18- Tâm Hồn Đẹp Xưa Và Nay
Nói về sắc đẹp ai cũng thích cũng mê, từ cổ đến kim có biết bao văn sĩ, thi sĩ viết về cái đẹp, làm thơ ca tụng sắc đẹp; những áng văn hay những bài thơ tuyệt bút với chủ đích ca tụng sắc đẹp của người phụ nữ như cụ Nguyễn Du tả về hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành..
Quan niệm về sắc đẹp mỗi người có con mắt thẩm mỹ riêng: đẹp lành mạnh, đẹp ẻo lả, nước da trắng xanh, nâu hồng, bánh mật hơi đen, người cao, thấp, lớn, nhỏ, dáng đi khoan thai, nhanh nhẹn… cộng với sự ăn nói khéo léo, biết chiều chuộng người, đấy chỉ là những sự nhận xét hời hợt bên ngoài.
Hiếm có những người vừa đẹp vừa tài hoa, thực sự mấy ai thoát khỏi câu “Hồng nhan bạc mệnh” như Ngọc Hân công chúa. Quỳnh Như tiểu thư… để lại ngậm ngùi thương tiếc cho những ai nhắc tới.
Trong bất cứ những buổi hội họp đông người nào, khi có người đẹp tới thì tất cả mọi người đều để ý tới, bắt kể già trẻ, nhiều ông, nhất là thanh niên đeo theo người đẹp để làm quen, để được nói chuyện cho như vậy là hân hạnh, để rồi được chiều chuộng, sẵn sàng chờ người đẹp nhờ cậy và sai bảo!
Biết mình đẹp được nhiều người để ý và theo đuổi, nhiều cô lại càng lấy điệu, làm kiêu làm bộ, khó dễ với những anh chàng không có tài nịnh bợ, kém bộ mã bên ngoài, không giầu sang, kém địa vị. Nhiều chàng trai vì quá si mê, cầu cạnh rước được người đẹp về làm vợ, mà không có những nhận xét trước về đức tính của mình để chỉ biết ăn chơi phung phí, ích kỷ, đua đòi và có nhiều người ham mê cờ bạc đến nỗi phá tan gia tài, hết tiền xui chồng làm bậy để lấy tiền đi đánh bạc nữa và đã có trường hợp, người chồng vì quá thất vọng và phẫn uất nên đành tự vẫn.
Những người tính tế nhận thấy cái đẹp phải phát xuất tự tâm hồn ra sắc diện: hồn nhiên, tươi vui, lễ độ, hòa nhã, biết lui tới, biết giúp đỡ người kém mình, thẳng thắn không a dua, xiểm nịnh, không phô trương, chỉ tiêu biết tùy gia phong kiệm.
Ở đời nhân vô thập toàn, những người đẹp về tâm hồn mà trong tứ đức được ba: Công, Ngôn, Hạnh, về Dung có phần kém nhiều hay ít. Buồn thay cho các người này, chẳng may gặp phải người chồng chỉ biết nhìn vẻ đẹp bề ngoài mà quên và coi thường đức tính người vợ.
Phạm lỗi bất trung, nhiều ông chỉ muốn thỏa mãn quyền làm chồng, không ly dị, nhưng coi người vợ không nhan sắc như một công cụ chỉ biết sinh con đẻ cái, lo việc cửa nhà và hầu hạ chồng con; tệ hơn nữa, nhiều ông chồng coi người vợ không xứng đáng đối với mình khi ra khỏi nhà.
Các bà vợ đáng quý này, không phải là không hiểu sự khinh khi của người chồng, họ tự ái không nói ra, không phàn nàn phản kháng tích cực, họ muốn được êm cửa êm nhà, giữ cho con cái hưởng cuộc sống thanh bình trong tuổi ấu thơ, họ nhẫn nại mong người chồng hãy có dịp so sánh nhận ra đức tính của vợ như trường hợp ông Hứa Doãn, thời xưa vâng lời cha mẹ lấy phải người vợ không nhan sắc và có thể gọi là xấu.
Sau khi đậu tiến sĩ, một hôm ông ngồi chơi nhìn bà vợ một lúc, đâm ra bực mình, hất hàm hỏi “kháy” vợ với một giọng đầy bực tức khinh bỉ “Đàn bà có bốn đức, bà có được mấy đức?” Nếu phải người khác bị chạm tự ái, chắc đã xẩy ra to chuyện, nhưng bà vợ vẫn dịu dàng, lể phép trả lời như sau: Thưa lang quân, đàn bà có bốn đức: công, dung, ngôn, hạnh, thiếp nay chỉ kém về dung (nhan sắc) mà thôi. Nhưng, thưa lang quân, thiếp nghe kẻ sĩ có 100 hạnh, dám hỏi lang quân được mấy hạnh?”
Hứa Doãn hết sức ngạc nhiên thấy tài ứng khẩu của vợ, lại càng phục tính điềm đạm của bà, ông hối hận về thái độ bất nhã của mình.
Nhưng đã trót lỡ nên cũng phải đáp: “Kẻ sĩ có trăm hạnh… tôi có đủ cả trăm”. Bà vợ nhìn chồng tủm tỉm cười và trả lời: “Trăm hạnh của kẻ sĩ thì chữ Đức đứng hàng đầu, thiếp thấy lang quân hiếu đức không bằng hiếu sắc, sao lại bảo có đủ cả trăm?”
Hứa Doãn cảm thấy câu nói của vợ có lý, ông cả thẹn và lảng sang chuyện khác. Từ đó ông tìm thấy ở bà vợ mình có nhiều đức tính đẹp.
Khi ông ra làm quan, bà cùng giúp chồng trong công việc trị dân, đến đâu dân tình cũng sợ oai ông nhưng mến đức của bà. Từ đấy tuổi càng cao, ông càng trọng bà như người khách quý vậy.
Ông Tú Xương, một thi sĩ thông minh tột bực, văn hay chữ tốt, chuyên làm thơ văn quốc âm. Tính tình hào phóng, cầm kỳ thi họa ông đều thông thạo cả, nhưng vì tính ngông nghênh, bướng bỉnh nên bao lần đi thi, ông đều bị đánh hỏng nên sống đói nghèo nàn, nhưng nhờ bà vợ hiền nội trợ, giỏi dân, đảm đang, quán xuyến tất cả công việc của chồng. Thi sĩ nhờ đó mà vẫn sống nhàn nhã dù trong cảnh nghèo túng. Cảm thương người vợ hiền, ông đã bộc lộ trong lời thơ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!
Hỏi đời có mấy vợ chồng được như ông bà Hứa Doãn, như hai cụ ông, cụ bà Tú Xương, biết sống đức độ, biết nhường nhịn thương yêu nhau, nhất là biết trọng cái đẹp trong tâm hồn, biết hợp tác, biết đề cao, biết thán phục phẩm giá đức độ của vợ mình, của chồng mình.
Gia đình nào được người cha đáng kính, người mẹ đáng phục như trên thì đây là cả một bài học luân lý, giáo dục thực tế bằng gương sáng của bố mẹ để cho các con noi theo.