← Quay lại trang sách

17- Nước Mắt Chảy Xuôi

Ở Việt Nam, hầu như ai ai cũng nói muốn đi Mỹ, vì sinh sống dễ dàng, cho Mỹ là nơi tiền rừng bạc bể, đời sống đầy đủ tiện nghi, Mỹ có nhiều cái hay nhất thế giới, được tự do ăn chơi sung sướng.

Trên thế giới biết bao nhiêu người mong mỏi được di cư vào Mỹ, nhập cảnh công khai hay đi lậu, mỗi năm hàng mấy trăm ngàn người Mễ hay Nam Mỹ vượt biên giới trốn lậu vào Mỹ, hàng trăm người Tàu phải trả mỗi người mấy chục ngàn Mỹ kim để vượt biển trong bốn, năm tháng giời trên những con tầu chở hàng cũ kỹ, bị Hải quân Mỹ bắt ngoài khơi Mễ Tây Cơ và bị trả về nước.

Mỗi năm người ta chờ có cuộc rút thăm của Sở Di Trú Hoa Kỳ, trông vào sự may mắn hi hữu được vào nước Mỹ như người trúng số độc đắc, thế mới hiểu được vào đất Mỹ không phải là dễ, còn biết bao thuyền nhân còn đang chờ đợi ở trại tỵ nạn, mong muốn được chấp nhận cho nhập cảnh vào đất Mỹ.

Theo nhận xét chung của một số người, việc được nhập cảnh vào đất Mỹ rất thích hợp cho những người trẻ tuổi có tinh thần cầu tiến, muốn học hỏi và nghiên cứu về kỹ thuật, khoa học tân kỳ cũng như huấn nghệ của Mỹ, vì họ sẽ có phương tiện và được chỉ dậy đến nơi đến chốn và rất tận tình, sự ước muốn học hỏi của giới trẻ này rất chính đáng và đáng khen ngợi.

Từ sau ngày Sàigòn thất thủ năm 1975 đến nay, gần một triệu người Việt Nam đang sinh sống ở đất Mỹ, chúng ta tới xứ này qua các chương trình tị nạn cộng sản, chương trình đoàn tụ gia đình, chương trình Mỹ lai, và hiện nay chương trình H.O. (Humanitarian Operation) cho các tù nhân trại học tập của cộng sản. Đối với các cộng đồng khác ở Hoa Kỳ, cộng đồng Việt Nam đoạt được nhiều thành công nhất trong vấn đề hội nhập vào xã hội Mỹ, kể cả việc giới trẻ thành công tột bực trong ngành học vấn cũng như trên thương trường.

Khi còn ở quê nhà trước đây, qua sách vở, báo chí cũng như được tiếp xúc nhiều với người Mỹ, chúng ta cũng được biết qua về đời sống ở Hoa Kỳ, và không lấy gì làm xa lạ lắm, nhưng trong những năm đầu của cuộc đời tị nạn, biết bao những tin đồn thổi về đời sống của dân tị nạn ở đây làm cho người trong nước quá ư xôn xao, vì những tấm hình chụp một ngôi nhà trông có vẻ hết sức tráng lệ đối với con mắt người Việt ở trong nước, và dân tị nạn khoe mình là chủ nhân, rồi lại cảnh đứng bên cạnh một chiếc xe trông thật láng cóong và bắt mắt, nói rằng xe của tôi đấy.

Người bạn của chúng ta nói đúng sự thật, vì đúng anh ta là chủ nhân của cả nhà lẫn chiếc xe, nhưng có một điều anh ta không biết nói hết là chiếc xe nhà như biệt thự đó còn phải trả tiền hàng tháng trong 15 hay 30 năm nữa, cũng như chiếc xe đẹp không kém xe của Tổng thống Thiệu trước kia, nhưng còn phải trả tiền hàng tháng 3 hay 4 năm nữa.

Ông bà cụ Tham từ trên máy bay bước xuống đã có bao nhiêu người đứng đón, con cháu, họ hàng, bạn hữu xúm xít hân hoan; những con mắt trìu mến nhìn không chớp, những bàn tay nắm lấy, ôm lấy nhau không muốn bỏ, người này hỏi, người kia nói, không kịp trả lời. Những chiếc xe hơi đi đón, chu choa sao đẹp thế! Ngồi dựa vào ghế bọc nhung, bọc nỉ êm ái dễ chịu mát mẻ, nhìn ra ngoài hai bên đường xe chạy ngược xuôi vun vút, nhà cửa đường xả rộng rãi sạch sẽ như lau, cái gì cũng lạ mắt.

Về tới nhà bước vào trong phòng khách, một bình hoa đồ sộ, to đẹp, trên bàn ly tách bày sẵn với các thứ nước ngọt đủ các màu tím, trắng, đỏ, các cụ chưa quen, qua màn giải khát, đi xem nhà, các cụ tấm tắc khen sang trọng quá, đưa tới phòng ngủ dành cho các cụ, chiếc giường nệm trắng mới tinh, rồi màn cửa mầu cửa mầu vàng, tường sơn màu xanh lơ, các con đã dành cho bố mẹ, cái gì cũng mới lạ, các cụ sững sờ nhìn. Một bữa ăn thịnh soạn mừng ngày đoàn tụ có đủ anh em, bà con thân thuộc, bạn hữu ở các nơi xa tụ về, ăn uống, chúc mừng, hàn huyên đủ truyện bên nhà và ở đây, rồi ai nấy giải tán trở về để ngày mai còn đi cầy, đi làm.

Trước khi đón hai cụ tới Mỹ, các con trai gái hội ý thuê sẵn căn chung cư để các cụ ở và chia nhau phụng dưỡng và thăm hỏi mỗi ngày về chiều sau khi đi làm, hai ngày cuối tuần cũng lần lượt thay phiên nhau đưa bố mẹ đi chơi, đi lễ nhà thờ, đi ăn hiệu, đi shopping, muốn mua sắm tùy thích các con trả tiền, nhưng các cụ vẫn kêu buồn.

Mấy tháng sau, người con trai nói không thể góp hơn, ngoài số tiền góp trả tiền nhà, và đề nghị các cụ về ở chung với anh ta, để dành số tiền thuê nhà gửi về. Cụ ông không thèm trả lời lại phán thêm: “Bố cần 5000 Mỹ kim gửi về cho thằng cháu đích tôn cưới vợ.” Cụ gọi điện thoại cho ba cô con gái ở các tiểu bang khác bảo phải gửi tiền về cho cụ: cô thứ nhất gửi về 100 Mỹ kim, nói mới bị thất nghiệp, ông bố chê ít nói: “Đồ bất hiếu, đừng có về nhìn mặt tao”. Cô thứ hai gửi cho bố 500 đồng, ông bố chê ít nói: “Mày đi làm mỗi tháng bao nhiêu mà gửi ít như vậy.” Cô gái thứ ba chưa kịp gửi, nghe tin bố chửi hai chị cũng ớn vì buôn bán ế ẩm, chẳng dư được nhiều, lây đâu mà gửi, rồi cũng bị bố gọi điện thoại nói: “Nữ sinh ngoại tộc là đúng, bố mẹ còn trông mong gì!”

Rồi hàng tháng, ông bố vẫn điện thoại bắt các con góp tiền vì thơ bên nhà gửi sang, con này mua nhà, con kia sửa nhà, ông anh đau, bà em phải vào nhà thương, cháu này cần chiếc Honda, cháu kia thiếu xe Cúp. Cụ không cần biết các con cụ đang lo mất việc lấy gì mà trả bill, các cháu vào đại học, không đủ tiền trả học phí phải đi vay, con trai và con dâu cãi nhau om xòm, gia đình có thể tan vỡ vì các món tiền phải cung ứng cho bố mẹ.

Một câu truyện khác là ông anh phàn nàn với các em, vì gia đình mình không đi được hết, ở nhà còn chị, mấy em đã lớn, tưởng đón được bỏ mẹ sang đây xum họp, đỡ lo cho bố mẹ lúc tuổi già. Bây giờ các cụ kêu buồn, hết nhớ nhà, nhờ các con còn kẹt lại, phàn nàn rầu rĩ hết ngày này sang ngày khác đòi về, anh em phải dè sẻn, dành dụm để có tiền cho bố mẹ về thăm nhà; ở nhà chẳng được bao lâu, hết hạn thông hành, lại phải về Mỹ.

Được mấy tháng các cụ lại đòi về, vậy lấy đâu ra tiền cho các cụ về chơi luôn mãi; mỗi lần về, tiền vé máy bay khứ hồi, lại còn tiền đưa về giúp những người ở nhà, mà đưa ít tiền các cụ giận dỗi, người con nói: “Biết thế này, thì không dám đón bố mẹ sang đây, mà cứ gửi tiền về để các chị em phụng dưỡng bố mẹ, như vậy các cụ tiêu sướng hơn ở Mỹ.”

Còn mấy trường hợp khác, đón được bố mẹ tới xum họp được ít lâu là gia đình người con tan vỡ. Các nhân vật này đã không tiên liệu được rằng: một số người bị kẹt ở lại sống với cộng sản, vì tình trạng thiếu thốn, phải tranh đấu để sống, đã bị nhào nặn từ tâm hồn đến thể chất, cách nghĩ, lời nói khác trước.

Nhiều cụ khi tới đây, mang theo cách sống, nề nếp phong tục như khi ở nhà xưa kia, có cụ tới hôm trước hôm sau đã xem xét hỏi han ngay về chi thu trong gia đình các con, thậm chí còn đòi các con tòng phục như các con khi còn nhỏ, những người con quá hiếu thảo, muốn chiều ý bố mẹ, lại chạm vào quyền tự do của vợ hay chồng, do đó mới một số gia đình có thể đi tới tan vỡ, chờ cho đến lúc các cụ hiểu ra, đã không kịp cứu vãn được hạnh phúc cho gia đình các con.

Một số các cụ thức thời, tính tình dễ dãi, thương con, không muốn phiền các con, các cụ tự động dành công việc gì có thể làm được giúp các con, không đòi hỏi, không nề hà, không phân biệt con dâu, con gái, con trai, con rể, chỉ mong gìn giữ hạnh phúc cho các con là hơn cả.

Các cụ đã ý thức nối tiếp được tinh thần cổ truyền, như xưa các cụ đã dựng vợ gả chồng cho các con xong là các cụ bàn tính về hậu sự. Xã hội mình là xã hội nông nghiệp, sản xuất lúa gạo, ăn tiêu còn dư dả, chỉ biết tậu ruộng, tậu vườn, tùy nhà giầu có, khá giả, các cụ đưa tích sản ra phân chia, quan trọng hơn là phần để lại dưỡng thiệm. Phần hương hỏa được lấy ra 1/20; phần dưỡng thiệm lấy 1/10 của tích sản, còn lại mới chia cho các con, trai hai gái một, nhà đất nơi bố mẹ đang ở về phần con trai.

Khi viết chúc thư, bố mẹ và các con đều ký tên ở dưới, người nào không biết viết thì điểm chỉ, bố mẹ sẽ cất chúc thư này đi, tới khi bố mẹ chết mới chiếu theo chúc thư thi hành việc phân chia, lúc đó các con mới được làm của riêng; cũng có trường hợp tích sản được phân chia trước cho các con nhưng phần dưỡng thiệm và phần hương hỏa, bố hay mẹ còn sống vẫn hưởng dụng; về phần dưỡng thiệm ông hay bà muốn giao cho con hay cháu canh tác lấy hoa lợi phụng dưỡng hay bán đi tùy ý, còn phần hương hỏa sẽ thuộc về người con trai cả rồi sẽ truyền lại cho cháu đích tôn, không ai được quyền bán phần hương hỏa vì phần đó hàng năm được dùng để sinh lợi lấy tiền cúng giỗ và sửa sang phần mộ.

Sỡ dĩ xua kia các cụ để phần dưỡng thiệm lại trước khi chia phần cho các con, vì không muốn phiền đến con phải nuôi dưỡng hay muốn ăn tiêu gì thì tùy ý, con nào khéo chiều hơn, các cụ sẽ ở với. Nhưng ở đất Mỹ này, hiển nhiên là các cụ cũng muốn lo xa, khi tuổi già sức yếu bệnh tật, nếu không phòng xa, phải phiền đến các con, dĩ nhiên các con hiếu thảo và cũng là bổn phận phải phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, nhưng tránh sao khỏi có sự bất đồng ý kiến hay thiếu sót vụng về của nàng dâu, chàng rể, làm cho các cụ đau lòng, chưa kể gặp phải ở với hạng người này mà không có của, thì phải làm lụng, lo dọn dẹp, nấu cơm, coi cháu như người làm không công, đến lúc đau yếu, không còn làm được công việc gì nữa, không hiểu những người con này sẽ đẩy bố mẹ đi đâu?

Cho nên khi các cụ đến ở xứ Mỹ này, phải lo cho đủ giấy tờ, lãnh được tiền già, và có thể sống tự lập không phải nhờ đến con cái.

Đối với các cụ mời tới, tiếng nói chưa biết, chưa hết hạn bảo lãnh, tiền già chưa được lãnh, nếu gặp phải cảnh không nhờ được con cháu thì phải nhẫn nhục cho qua ngày. Ca dao có câu: “Mẹ thương con biển hồ lai láng, con thương mẹ kể tháng kể ngày” và nước mắt chỉ có chảy xuôi, nước mắt chảy ngược thì hiểm lắm thay!