốt lõi với việc phục vụ lợi ích chiến lược và an ninh trước mắt, kể cả cách hỗ trợ những nhà độc tài như chống cộng trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh với những kết quả thu được lẫn lộn tốt xấu. Những thỏa hiệp như vậy rất khó khăn khi phải đối mặt với những đòi hỏi của nhân dân Ai Cập về các quyền lợi và những cơ hội mà lâu nay chúng ta thường nói với họ rằng, tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng. Trước kia, ta thường tập trung vào sự ủng hộ tích cực của Murabak về hoà bình và hợp tác với Israel, săn bắt những kẻ khủng bố, giờ đây ta không thể bỏ qua được thực tế ông là một nhà độc tài khét tiếng, tham nhũng, duy trì chế độ suy tàn.
Ngoài ra còn rất nhiều quốc gia khác cũng có những chia sẻ các lợi ích an ninh với những nhà lãnh đạo hàng đầu của các chính quyền ngày xưa vẫn duy trì quan hệ chặt chẽ với Mubarak theo mối quan hệ ưu tiên cấp bách. Iran vẫn cố gắng tìm cách xây dựng phát triển kho vũ khí hạt nhân. Al Qaeda vẫn còn âm mưu phát động những đợt tấn công mới. Kênh đào Suez vẫn là tuyến đường vận chuyển thương mại quan trọng. An ninh của Israel giờ đây cần được đảm bảo hơn bao giờ hết. Mubarak là đối tác với tất cả các quốc gia trong khu vực, mặc dù nhiều người dân Ai Cập vẫn còn tư tưởng bài Mỹ và chống Israel. Quốc gia Ai Cập như là một cột trụ của nền hoà bình trong khu vực bất ổn. Chúng ta có nên sẵn sàng bỏ rơi một mối quan hệ gắn bó, hợp tác sau ba mươi năm hay không?
Ngay cả khi chúng tôi đã quyết định lựa chọn đúng đắn, nhưng nó còn chưa rõ ràng vấn đề này thực tế ảnh hưởng đến đâu, như thế nào khi diễn biến đang xảy ra. Trái với niềm tin phổ biến ở Trung Đông, Hoa Kỳ chưa bao giờ có được chính phủ bù nhìn đầy quyền lực như chúng ta từng mong đợi. Nếu chúng ta kêu gọi Mubarak từ chức, nhưng y khước từ và tìm mọi cách duy trì quyền lực thì sao? Nếu Mubarak đồng ý từ chức, người kế nhiệm lại là kẻ từ lâu vẫn bất phục, đầy nguy hiểm hoặc một chính phủ mới phản dân chủ hơn, chống chúng ta mạnh mẽ hơn thì sao? Cả hai trường hợp ấy đều bất lợi, quan hệ chẳng bao giờ được như cũ và ảnh hưởng của chúng ta trong khu vực bị xói mòn. Các quốc gia láng giềng sẽ thấy như thế nào khi chúng cư xử với Mubarak, gây cho họ mất niềm tin trong mối quan hệ giữa họ và chúng ta.
Trong lịch sử, quá trình chuyển đổi từ chế độ độc tài sang dân chủ thường có những thách thức lớn, rất dễ đưa đến những sai lầm đáng tiếc. Trường hợp quốc gia Iran năm 1979 là một ví dụ điển hình, những kẻ cực đoan đã cướp thành quả của cuộc cách mạng nổ ra trên toàn quốc chống chế độ quân chủ Shah, lập ra nhà nước thần quyền tàn bạo. Nếu điều ấy xảy ra tương tự như ở Ai Cập ngày nay thì sẽ ra sao? Nó sẽ là một thảm họa cho nhân dân Ai Cập cũng như Israel và quyền lợi của Hoa Kỳ.
Mặc dù số lượng của các cuộc biểu tình ở Quảng trường Tahrir rất đông, nhưng phần lớn không có người lãnh đạo, mọi việc do các phương tiện truyền thông đưa tin, người nọ thông báo cho người kia tham gia chứ chưa phải là một phong trào đấu tranh có tổ chức và thống nhất. Sau nhiều năm dưới sự cai trị độc đảng, những người biểu tình Ai Cập chưa chuẩn bị đầy đủ cho cuộc thử thách nếu cuộc bầu cử sớm xảy ra, chưa thể xây dựng được thể chế của nền dân chủ đáng tin cậy. Ngược lại, tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo, một tổ chức đã ra đời 80 năm. Đang nắm điều kiện thuận lợi lên cầm quyền, nếu chế độ Mubarak sụp đổ. Mubarak đã từng buộc tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo phải đi vào hoạt động bí mật, nhưng thành viên của nó có mặt khắp nơi trong nước với một tổ chức rất chặt chẽ về cơ cấu quyền lực. Tổ chức này từ bỏ bạo lực, có nhiều nỗ lực thay đổi mang tính ôn hòa hơn. Nhưng chẳng ai dám cả quyết tổ chức này sẽ biến tướng thì sẽ xử lý ra sao và cái gì sẽ xảy ra nếu như nó nắm quyền.
Cuộc tranh luận ấy buộc tôi phải tạm dừng. Cùng với Phó Tổng thống Biden, Bộ trưởng Gates và cố vấn an ninh Donilon và tôi cần phải rất thận trọng. Nếu Mubarak sụp đổ, tôi nói với Tổng thống: “Trong hai mươi nhăm năm mọi vấn đề ổn thỏa, nhưng từ nay trở đi người dân Ai Cập sẽ gặp rất nhiều khó khăn, kể cả đối với khu vực cũng như chúng ta.” Mặc dù tôi hiểu, Tổng thống không thể ngồi yên, không có động thái gì trong khi người biểu tình ôn hoà bằng hòa bình bị đàn áp và bị giết hàng ngày trên đường phố. Tổng thống cần tìm ra một con đường kêu gọi Ai Cập cải cách dân chủ, nhưng tránh tình trạng hỗn loạn nếu chế độ sụp đổ đột ngột.
Chương trình Meet the Press (của hãng thông tin NBC - ND) ngày Chủ Nhật, 30 tháng Giêng, tôi cố gắng đưa ra cách tiếp cận dễ dàng: “Sự ổn định bền vững phải dựa trên đáp ứng được những nhu cầu chính đáng của nhân dân Ai Cập và đó cũng chính là điều mà tôi mong đợi”, vì vậy tôi nói, chúng ta hy vọng sẽ thấy “sự chuyển đổi hòa bình, có trật tự của chế độ dân chủ.” Tôi dùng từ “trật tự” thay cho “ngay lập tức” là có chủ ý, mặc dù từ này không được ưa thích ở một số khu vực Nhà Trắng. Một số cố vấn của Tổng thống muốn tôi ít nhất cũng nên đánh động cho Mubarak chuẩn bị ra đi nếu như không muốn nêu đích danh. Tuy vậy, tôi cho rằng những phát biểu của tôi cần cẩn trọng cũng như các chính quyền khác làm sao giúp cho Ai Cập đạt được cải cách theo như nguyện vọng của người biểu tình một cách ôn hòa nhẹ nhàng hơn là bạo lực, cứng rắn.
Khi tôi trao đổi với Ngoại trưởng Ai Cập, ngài Ahmed Aboul Gheit trong tuần ấy, tôi kêu gọi chính phủ nên kiềm chế, đáp ứng yêu cầu của người dân. Tôi nói với Gheit: “Đây là một thách thức đối với Tổng thống Mubarak, giờ đây ông được nghe tiếng nói của người dân sau ba mươi năm không tổ chức bầu cử tự do, công bằng và không dọn đường cho người kế nhiệm. Vấn đề ấy không thể chần chừ, chờ đợi, nên giải quyết kịp thời, không thể để ngày mai.” Ông trả lời tôi: “Ngày mai chúng tôi sẽ làm dịu sự phản ứng của người dân, giải quyết mọi vấn đề.” Nhưng dù sao ông cũng hoan nghênh mối quan tâm của tôi và đồng ý cố gắng vượt qua cuộc khủng hoảng.
Nhưng Mubarak đã không lắng nghe. Ngay cả khi tình hình bất ổn leo thang, sự kiểm soát của chính quyền trong nước đã vuột khỏi tầm tay, ông vẫn đọc bài diễn văn đầy thách thức vào đêm khuya ngày 29 tháng Giêng, cách chức hàng loạt bộ trưởng trong nội các, nhưng lại khước từ từ chức và hạn chế thời gian cầm quyền.
Tôi trao đổi với Tổng thống Obama nên cử một đặc sứ gặp trực tiếp Mubarak, thuyết phục ông nên đưa ra thông báo cải cách mạnh mẽ, kể cả bãi bỏ đạo luật trấn áp trong điều kiện khẩn cấp ban hành từ 1981, cam kết không ra ứng cử trong cuộc bầu cử tháng Chín theo kế hoạch và thỏa thuận không đưa người con trai Gamal thành người kế nhiệm. Tuy những bước đi này chưa đáp ứng được yêu cầu nhưng dù sao cũng là những bước nhượng bộ đáng kể, cung cấp cho người biểu tình có cơ hội thay đổi chính phủ trong cuộc cuộc bầu cử sắp tới được tổ chức.
Đây là vấn đề tế nhị trong ngoại giao, vì thế tôi tiến cử Frank Wisner, một nhà ngoại giao cao cấp đã nghỉ hưu, ông từng giữ chức Đại sứ Ai Cập từ năm 1986 đến 1991, có mối quan hệ thân thiết cá nhân với Mubarak. Hai người đã từng dành nhiều thời gian trao đổi về tình hình khu vực và thế giới. Giống như người bạn thân của ông, Richard Holbrooke, Wisner đã rút ra được rất nhiều kinh nghiệm ngoại giao ở Việt Nam trước khi làm đại diện cho Hoa Kỳ ở nhưng khu vực nóng bỏng trên thế giới. Ngoài việc làm Đại sứ ở Ai Cập, ông còn làm Đại sứ ở Zambia, Philippine và Ấn Độ trước khi nghỉ hưu năm 1997. Theo tôi, người Mỹ duy nhất có thể trực tiếp trao đổi với Mubarak chính là Wisner. Nhưng một số cố vấn Nhà Trắng hoài nghi chuyến công du của ông khó thành công. Bởi vì họ đã cắt đứt quan hệ với Mubarak, đồng thời Tổng thống Obama cũng đã hết kiên nhẫn, nhưng cũng đồng ý để tôi sử dụng công tác ngoại giao tìm kiếm thêm một cơ hội.
Wisner gặp Mubarak ngày 31 tháng Giêng, chuyển thông điệp của chúng tôi. Nhưng Mubarak không có bất cứ động thái nào. Ông quá tự tin, tuy có hoang mang không hiểu chuyện gì đang xảy ra ở xung quanh, nhưng ông kiên quyết không từ bỏ quyền lực. Giống như hầu hết như nhà độc tài trước kia, ông tự coi mình là người trụ cột quốc gia. Mubarak đủ khôn ngoan, kinh nghiệm hiểu rằng, ông không thể ngồi yên tại cung điện phớt lờ tất cả các cuộc biểu tình trên đường phố. Vì thế ông cử tân Phó Tổng thống mới bổ nhiệm, nguyên giám đốc cục tình báo lâu năm, Omar Suleiman, đề xuất cuộc đối thoại nhà nước về cải cách có thể được. Hai ngày gần đây, Mubarak bổ nhiệm Suleiman chức Phó Tổng thống mà lâu nay khiếm khuyết như là một nỗ lực mang tính nửa vời để tìm cách làm dịu các cuộc biểu tình. Nhưng người biểu tình không chấp nhận hứa hẹn đối thoại cũng như bổ nhiệm Phó Thổng thống.
Ngay đêm ấy, phía quân đội đưa ra tuyên bố rất quan trọng, đáng chú ý, họ không sử dụng vũ lực chống lại người dân Ai Cập đi biểu tình, công nhận tính hợp pháp và những đòi hỏi của người biểu tình. Đây là dấu hiệu thật đáng lo ngại cho Mubarak. Nếu bị phía quân đội bỏ rơi, ông chắc chắn không còn cách nào tiếp tục nắm quyền.
Ngày đầu tiên của tháng Hai, cuộc biểu tình trở thành khổng lồ. Ngay chiều hôm ấy tại Phòng Tình Huống của Nhà Trắng, đội ngũ an ninh quốc gia một lần nữa lại tranh luận, bàn thảo phải làm gì đây. Đang tranh luận, chúng tôi nhận được tin Mubarak lên đài truyền hình phát biểu với dân chúng. Chúng tôi bật màn hình theo dõi, chờ đợi xem nhà lãnh đạo nghênh chiến sẽ nói gì. Trông ông già đi nhiều, mệt mỏi nhưng vẫn có vẻ ngang ngạnh. Ông hứa sẽ rút lui tranh cử trong cuộc bầu cử vào tháng Chín, sẽ cải cách hiến pháp và đảm bảo “chuyển giao quyền lực trong hòa bình” trước khi kết thúc nhiệm kỳ. Nhưng lại phớt lờ luật trấn áp khẩn cấp hay chuyện con trai ông không kế nhiệm cũng như đưa ra vấn đề trao trả quyền lực tối thượng ngay lập tức. Mubarak tuy đã công bố một số vấn đề mà Wisner đã trao đổi, nhưng lại quá ít và quá trễ đối với đám đông người biểu tình trên đường phố và những người ngồi họp trong Phòng Tình Huống.
Tổng thống Obama nói với giọng rất thất vọng: “Điều này chẳng giải quyết được vấn đề gì.” Sau đó ông gọi điện Mubarak nhắc lại lời nói trên. Chúng tôi cân nhắc xem Tổng thống có nên công khai tuyên bố, ông đã chờ biện pháp giải quyết của Mubarak theo hướng đúng đắn nhất. Nhiều thành viên chủ chốt của Nội các trong đó có tôi đưa ra lời khuyên nên thận trọng, Chúng tôi cảnh báo, nếu Tổng thống đưa ra giải pháp quá cứng rắn có thể gây hậu quả phản tác dụng. Nhưng một số thành viên khác lại có ý kiến cho rằng Tổng thống thiếu thực tế, lập luận rằng tình hình xảy ra đang chuyển biến quá nhanh không cho phép chờ đợi được nữa. Tổng thống nao núng, tối hôm ấy ông đứng trước ống kính truyền hình ở Grand Foyer tại Nhà Trắng, phát biểu: “Đây không thuộc quyền hạn của bất cứ quốc gia nào để giải quyết với các nhà lãnh đạo Ai Cập. Vấn đề này chỉ có chính nhân dân Ai Cập trực tiếp tự giải quyết. (Nhưng) những điều gì tôi trao đổi với ngài Mubarak rõ ràng và minh bạch là vì tôi tin tưởng vào quá trình chuyển đổi phải thực sự có ý nghĩa, phải trong hoà bình và phải ngay từ bây giờ.” Ngày hôm sau, Người phát ngôn Nhà Trắng Robert Gibbs được hỏi “bây giờ” có nghĩa như thế nào, ông trả lời, trước khi rời phòng họp: “Bây giờ” là ngày hôm qua chứ không phải lúc này.”
Mọi chuyện trở nên thật tồi tệ. Những người ủng hộ chế độ đã ra tay đàn áp, đụng độ với người biểu tình. Đàn ông cầm dùi cui và vũ khí cưỡi lạc đà tràn vào Quảng trường Tahrir cứ thế phang lên đầu người biểu tình. Tôi gọi điện cho Phó Thổng thống Suleiman nói rõ, áp dụng bạo lực như vậy hoàn toàn không thể chấp nhận được. Những ngày sau, các nhà lãnh đạo Ai Cập bỏ áp dụng trấn áp như hôm trước. Ngày 04 – 2, tôi trao đổi lần nữa với Ngoại trưởng Aboul Gheit. Lần trao đổi trước ông có vẻ tự tin và lạc quan. Bây giờ ông không giấu được sự thất vọng, thậm chí còn tỏ ra tuyệt vọng nữa. Ông trách cứ Hoa Kỳ đã đẩy ông phải ra đi mà không tính đến những hậu quả có thể xảy ra. Ông cảnh báo, nên chú ý những điều gì Iran đang lên tiếng. Chúng đang mong muốn lợi dụng lợi thế của sự sụp đổ của nhà nước Ai Cập đầy tiềm năng. Ông lo ngại bọn Hồi giáo cực đoan sẽ kiểm soát nhà nước và nói với tôi: “Tôi có hai đứa cháu gái, lên 6 và lên 8, tôi muốn chúng lớn lên như bà nội nó và được như bà, không phải dùng mạng che mặt như ở Saudi Arabia. Đây là điều mà tôi đã cống hiến cả cuộc đời mình.”
Lời của ông vẫn văng vẳng bên tai trong khi tôi bay sang Đức đọc diễn văn tại Hội nghị An ninh, cuộc họp quan trọng có sự tham dự của các nhà lãnh đạo, các nhà tư tưởng từ khắp các cộng đồng quốc tế. Hội nghị đề cập chủ yếu hỗ trợ dân chủ, những vấn đề chính là gì? Phải chăng chỉ là vấn đề một cuộc bầu cử, chỉ cần một lần thôi? Nếu phụ nữ Ai Cập đã hiểu rõ quyền lợi, cơ hội của họ nhưng bị chính phủ mới trúng cử bỏ xó, vậy có phải là dân chủ hay không? Đối với thiểu số Coptic Chritians ở Ai Cập bị ngược đãi có là vấn đề nghiêm trọng hay không? Nếu Mubarak từ chức tổng thống và Ai Cập bắt đầu thực hiện chuyển đổi, vậy câu hỏi đặt ra, chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo, nó có phù hợp và cấp bách không?
Tại Munich, như trong Doha tháng trước, tôi dẫn chứng đưa ra những trường hợp cải cách chính trị, kinh tế trên toàn Trung Đông: “Đây không chỉ đơn thuần lý tưởng hóa mà là một chiến lược rất cần thiết. Nếu không có sự tiến bộ thật sự trong quá trình cởi mở, có trách nhiệm của hệ thống chính trị, khoảng cách giữa người dân và chính phủ sẽ nẩy sinh, sự bất ổn định mỗi ngày một gia tăng.” Dĩ nhiên, sự chuyển đổi có thể có những phương thức khác nhau, tốc độ nhanh chậm khác nhau ở từng quốc gia và còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh riêng của từng nước. Nhưng không một quốc gia nào được phớt lờ, bỏ qua những đòi hỏi và nguyện vọng của người dân của họ mãi mãi được.
Đồng thời tôi cảnh báo, chúng ta phải thật tinh tường về những rủi ro vốn có trong bất kỳ quá trình chuyển đổi nào. Bầu cử tự do, công bằng, minh bạch tuy rất cần thiết nhưng vẫn chưa đủ. Nội hàm của nền dân chủ đòi hỏi phải thượng tôn pháp luật, có nền tư pháp độc lập, phải có tự do báo chí và xã hội dân sự thật sự, phải tôn trọng nhân quyền, quyền bình đẳng giữa các sắc tộc thiểu số và một chính phủ có trách nhiệm. Một quốc gia như Ai Cập, một chế độ độc tài cai trị kéo dài trong lịch sử, nó có thể là quốc gia hùng cường kể cả vấn đề lãnh đạo, cùng với sự nỗ lực bền bỉ của người dân trong toàn xã hội cũng như có sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, họ có thể xây dựng nền tảng cho một nền dân chủ trong nước. Không một ai trong chúng ta mong đợi mọi thứ chỉ trong một đêm mà thay đổi được. Những gì tôi phát biểu hôm nay có thể là tiếng vọng mà chúng ta đang thấy của những người biểu tình họ đang đòi hỏi và hy vọng ở Cairo, phản ánh những thách thức mà tôi đã thấy trước.
Cũng tại hội nghị Munich, Wisner, với tư cách là một công dân, không thay mặt cho bất cứ chính quyền nào, trên màn hình vệ tinh truyền hình đã đưa ra những nhận xét cá nhân của ông về tình hình căng thẳng hiện tại. Vấn đề này Nhà Trắng rất buồn, nhưng không thể đưa ra những vấn đề và trách nhiệm một cách công khai. Wisner đã gây ra sóng gió khi ông nói Mubarak không cần phải từ chức ngay lập tức nhưng phải thực hiện ngay quá trình chuyển đổi. Bình luận của ông đã gây mâu thuẫn với Tổng thống, Nhà Trắng cảm thấy khó chịu vì Wisner đã vượt qua giới hạn trong lời phát biểu. Tổng thống gọi điện cho tôi bày tỏ ông không hài lòng về “thông điệp nhầm lẫn” mà chúng tôi đã đưa ra. Đây là cách phê bình theo phong cách ngoại giao. Tổng thống biết sự kiện ở Ai Cập mà Mỹ không thể kiểm soát được, nhưng ông muốn làm ngay vì lợi ích cũng như vì giá trị của chúng ta. Bản thân tôi cũng muốn như thế. Tôi biết Mubarak cầm quyền quá lâu nhưng chẳng làm được gì cho dân chúng. Muốn hạ bệ Mubarak, nhưng những người biểu tình ở Quảng trường Tahrir lại thiếu tổ chức và những kế hoạch cụ thể. Những người mà trong chúng ta có ý định ủng hộ “chuyển tiếp trong trật tự” lại lo ngại sau khi Mubarak ra đi thì chỉ có lực lượng quân sự và tổ chức Huynh Đệ Hồi giáo có thể nắm quyền.
Ngày 10 tháng Hai, hàng trăm người bị tàn sát trong cuộc đụng độ với lực lượng an ninh. Bạo lực đã làm dấy lên sự phẫn nộ của người biểu tình, bắt đầu yêu cầu Mubarak phải từ chức. Tin đồn như cơn lốc lan truyền Mubarak chấp nhận áp lực đòi hỏi. Kỳ vọng dâng cao khi Mubarak sẽ đọc diễn văn toàn quốc. Lần này, ông tuyên bố chuyển giao một số quyền lực cho Phó Tổng thống Suleiman, nhưng vẫn từ chối từ chức cũng như chấp nhận sự cấp thiết trong quá trình bàn giao quyền lực kể cả việc ông từ bỏ quyền lực. Dân chúng trong cuộc biểu tình tại Quảng trường Tahrir nổi giận đùng đùng.
Hôm sau, ngày 11 tháng Hai, Mubarak cuối cùng chấp nhận thất bại. Phó Tổng thống trông có vẻ mệt mỏi, xuất hiện trên truyền hình, tuyên bố Tổng thống Mubarak từ chức, giao toàn bộ quyền điều hành cho ban lãnh đạo quân sự. Người phát ngôn quân sự đọc bản tuyên bố cam kết “tiến hành cuộc bầu cử tổng thống tự do và công bằng” và đáp ứng “tất cả những đòi hỏi của nhân dân”. Bản thân Mubarak không phát biểu ý kiến, ông âm thầm rời khỏi Cairo đến cư trú ở khu vực Hồng Hải. Khác với Ben Ali ở Tunisia, ông không bỏ trốn ra nước ngoài, quyết ở lại trong nước như lời tuyên bố cứng cỏi, “tôi sinh ra ở Ai Cập, chết cũng sẽ chết ở Ai cập”. Đây là phản ứng cuối cùng đầy thách thức đã làm ông phải đối mặt sự truy tố và sự trừng phạt nhiều năm sau khi ông bị quản thúc tại gia, hoặc tại bệnh viện vì điều kiện sức khỏe.
Khoảng một tháng sau, tôi viếng thăm Cairo, đi đến Quảng trường Taharir. Ban an ninh của tôi rất lo ngại, bởi vì chúng tôi đang đến một nơi đầy bí ẩn. Nhưng rất đông nhân dân Ai Cập đã xúm xít quanh tôi, với những thông điệp đầy ấm áp, thân thiện. Một số người nói với tôi: “Chân thành cám ơn quý vị đã đến thăm chúng tôi”. Có tiếng hô vang đâu đó “Ai Cập hoan nghênh chào mừng quý khách”. Họ rất tự hào về cuộc cách mạng đã chiến thắng.
Sau đó tôi gặp một số sinh viên và các nhà hoạt động, những người đã đóng vai trò quan trọng trong các cuộc biểu tình. Tôi tò mò muốn nghe họ kể vế các kế hoạch chuyển từ cuộc biểu tình sang chính trị, làm cách nào mà có ảnh hưởng trong việc sửa đổi bản Hiến pháp mới cũng như sẽ tham gia trong cuộc bầu cử sắp tới. Tôi phát hiện ra, họ chẳng có một tổ chức đoàn thể nào, cũng chẳng có kế hoạch biểu tình và cũng chẳng có ảnh hưởng lớn lao nào cả. Tất cả họ đều không có kinh nghiệm hoạt động chính trị, không biết cách điều hành cũng như tổ chức các hội đoàn, phương pháp tranh cử cũng như quản lý chiến dịch. Họ thiếu hiểu biết cơ bản và cũng không thực sự quan tâm về những điều kiện trên. Thay vào đó họ lại tranh luận, cãi cự lẫn nhau, đổ lỗi cho Hoa Kỳ về những hàng loạt tội xảy ra và đa số mất niềm tin vào các cuộc bầu cử mang tính chất chính trị. Tôi hỏi: “Các bạn đã bao giờ để ý đến những liên minh chính trị, cùng nhau tham gia đề cử các đại diện của mình vào cuộc bầu cử chưa?” Tất cả nhìn chằm chằm vào tôi ngơ ngác, chẳng hiểu gì. Tôi thật sự cảm thấy rất lo ngại, có thể họ tuột tay giao sứ mệnh quốc gia cho tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo hay quân đội một cách vô ý thức, điều mà sau này xảy ra đúng như vậy.
Quyền lãnh đạo nhà nước lọt vào tay Bộ trưởng Quốc phòng của chính phủ Mubarak, Thống chế Mohamed Tantawi, ông hứa sẽ bàn giao quyền lực suôn sẻ cho một chính phủ dân sự được bầu thông qua cuộc bầu cử dân chủ. Tôi gặp ông ở Cairo, ông rất mệt mỏi khó có thể ngửng cao đầu. Ánh mắt buồn của ông hiện rõ trên nét mặt. Ông là người lính chuyên nghiệp, một sĩ quan quân đội trong suốt cuộc đời binh nghiệp, gặp ông tôi lại nhớ đến Tướng Ashfag Parvez Kayani ở Pakistan. Cả hai vị này đều theo chủ nghĩa dân tộc, cả đời được nuôi dưỡng trong môi trường quân đội nơi đã sản sinh ra họ, vì thế cả hai chẳng dễ dàng gì chấp nhận sự phụ thuộc vào viện trợ của Hoa Kỳ và các mối đe dọa về chính trị, kinh tế mà họ cảm thấy có thể ảnh hưởng đến quyền lực trong quân đội. Trong khi Tantawi và tôi trao đổi về kế hoạch chuyển giao quyền lực, tôi thấy ông rất thận trọng từng lời ăn tiếng nói. Ông đang ở trong tình trạng đầy khó khăn, ra sức bảo vệ quyền lợi quân đội trong đống đổ nát của chế độ Mubarak, bảo vệ người dân như lời đã hứa của quân đội, đi đúng hướng của các cựu lãnh đạo, người đã giúp ông trưởng thành trong sự nghiệp. Cuối cùng, Tantawi làm theo lời hứa sẽ tổ chức bầu cử. Ông đề cử cựu Thủ tướng Ahmed Shafik ứng cử Tổng thống, nhưng đã bị thất cử với số phiếu sát sao với Mohamed Morsi của tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo, ông đành chấp nhận kết quả bầu cử.
Trong thời gian chuyển giao quyền lực, Hoa Kỳ lâm vào tình thế khó xử, phát huy giá trị dân chủ, lợi ích chiến lược mà không đứng ở phe nào, không ủng hộ bất cứ ứng cử viên hay phe phái. Tuy nhiên, bất chấp chúng ta giữ vai trò trung lập, nhưng rất nhiều người Ai Cập vẫn nhìn Mỹ với con mắt ngờ vực. Những người ủng hộ Huynh Đệ Hồi Giáo buộc tội chúng ta dựng lên chế độ Mubarak, nghi ngờ chúng ta thông đồng với quân đội đẩy họ khỏi quyền lực. Còn đối thủ của họ lo sợ viễn cảnh với luật Hồi giáo và cáo buộc Hoa Kỳ đã âm mưu với Huynh Đệ Hồi Giáo buộc Mubarak phải từ chức. Tôi không chắc chắn làm thế nào chúng ta có thể lên án cả hai bên, ngăn chặn Huynh Đệ Hồi Giáo, nhưng đứng về mặt logic thì những luận thuyết âm mưu không bao giờ tốt đẹp.
Tôi trở lại Ai Cập vào tháng 7-2012, tôi lại chứng kiến trên đường phố Cairo lại biểu tình rầm rộ. Nhưng lần này không hướng vào chính phủ mà hướng vào tôi. Đám đông tụ tập trước hotel, khi xe ô tô đi vào nhà để xe qua cổng bên, nhiều người lấy tay đập vào xe tôi. Cảnh sát Ai Cập không làm gì để ngăn chặn họ, vì thế nhân viên An ninh Ngoại giao của tôi buộc phải xô đẩy đám đông lùi ra, một công việc ít khi xảy ra. Khi vào phòng nghỉ, lại thấy một số chuyện, tôi có thể nghe rõ những tiếng ồn ào, tiếng hô chống Mỹ. Bộ phận an ninh và nhân viên của tôi trải qua một đêm lo lắng, chuẩn bị kế hoạch chuyển khách sạn nếu thấy cần thiết. Bất chấp cảnh báo có thể có biểu tình ở Alexandria, nhưng tôi vẫn quyết thực hiện kế hoạch và bay đến đó vào hôm sau, chính thức khai trương Lãnh sự quán Mỹ vừa trùng tu. Sau buổi lễ khánh thành, khi ra xe, tôi phải đi qua đám đông đang giận dữ. Toria Nuland, nữ phát ngôn viên dũng cảm của tôi bị cà chua ném trúng vào đầu (nhưng cô không quan tâm), một người đàn ông ném giầy vào cửa kính ô tô khi xe chạy về hướng phi trường.
Tại Cairo, cùng với những cuộc họp riêng với Morsi và các tướng lĩnh, tôi còn trao đổi với nhóm Coptic Christians ở Đại sứ quán Hoa Kỳ. Họ thật sự lo lắng những gì sẽ xảy ra trong tương lai đối với họ và quốc gia. Đây là cuộc chuyện trò riêng tư đầy cảm xúc.
Một trong những cảnh cảm động nhất từ khi có cuộc cách mạng ở Quảng trường Tahrir là những người biểu tình Christian đã xếp hình vòng tròn bảo vệ chiến hữu Hồi giáo của mình trong khi cầu nguyện. Nhưng sự việc xảy ra ngược lại khi những người Christian làm lễ kỷ niệm ở Mass. Thật đáng buồn, tình đoàn kết đã không kéo dài được. Chỉ một tháng sau sự sụp đổ của chính quyền Mubarak, báo cáo ở thành phố Qena, một nhóm Salafists đã xẻo tai một thày giáo Coptic Christian, phóng hỏa đốt nhà, đốt xe của ông. Những cuộc tấn công lại tiếp tục xảy ra. Việc ông Morsi đắc cử gây thêm nỗi lo lắng sợ hãi cho cộng đồng Ky-tô giáo.
Trong cuộc họp của chúng tôi, một người trong số những người tham dự đã tung tin vịt động trời. Ông ta kết tội Huma Abedin, một trợ lý tin cậy của tôi theo đạo Hồi, là đặc vụ bí mật của tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo. Tuyên bố này được lan truyền một cách bất thường, gây hoang mang giới chính khách cánh hữu và một số cá nhân truyền thông thiếu trách nhiệm ở Hoa Kỳ, bao gồm vài thành viên trong Quốc Hội, bây giờ lan tin sang tận Cairo. Tôi quyết không để chuyện này gây ảnh hưởng, tôi nói với Huma, đừng quá lo lắng vì quá trình làm việc chưa từng xảy ra sai sót. Sau vài phút trò chuyện, người tung tin xấu hổ xin lỗi, nhưng lại câu hỏi được đặt ra, tại sao một thành viên trong Quốc Hội lại khẳng định như vậy khi biết đó là tin vịt, không đúng sự thật. Tôi cười, rồi nói, thật không may còn có rất nhiều chuyện giả dối vẫn lan truyền trong Quốc Hội. Sau buổi họp, Huma tự kể về bản thân một c