← Quay lại trang sách

Chương 1 Lời nguyền của cáo chín đuôi

Tương truyền vào thời Bắc Ngụy, Hiếu Văn Đế Thác Bạt Hoành đã âm thầm thiết lập một đội quân bí mật, đi khắp nơi tìm kiếm mộ lớn, đào lấy đồ tuỳ táng để tiếp tế cho quân đội. Tại Hà Nam, cánh quân đã đào bới ngôi mộ cổ của họ Dương từ thời Hán, sau khi đột nhập vào lăng chính, thấy trong linh cữu có hai người một nam một nữ loã thể ngồi đối diện nhau. Nghe động, cả hai ngoảnh đầu lại, khuôn mặt thanh tú nhưng lại mang cái mõm nhọn hoắt như cáo, phát ra tiếng kêu “chít chít”.

Thủ lĩnh của cánh quân lập tức hạ lệnh bịt kín cửa mộ, đào hốc trên vách rồi chất gỗ dào, cỏ ngải, châm lửa đốt cho khói xông vào trong mộ. Người đàn ông bên trong bỗng nói tiếng người, rằng thiếu phụ kia đang mang thai, xin tha cho một mạng, tất sẽ báo đáp, nếu không tha, sẽ tự chuốc tai ương. Viên thủ lĩnh không chút động lòng, vẫn cho hun khói suốt ba ngày ba đêm, đôi nam nữ trong mộ cũng kêu gào thảm thiết suốt ba ngày ba đêm, cuối cùng thì im bặt.

Sau đó, chuyện đáng sợ đã xảy ra. Trong cánh quân bỗng xuất hiện bệnh dịch, quân lính mắc bệnh khắp người nổi đầy những nốt tím đen, không quá ba ngày, lở loét mà chết. Một đạo sĩ sau khi biết chuyện, đã cho người phá vỡ cánh cửa đá của ngôi mộ, thấy bên trong có hai con hồ ly to bằng người lớn cuộn chặt lấy nhau, trong đó một con bụng căng tròn, đều đã chết từ lâu.

Ở nước Cao Ly cũng có một truyền thuyết đáng sợ, tương truyền hồ ly cứ tu luyện một trăm năm thì mọc ra một cái đuôi, đến khi mọc đủ chín đuôi, chỉ cần ăn gan của người sống, sẽ biến thành người thực sự...

❀ 1 ❀

Tôi cầm một cành cây, cọ xát thật mạnh vào một khúc gỗ khô đét, cho tới khi cái rãnh giữa khúc gỗ từ từ ngả sang màu đen do nhiệt sinh ra từ ma sát, rồi bốc khói trắng, rồi bén cháy vào mảng rêu khô xếp chồng phía trước. Tôi thận trọng tiếp thêm nhúm lá khô đã chuẩn bị sẵn vào ngọn lửa, lửa cháy mạnh dần. Lúc này, tôi mới yên tâm thở phào, cho thêm vài khúc cành cây.

“Nguyệt Bính, tao ra bờ biển kiếm ít muối, mày canh lửa đấy nhé.” Tôi nhặt lấy khúc cây đã buộc sẵn hòn đá mài nhọn trên đầu, định tiện thể đi đâm cá thử xem.

Nguyệt Bính nằm ngửa, gối đầu lên cánh tay, miệng lắt lẻo cọng cỏ, ngước mắt nhìn trời, uể oải ậm ừ một tiếng, tiện tay nhặt thanh củi vứt vào đống lửa.

Tôi cầm cây lao tự chế ra khỏi rừng cây, dọc đường nhặt mấy quả dừa rụng, dùng dây leo xâu lại, buộc lủng lẳng quanh thắt lưng. Đây quả là loài cây thần kỳ của vùng nhiệt đới. Nước có thể giải khát, cùi có thể chống đói, vỏ làm gáo đựng, đúng là cây thần vạn năng. Nếu gặp ngày tốt, trời chịu mưa xuống, sẽ được uống nước ngọt mát lành. Chúng tôi thích ứng rất nhanh với cuộc sống trên hoang đảo. Quả dại lượm về có thể ủ thành rượu.

Trên đảo còn có cây thuốc lá để quấn hút đỡ thèm. Vỏ dừa làm nồi đun rất tốt. Chúng tôi xuống biển mò hàu mò ngao, tách lấy thịt, cho vào trong vỏ dừa, đổ ít nước muối, nêm ít quả dại không rõ tên, số hên còn có thêm vài con cá nhỏ, lấy bùn bịt lại, bỏ xuống hố châm lửa đốt chừng nửa tiếng đồng hồ, bới quả dừa ra đập vỡ, thế là có ngay món ngon thơm nức mũi, không nơi nào có...

Tôi cạo được chút muối trên phiến đá ven bờ, rồi ngồi bên bãi đá nhấp nhô nghỉ ngơi chốc lát, ngắm nhìn mặt biển muôn trùng. Nơi khuất tầm mắt, mặt biển chân trời liền thành một dải. Chốc chốc lại có vài con cá chuồn lao vọt lên khỏi mặt sóng, khiến cho bầy chim biển hoảng sợ bay táo tác. Tôi nhặt một hòn cuội, dồn hết sức ném ra xa. Hòn đá rơi tõm vào lòng biển. Tôi hét lên vài tiếng thật lớn, như muốn tuôn ra bằng hết luồng khí bức bí dồn trong lồng ngực, rồi mới quay người, đi về phía rừng cây.

Trên bãi cát, trải ngay ngắn dòng chữ “SOS” cỡ lớn được xếp bằng thân cây dừa. Tôi dừng bước nhìn, lắc đầu cười buồn bã.

Sau khi tỉnh dậy trên đảo hoang, ngày hôm sau, tôi tìm thấy Nguyệt Bính nằm thõng thượt bất tỉnh trên bãi cát cách đó không xa. May mà chỉ bị kiệt sức vì mất nước. Tôi đổ cho nó vài ngụm nước dừa, nó liền hồi sức dần dần, đến chiều tối thì tỉnh như sáo.

“Ơ Bí Ngô, sao mày chưa đi đầu thai mà còn ăn vạ ở đây? Mày cứ chần chừ, để lỡ cơ hội rồi đầu thai vào thế giới động vật thì tao không chịu trách nhiệm đâu đấy.” Đây là câu nói đầu tiên sau khi Nguyệt Bính mở mắt. Tôi nghe mà vừa muốn khóc lại vừa muốn cười.

Chẳng thể ngờ, chúng tôi đã sống trên đảo hoang này hơn một năm trời. Ban đầu chúng tôi đốt lửa ngoài bãi biển, hai người thay nhau canh, mong rằng sẽ có tàu đi qua để cứu. Lúc đầu Nguyệt Bính rất lạc quan, ngồi trên bãi đá khum tay che mắt ngó nghiêng: “Nhiều tàu thế này, không biết con tàu nào sẽ phát huy tinh thần chủ nghĩa quốc tế đến cứu chúng ta đây.” Tôi cũng cười mà hi vọng theo nó. Chúng tôi đói thì bắt cá, bắt chim, hái quả, hái rau rừng, khát thì uống nước mưa, nước dừa, nước đọng trong ao hồ trên đảo. Đều là thực phẩm tự nhiên hữu cơ, không ô nhiễm, giúp chúng tôi tha hồ sống khoẻ. Cùng lắm là làm Robinson vài năm, đến khi trở lại nhân gian, kiểu gì chúng tôi cũng nổi tiếng khắp thế giới.

Ngày lại ngày trôi qua, chúng tôi lần lần nhận ra rằng, điều đáng sợ nhất không phải là từ bỏ hi vọng, mà là trong lòng Ấn Độ Dương bảy mươi lăm triệu cây số vuông, những hòn đảo như chỗ chúng tôi chí ít cũng vài vạn cái, khả năng tàu thuyền chạy qua phát hiện ra chúng tôi, khác nào tìm thấy hạt cát trên sa mạc.

Hơn một tháng sau, Nguyệt Bính hờ hững nhìn đống lửa lụi dần: “Chắc không về được nữa rồi. Bí Ngô, mày cố mà sống, đừng có nghĩ quẩn mà nhảy xuống biển tự tử, không thì tao biết nói chuyện với ai?”

Tôi nghe mà rầu cả lòng, nhưng rồi chợt nghĩ, sống ở đâu mà chẳng là sống? Hơn một năm qua, chu du ba nước Thái, Nhật, Ấn, trải qua biết bao nhiêu chuyện khó bề tưởng tượng, kết bạn (dù tay Kuroba chưa chắc đã chấp nhận), yêu đương (dù Nguyệt Bính chưa chắc đã chấp nhận), có phải bỏ mạng giữa Ấn Độ Dương cũng chẳng có gì nuối tiếc. Hơn nữa còn có Nguyệt Bính để đấu võ mồm, nói chuyện phiếm giải sầu, sung sướng hơn không biết bao nhiêu lần so với một mình chết mòn trên đảo.

Và thế là, chúng tôi đã sống cách tuyệt với đời suốt một năm ròng rã, may mắn là tuy áo quần bị cành cây cào rách toạc vài chỗ, nhưng chất vải jean khá bền, chưa đến nỗi phải dùng lá cỏ vỏ cây để che thân.

Tôi xốc lại sợi dây treo dừa ngang lưng, đồng xu lại rơi xuống, cắm một nửa xuống cát. Tôi cúi nhặt. Trên mặt đồng xu bóng loáng hiện ra một bộ mặt xa lạ, đầu bù tóc rối.

Ngước nhìn rừng cây trên sườn đồi, tôi bất chợt rùng mình, lắc mạnh đầu cố quên đi những chuyện quái đản. Tôi không thể giải thích đã xảy ra chuyện gì, chỉ biết là vô cùng quái dị, hết sức quái dị, đến nỗi tôi không muốn tin đó là sự thật!

“Tu... tu... tu...” Hình như có tiếng còi rúc từng hồi dài lẫn trong tiếng sóng ì oạp.

Tôi sững sờ! Không dám tin vào tai mình, tôi từ từ quay người lại, xa xa trên mặt biển, xuất hiện một chấm đen lờ mờ. Tàu thuỷ. Tôi chớp mắt thật lực, chỉ sợ hoa mắt nhìn nhầm.

Đúng lúc ấy, Nguyệt Bính hộc tốc chạy như bay từ trong rừng ra, một tay cầm bó đuốc, một tay ôm theo mớ cỏ khô, quăng xuống bờ biển rồi châm lửa đốt. Ngay lập tức, một làn khói đen bốc lên ngùn ngụt.

Con tàu rõ dần, lớn dần, rồi thấp thoáng nhìn thấy có người đang phất cờ hiệu trên đài quan sát. Chúng tôi nhảy cẫng lên, vẫy tay rối rít, hò hét như điên như dại, mặc kệ họ có nghe thấy hay không. Con tàu chạy tới cách đảo chừng hơn năm mươi mét thì dừng lại, từ trên mạn tàu thả xuống một chiếc xuồng cứu sinh. Mấy thuyền viên mặc áo phao đều tay chèo tới.

“Hú hú hú!” Tôi gào lên như khỉ, tung hê quả dừa và xiên cá lên cao, “chúng mình đã được cứu rồi, được cứu rồi!”

“Ngộ nhỡ là tàu cướp biển thì sao?” Nguyệt Bính đưa tay gãi mũi, “mày tém tém một tí được không?”

❀ 2 ❀

Chắc là nhờ mấy năm qua tích được ít nhiều phúc thiện, nên con tàu kia không phải là tàu cướp biển, cũng không phải là tàu buôn lậu, nhưng vẫn khiến chúng tôi phải bất ngờ. Khi những thuyền viên chèo xuồng cứu hộ tiến lên trên đảo, nếu không nghe thấy họ nói câu “seubnida”, tôi cứ ngỡ đã gặp được đồng hương đến từ quê nhà.

Và thế là, chúng tôi đã được đưa lên một con tàu Hàn Quốc.

Vừa lên tàu, viên thuyền phó đã cấp tập đưa chúng tôi vào phòng khám, tiến hành kiểm tra tổng quát toàn thân, tiêm liền mấy mũi. Sau đó, thuyền trưởng cũng tới hỏi han, Nguyệt Bính phản xạ rất nhanh, giải thích là “đoàn thám hiểm đại dương gặp phải bão lớn, bị lật tàu, dạt vào đảo hoang”. Ông thuyền trưởng có vẻ không tin cho lắm, nhưng chắc thấy bộ dạng chúng tôi kiểu gì cũng không giống cướp biển, nên nghiêm nghị nói: “Theo công ước tìm kiếm và cứu nạn hàng hải quốc tế, chúng tôi có nghĩa vụ cứu trợ người gặp nạn trên biển như các anh, và cung cấp các dịch vụ cần thiết như khám chữa bệnh, ăn uống... Nhưng trong vùng biển quốc tế, không thuộc chủ quyền của quốc gia nào, thì tàu của nước nào sẽ được tính là lãnh thổ của nước ấy. Nếu người được cứu hộ có hành vi nguy hiểm, sẽ được coi là phần tử khủng bố đe doạ đến an ninh quốc gia, thuyền trưởng có quyền tống giam đối tượng, sau khi theo tàu về nước, sẽ giao cho chính quyền địa phương xử lý.”

Ông ta tuôn ra một tràng toàn những lời lẽ đao to búa lớn, tôi và Nguyệt Bính càng nghe càng ngơ ngác, không ngờ được cứu rồi mà vẫn nhiêu khê đến vậy, chỉ biết tự nhủ, thôi ở trên tàu cứ dĩ hoà vi quý, lỡ gặp ai không vừa mắt cũng chớ có tuỳ tiện cãi vã, cẩn thận ảnh hưởng đến quan hệ hai nước thì không phải chuyện đùa. Chúng tôi tươi cười cảm ơn thuyền trưởng. Nhưng trước khi trở ra, thuyền trưởng lại mỉm cười nói: “Người cần phải cảm ơn không phải là tôi đâu.”

Tuy một năm qua chúng tôi vẫn sống khoẻ, chẳng thiếu thốn gì, nhưng nhân viên y tế vẫn theo dõi rất kỹ lưỡng, mắt không rời màn hình máy móc. Tôi cũng không tiện nói gì, nằm một lúc, bỗng thấy buồn ngủ ríu mắt, rồi thiếp đi.

Đến khi tỉnh dậy, nhìn qua ô cửa sổ, thấy bên ngoài nắng chiếu rực rỡ, y tá không biết đã đi đâu. Nhìn sang Nguyệt Bính, trông nó cứ như đã thức trắng cả đêm, mắt đỏ sọng đang nhìn ngược lên trần, mặt mũi thẫn thờ.

Đúng lúc ấy, thuyền trưởng dẫn một nhóm người bước vào phòng khám: “Các anh may mắn lắm đấy. Công ty truyền thông và giải trí JK nổi tiếng nhất Hàn Quốc tổ chức chương trình trải nghiệm Ấn Độ Dương kéo dài nửa tháng cho các sinh viên ưu tú tuyển chọn trong cả nước. Trong số họ, sẽ lựa chọn ra những người giàu tố chất ngôi sao nhất để ký hợp đồng đào tạo, sau đó đưa vào làng giải trí. Một cô sinh viên khi dùng kính viễn vọng ngắm biển đã phát hiện ra các anh. Cô ấy mới là người mà các anh phải cảm ơn.” Thuyền trưởng chỉ về phía một cô gái đang đứng ngoài cửa.

Tôi vội vã xuống giường, cùng Nguyệt Bính cúi chào, cảm ơn rối rít.

Kim Hyun Joo cao khoảng mét sáu, hơi mũm mĩm, mắt một mí, bên sống mũi lấm tấm vài nốt tàn nhang, cằm hơi vểnh, không có nét nào giống với những người đẹp Hàn Quốc thường xuất hiện trên truyền hình. Nghe nói sinh viên Hàn Quốc bất kể nam nữ, việc đầu tiên sau khi tốt nghiệp đại học chính là phẫu thuật chỉnh hình. Không chừng hai năm sau gặp lại, cô ấy đã lột xác thành hot girl rồi cũng nên.

Kim Hyun Joo tỏ ra ngượng nghịu, lặp lại câu “không cần cảm ơn” bằng tiếng Anh vài lần rồi đi luôn, có vẻ cô ấy là người thật thà. Thái độ của thuyền trưởng cũng ôn hoà hơn hẳn hôm qua: “Tôi đã liên lạc với máy bay cứu hộ, chắc ngày mai họ sẽ tới, đưa các anh về Hàn Quốc. Đại sứ quán Trung Quốc sẽ thẩm tra lý lịch và phụ trách đưa các anh về nước.”

Tôi mừng thầm trong bụng. May mà lúc sang Ấn Độ, Nguyệt Bính đã nhanh trí dùng chứng minh thư giả, nếu không thì chúng tôi rắc rối to.

Thuyền trưởng dặn thuyền viên sắp xếp phòng ở, chỉ vị trí phòng ăn cho chúng tôi, rồi thuận miệng lẩm bẩm: “Mấy hôm nay không biết có kẻ biến thái nào cứ lén vào nhà tắm lấy trộm đồ lót của nữ sinh, tôi phải đi kiểm tra xem thế nào mới được.”

Tôi định hỏi thăm, nhưng thấy có vẻ bất tiện nên lại thôi. Trước khi đi, thuyền trưởng nói với tôi: “Nếu thấy mệt, các anh có thể đến phòng khám kiểm tra bất cứ lúc nào.” Tôi hơi lấy làm lạ, nhưng rồi lại quên bẵng.

Vào phòng, hai thằng tôi nói dăm ba câu chuyện phiếm, chủ đề loanh quanh chuyện đời, Okawa Yuji, Tsukino, Kuroba, pháo đài cổ Bhangarh Fort và tên của chúng tôi. Khi mới tới đảo hoang, hầu như ngày nào chúng tôi cũng nói những chuyện này, về sau, khi từ bỏ hi vọng trở về, không thằng nào đá động đến nữa. Hôm nay bất ngờ được cứu, những đề tài này tự nhiên lại quay về cho chúng tôi bàn luận rôm rả.

Bàn bạc cả buổi sáng cũng chẳng lần ra manh mối gì, tôi sực nhớ tới câu nói của thuyền trưởng. Nguyệt Bính cũng chịu không hiểu ông ta có ý gì. Lâu lắm không được đắp chăn nằm ngủ trên giường đệm tử tế, chúng tôi khoan khoái khác nào lên thiên đường. Sắp đến bữa trưa nhưng bụng không thấy đói, tôi lại đánh một giấc ngon lành. Đến bữa tối Nguyệt Bính lay mãi, tôi mới bò dậy, loạng choạng rời khỏi phòng tới nhà ăn.

Trong nhà ăn toàn là sinh viên. Họ đang trò chuyện vui vẻ. Có mấy bạn trẻ trông rất nổi rất ngầu, chắc là ứng viên được công ty JK lựa chọn. Câu chuyện của họ, tất nhiên, chỉ xoay quanh các chủ đề phim ảnh, ngôi sao.

Kim Hyun Joo lặng lẽ ngồi trong một góc, vừa ăn vừa rì rầm trò chuyện với một anh chàng, trong hai người khá thân mật, giống như tình nhân. Tôi định tới chào, nhưng Nguyệt Bính lừ mắt ngăn tôi lại.

Nghĩ cũng phải, người ta đang ríu rít thế kia, tôi thò mũi vào làm kỳ đà chắc?

Hẳn là tất cả mọi người trên thuyền đều đã biết đến chúng tôi, mấy anh chàng bảnh choẹ ngất trời kia nhìn chúng tôi bằng ánh mắt thương hại, rồi chỉ chỉ trỏ trỏ bàn tán cứ như xem khỉ trong vườn bách thú. Chúng tôi giả bộ như không nhìn thấy, cắm đầu ăn.

Đồ ăn Hàn Quốc nhiều món cay món muối, nhưng tay nghề của đầu bếp trên tàu rất khá, món ăn nào trông cũng bắt mắt, tuy lạ nhưng rất ngon miệng. Đang cắm cúi ăn, bỗng thấy một cậu chàng rất bảnh bao thời thượng đưa tay chỉ về phía Kim Hyun Joo và anh bạn trai, nói vài câu gì đó, tất cả mọi người đều cười rộ lên.

Cậu bạn kia chau mày, đứng bật dậy, Kim Hyun Joo có vẻ hoảng hốt, giữ tay cậu ta lại rồi lắc đầu. Soái ca kia trông càng thích chí, thủng thẳng tiến lại, móc trong túi ra một tờ giấy bạc, ném xuống bàn.

Đám sinh viên xung quanh càng tỏ ra phấn khích, huýt sáo vỗ tay ầm ĩ. Một cô nàng tóc dài mướt mát tiến lại, níu lấy cánh tay soái ca, ưỡn căng bộ ngực phô phang, cười lên khanh khách.

Soái ca chỉ vào mặt mình, rồi lại chỉ vào mặt Kim Hyun Joo và cậu bạn trai, đoán chừng muốn nói: “Hai đứa bay dựa vào đâu mà lên con tàu này, sao không nhìn lại bộ dạng của mình đi?”

Kim Hyun Joo mặt đỏ bừng, cúi gằm mặt, cố bặm môi như ghìm tiếng khóc. Cậu bạn đứng phắt dậy, nắm đấm siết chặt đến nổi gân. Nhưng soái ca chỉ nhếch mép cười, khoanh tay trước ngực, ra cái bộ khinh khỉnh không thèm chấp. Nhìn cảnh tượng ấy, tôi không kìm được giận, đứng vụt dậy, định cho cái thằng soái ca kia một trận rồi ra sao thì ra.

“Ngồi xuống!” Nguyệt Bính quát khẽ.

Tôi hơi bất ngờ. Thằng bạn Nguyệt Bính của tôi thường ngày luôn tỏ ra bất cần đời, nhưng gặp chuyện bất bằng thì nổi máu nghĩa hiệp nhanh hơn ai hết. Bây giờ lại bảo tôi “ngồi xuống”, chẳng lẽ nó sợ bị tống giam như ông thuyền trưởng đã doạ thật?

“Mẹ kiếp, cùng lắm thì quay lại đảo làm Robinson thôi chứ gì.” Tôi sôi lên sùng sục, “Kim Hyun Joo đã cứu chúng ta đấy.”

Nguyệt Bính chẳng nói chẳng rằng, túm cổ tôi lôi xềnh xệch ra khỏi nhà ăn. Tiếng cười lại rộ lên ồn ào sau lưng chúng tôi.

“Mày sao thế?” Tôi chỉ muốn thoi một đấm vào bản mặt tưng tửng của nó.

“Đời là thế!” Nguyệt Bính đưa tay vịn vào mạn tàu, những đầu ngón tay miết mạnh đến trắng bợt, “ai đẹp thì có quyền!”

Tôi không ngờ Nguyệt Bính lại có thể nói ra câu ấy: “Ý mày là ngoại hình quyết định đúng sai?”

Nguyệt Bính vỗ vào mạn tàu đánh bộp, rồi chỉ vào lồng ngực: “Đúng sai ở đây này! Nhưng Bí Ngô, đàn ông con trai mà không biết nhịn nhục, không biết đương đầu với thử thách, thì làm sao trở thành đàn ông đích thực được? Hôm nay, tao với mày có thể giúp nó, nhưng ngày mai thì sao? Mày có làm người hùng của nó, bảo vệ cho nó cả đời được không? Nếu hôm nay nó không tự giải quyết được chuyện của mình, thì cả đời nó cũng không tự ngóc đầu lên được. Vừa mới thế mà mày đã đòi nhào vào giúp nó, chính là hại nó đấy!”

Một cơn gió biển thổi tới, mang theo vị mặn se se trên môi. Tôi công nhận Nguyệt Bính nói đúng, nhưng trong lòng vẫn có chút bất nhẫn.

“Chỉ cần tự tin, ai cũng có sức mạnh!” Nguyệt Bính nhìn ra biển, “mặt biển phẳng lặng, nhưng khi đã nổi sóng thần, có thể phá huỷ tất cả.”

❀ 3 ❀

Của nhà ăn mở ra, Kim Hyun Joo kéo theo cậu bạn, đi như chạy khỏi nhà ăn, hai mắt đỏ hoe. Cậu bạn áo rách toạc vài chỗ, mắt phải tím bầm, rõ ràng là bị đánh, nhưng dáng đi vẫn rất thẳng, không hề có vẻ chán nản bất lực.

Hai người họ không nhìn chúng tôi mà đi thẳng vào phòng. Tôi nhìn theo họ, trong lòng rất khó chịu. Có lẽ họ nghĩ chúng tôi là những kẻ hèn nhát, thấy chuyện cãi vã là chạy cho xa.

Trước khi bước vào phòng, cậu bạn kia chợt ngoảnh đầu nhìn tôi, nhếch một nụ cười hằn học, vẻ căm phẫn trong ánh mắt khiến tôi rùng mình ớn lạnh.

“Thực ra, vừa nãy tao định can thiệp rồi,” Nguyệt Bính vẫn không ngoảnh lại, “nhưng tao không làm được.”

Tôi vẫn dằn vặt về chuyện vừa rồi, nên không để ý đến câu nói của Nguyệt Bính.

Mặt biển sẫm dần, gió bắt đầu lạnh lẽo. Từng tốp sinh viên rời khỏi khoang tàu, quay về phòng. Tôi đứng dựa mạn tàu, suy nghĩ miên man. Mới hôm qua còn bắt cá ngoài đảo, vậy mà hôm nay đã ở trên con tàu Hàn Quốc sang trọng, đúng là con tạo xoay vần, không ai đoán trước được điều gì.

“Bí Ngô này, mày không cảm thấy thiết kế của con tàu này rất lạ sao?” Nguyệt Bính tựa lưng vào mạn tàu, chỉ lên cabin trên cùng.

“Ừm, mày không nói thì tao cũng không để ý...” Tôi nhìn theo tay Nguyệt Bính chỉ, “mày đa nghi thế này, Tào Tháo cũng phải gọi bằng cụ.”

“Mày ăn nói cho tử tế!” Nguyệt Bính chau mày, đưa tay gãi mũi, “mày đúng là cái dạng vô tâm vô tính không khá lên được.”

Tôi im lặng không đáp. Khi mới đặt chân lên nước Thái, tôi chỉ là một đứa cô nhi, nhưng sau đó, phát hiện ra thân thế sớm đã được an bài, thậm chí ngay cả đến cái tên dùng suốt hai mươi năm cũng không phải là thật, nếu không vô tâm thì tôi có sống được đến hôm nay không?

“Mày giương mắt lên mà nhìn cho kỹ.” Nguyệt Bính đưa ngón tay chỉ từ đầu tàu đến cuối tàu.

Trong cái mặt nó nghiêm túc quá, tôi đành phải trợn mắt lên quan sát kỹ lưỡng. Không nhìn thì thôi, càng nhìn càng thấy rợn người, tôi sững sờ hít ngược một hơi.

Con tàu này phía trước tròn, phía sau vuông, ở giữa nhô lên như mái vòm, thân tàu dưới hẹp trên rộng, tàu có ba tầng, ở giữa mỗi tầng đều vẽ hình ngọn lửa đỏ rực.

Đây rõ ràng là cách cục “âm mộ trấn thi”.

❀ 4 ❀

Nghe nói thời xưa, hầm mộ không chỉ để chôn cất người chết, mà còn dùng để phong ấn những thứ tà quái. Tôi chỉ biết sơ sơ, không thật tường tận, nhưng chí ít cũng hiểu đôi chút về cách cục “âm mộ trấn thi”.

Cách cục mộ táng này xuất phát từ “Kinh Dịch”, tương truyền dùng để phong ấn các loài động vật thành tinh trên núi. Từ xưa tới nay, nhiều loài động vật tu luyện thành tinh sẽ biến thành hình người, trà trộn vào nhân gian, mở cửa hàng trên phố, lợi dụng hơi người qua lại để át đi yêu khí, mong được “độ kiếp”. Thế nhưng khó mà tránh được sự trừng phạt của cõi vô hình. Do vậy, ở những thành cổ đông đúc thi thoảng vẫn xảy ra chuyện “hàng quán nửa đêm bốc cháy, sáng ra thấy chỉ còn lại những thi thể cháy xém”.

Các thuật sĩ có tài vọng khí sẽ tìm kiếm những loài quái vật chưa thể độ kiếp, dùng cách cục “âm mộ trấn thi” để phong ấn chúng trong mộ, chôn cùng người chết, dùng khí canh huyệt, để con cháu đời đời hưởng phúc. Tương truyền, nếu phường trộm mộ gặp phải những ngôi một kiểu này, cần giết ngay một con gà trống lông đen, lấy tiết bôi lên cửa mộ, sau đó thấp chín cây hương rồi dập đầu vái lạy, vì sợ động chạm đến yêu khí.

Tương truyền vào thời Bắc Nguỵ, Hiếu Văn Đế Thác Bạt Hoành đã âm thầm thiết lập một đội quân bí mật, đi khắp nơi tìm kiếm mộ lớn, đào lấy đồ tuỳ táng để tiếp tế cho quân đội. Tại Hà Nam, cánh quân đã đào bới ngôi mộ cổ của họ Dương từ thời Hán, sau khi đột nhập vào lăng chính, thấy trong linh cữu có hai người một nam một nữ loã thể ngồi đối diện nhau. Nghe động, cả hai ngoảnh đầu lại, khuôn mặt thanh tú nhưng lại mang cái mõm nhọn hoắt như cáo, phát ra tiếng kêu “chít chít”.

Thủ lĩnh của cánh quân lập tức hạ lệnh bịt kín của mộ, đào hốc trên vách rồi chất gỗ đào, cỏ ngải, châm lửa đốt cho khói xông vào trong mộ. Người đàn ông bên trong bỗng nói tiếng người, rằng thiếu phụ kia đang mang thai, xin tha cho một mạng, tất sẽ báo đáp, nếu không tha, sẽ tự chuốc tai ương. Viên thủ lĩnh không chút động lòng, vẫn cho hun khói suốt ba ngày ba đêm, đôi nam nữ trong mộ cũng kêu gào thảm thiết suốt ba ngày ba đêm, cuối cùng thì im bặt.

Để phòng ngừa có người loan tin thất thiệt, viên thủ lĩnh đã ra lệnh cấm khẩu, những ai dám hó hé đến chuyện này, giết ngay không tha.

Nhưng sau đó, chuyện đáng sợ đã xảy ra. Trong cánh quân bỗng xuất hiện bệnh dịch, quân lính mắc bệnh khắp người nổi đầy những nốt tím đen, không quá ba ngày, lở loét mà chết. Thủ lĩnh cánh quân vội bẩm báo lên triều đình. Mấy ngày sau, có một người ăn bận theo lối đạo sĩ tìm đến, sau khi biết chuyện, đã cho người phá vỡ cánh cửa đá của ngôi mộ, thấy bên trong có hai con hồ ly to bằng người lớn cuộn chặt lấy nhau, trong đó một con bụng căng tròn, đều đã chết từ lâu.

Đạo sĩ hô lớn một tiếng “xong”, sau đó vung dao đá rạch bụng hồ ly cái, “oe” một tiếng, lôi ra một đứa bé gái máu me bê bết.

Đạo sĩ cởi áo bào, quấn quanh mình đứa bé, nói với đám lính đang đứng chết trân vì kinh hoàng: “Đốt hai con hồ ly này ra tro, sau đó đổ tro vào hũ rượu, lấy quyết minh tử, hoàng tinh, hoa nhuỵ thạch nghiền thành bột, múc rượu trong hũ ra hoà cùng để uống, bệnh dịch sẽ tự khỏi. Chuyện ngày hôm nay, ai dám nói ra ngoài, sẽ bị thối lưỡi.”

Gặp chuyện kinh dị như vậy, quân lính đều sợ mất mật, ai còn dám nói. Mấy hôm sau, dịch được dập. Lúc đến chào từ biệt viên thủ lĩnh, đạo sĩ nói, đứa bé gái kia sinh ra bởi số, nhà cửa cha mẹ bị huỷ, nên nửa đời trước sẽ huỷ hoại đất nước, phò tá cho họ Dương lập nước, nhưng nửa đời sau lại bị người đời phỉ nhổ. Tên lính phá mộ mang họ Lý, đã phá huỷ hai cánh cửa mộ, sau này họ Dương trải qua hai đời sẽ bị họ Lý tiêu diệt, vương triều họ Lý ắt sẽ vì đàn bà mà từ thịnh thành suy. Chuyện này gặp phải, đúng là ý trời, không thể làm trái. Để thuận theo số kiếp, ông sẽ không trở lại triều đình, mà đưa đứa bé vào núi sâu nuôi nấng. Trước khi rời đi, đạo sĩ căn dặn thủ lĩnh dứt khoát phải giữ bí mật. Hãy dâng sớ nói rằng, trong khi chữa bệnh, ông đã bị nhiễm ôn dịch mà chết,

Nào ngờ thủ lĩnh kia là người rất trung thành với hoàng đế Bắc Nguỵ. Sau khi đạo sĩ đi khỏi, liền bẩm báo đầu đuôi mọi chuyện lên triều đình không sót chữ nào.

Đọc xong bản tấu, Thác Bạt Hoành vừa kinh sợ vừa giận dữ. Vì muốn bảo vệ ngai vàng, ông ra lệnh truy bắt và giết chết tất cả đạo sĩ trong nước. Nhưng thiên hạ rộng lớn, tìm được một người trong cả biển người đầu có dễ dàng. Từ đó, Thác Bạt Hoành ra lệnh cả nước “bài Đạo tôn Phật”, khiến Phật giáo Bắc Nguỵ cực kỳ hưng thịnh.

Còn đội quân đào mộ, sau khi thủ lĩnh mật báo lên triều đình, tất cả đều bị thối lưỡi, trở thành “đội quân câm” nổi tiếng trong lịch sử.

Bé gái kia về sau trở thành Hồ thái hậu dâm loạn nổi tiếng thời Bắc Tề. Nửa đời trước là hoàng hậu của Bắc Tề, sau khi mất nước, phải làm kỹ nữ lầu xanh, chết vào đầu thời Tuỳ.

Hoàng đế sáng lập nước triều Tuỳ họ Dương, tên Kiên, chỉ truyền được hai đời thì bị Lý Uyên tiêu diệt, lập nên nhà Đường, lại chuyển sang sùng chuộng Đạo giáo. Nghe nói, tổ tiên của Lý Uyên là người thần bí, cuối thời Bắc Nguỵ chuyển đến Thiểm Tây, giàu có tột bậc, nhưng cả đời chẳng nói câu nào.

❀ 5 ❀

“Nguyệt Bính, chắc chỉ là trùng hợp thôi!” Tôi nghĩ mãi mà không hiểu tại sao một con tàu du lịch Ấn Độ Dương của Hàn Quốc lại có thể cố tình thiết kế theo cách cục “âm mộ trấn thi” như vậy được.

“Tương truyền năm xưa Chu Vũ Vương tiêu diệt nhà Thương, chú của Trụ Vương là Cơ Tử dẫn năm nghìn dân nhà Thương chạy về phía đông tới bán đảo Triều Tiên, mang theo cả văn hoá và lễ nghi của nhà Thương, lập nên Cơ Tử hầu quốc.” Nói đến đây, Nguyệt Bính chợt nhìn chằm chằm vào cabin chếch trái chính giữa tầng hai, rồi lại đưa tay sờ mũi theo thói quen.

Cách cục Âm mộ trấn thi giống như hình chữ Phẩm xoay sang trái một góc chín mươi độ, ngôi mộ ngoài cùng bên trái là mộ chính, cũng là vị trí mà Nguyệt Bính đang quan sát.

“Có lẽ đây là cách cục ‘nhất mục quỷ trấn' cầu bình an giống như con tàu đi Nhật Bản lần trước?”

“Mong là vậy, về nghỉ thôi.” Nguyệt Bính đưa tay day huyệt thái dương, vẻ mệt mỏi. “Có quá nhiều chuyện xảy ra, chắc tao nhạy cảm quá.”

Tôi cũng cảm thấy mệt mỏi: “Không phải chuyện gì cũng ám vào chúng ta đâu. Ngày mai tới Hàn Quốc, nếu mọi chuyện suôn sẻ, chỉ vài ngày nữa là về nước thôi. Mày nói xem, có nên đi Nhật Bản một chuyến không?”

“Đi chứ, cũng một năm rồi còn gì. Kuroba thì không nói, lỡ Tsukino có chuyện gì, chắc mày khó sống nhỉ?” Nguyệt Bính nhướng mày, cười tít mắt.

Một năm dằng dặc trên đảo hoang, Nguyệt Bính ngày càng ít nói, về sau, hầu như chỉ còn một mình tôi lảm nhảm, còn nó im lặng lắng nghe. Lâu lắm mới thấy nó giở giọng trêu chọc, tôi thở phào nhẹ nhõm. Cho dù có gặp phải chuyện gì, còn cười được là tốt rồi.

Tôi cũng đưa lại vài câu. Bỗng nhiên, tôi loáng thoáng nghe thấy có tiếng kêu “chít chít”.

Tiếng kêu rất yếu, cảm tưởng như ở rất xa, nhưng dường như lại ngay sát bên tai, giống như tiếng rên rỉ của con thú bị sập bẫy.

Tôi im bặt, dòng tai nghe ngóng, nhưng lại chẳng thấy gì nữa.

“Nguyệt Bính, mày có nghe thấy gì không?”

Nguyệt Bính chẳng buồn ngoảnh đầu: “Chỉ nghe thấy tiếng mày lải nhải thôi.”

Tôi thầm nghĩ, chẳng lẽ mình nghe nhầm? Nếu thực sự có tiếng động, chắc chắn Nguyệt Bính còn phản ứng nhanh hơn cả tôi. Chúng tôi đi về tới trước cửa phòng, Nguyệt Bính chợt lên tiếng: “Tao để quên áo khoác trên boong, mày vào trước đi, tao lên lấy rồi về ngay.”

Tôi gật đầu, đi vào phòng, trèo lên giường nằm, đang định chợp mắt một lát, tiếng “chít chít” quái lạ lại vang lên bên tai.

Phòng chúng tôi trên tầng ba, còn tiếng rên rỉ kia hình như từ dưới tầng hai vọng lên. Lần này, tôi nghe rất rõ, cảm giác tiếng kêu nghe rất quen thuộc. Phải rồi, khi bị bầy cáo tấn công trên núi Fuji Nhật Bản, tôi đã nghe thấy chúng phát ra tiếng kêu này!

Tôi ngồi bật dậy, lúc này mới sực nhớ ra, Nguyệt Bính đâu có cái áo khoác nào?

Trên con tàu này, chắc chắn là có thứ gì quái lạ mà tôi không biết!

Lại liên tưởng đến cách cục âm mộ trấn thi của con tàu, tôi sởn gai ốc. Chẳng lẽ đây là con tàu mộ khổng lồ, trấn giữ một con hồ ly thành tinh? Còn những người trên tàu, đều sẽ thành vật hiến tế:

❀ 6 ❀

Không kịp nghĩ ngợi nhiều, tôi cắm đầu cắm cổ lao vội ra ngoài, và nghe thấy âm thanh quái quỷ kia vọng ra từ phòng bên cạnh. Tôi nghiến răng, bất chấp tất cả, đạp cửa đánh “uỳnh”, xông thẳng vào trong. Một cảnh tượng ghê rợn lập tức bày ra trước mắt, khiến tôi suýt nôn oẹ.

Trong phòng nồng nặc mùi xác thối. Trong góc phòng, có một anh chàng mặc đồng phục sinh viên đang ngồi thu lu trước một cái xác con gái trương phình.

Nghe thấy tiếng động, cậu ta chậm chạp quay người lại, cứng nhắc như một con rối, đôi mắt xám trắng không có con ngươi đờ đẫn xoay chuyển, hướng về phía tôi, rồi thình lình rú lên những âm thanh khó hiểu, hụp xuống bên cái xác, há miệng cắn thẳng vào đầu.

Tôi đầu óc mụ mị, không còn có thể phản ứng, chỉ biết loạng choạng lùi lại, tay quờ quạng với lấy tay nắm cửa, lôi lại thật mạnh, hai chân bủn rủn, cả người ngã phịch về phía sau. Mùi xác thối vẫn sặc sụa trong mũi. Tôi ba hồn bảy vía bay đâu hết sạch, dạ dày quặn lên từng hồi, chỉ kịp quay người sang một bên rồi oẹ lên liên hồi.

“Anh sao thế? Không khoẻ à?” Trong hành lang vọng lại tiếng bước chân dồn dập, rồi giọng nói sang sảng của ông thuyền trưởng từ xa vọng lại.

Tôi đưa bàn tay run bần bật lên quệt miệng, không nói nổi một lời, ngẩng đầu lên nhìn, chợt giật bắn mình, đầu óc tê dại như bị điện giật.

“Người” đứng trước mặt tôi, vận trang phục thuyền trưởng, nhưng bên dưới vành mũ lại nhô ra bộ mặt cáo nhọn hoắt!

“Anh bị say tàu đấy à?” Con cáo cúi xuống nhìn tôi, cái đuôi bông xù thò ra từ thắt lưng, ngoe nguẩy qua lại, như quét vào mũi tôi đến nơi, “sao anh có một mình thế?”

Tôi toàn thân lạnh toát, hai hàm răng va vào nhau lập cập, mãi mới lắp bắp được mấy câu: “Bạn tôi vừa lên boong lấy áo khoác rồi.” Tôi chỉ về phía cầu thang, “xin lỗi, tôi bị say tàu, tôi sẽ dọn ngay.”

“Ồ, thế thì tôi không gặp anh ấy.” Người mặt cáo tiến lại phía tôi.

Tôi dịch mông lùi lại theo bản năng, nhưng lưng đã va phải thành tàu, hơi thép lạnh khiến tôi rùng mình. Người mặt cáo ghé sát vào mặt tôi, cái lưỡi thè lè, mùi cáo hôi rình khiến tôi suýt ngất. “Sao trông anh lại sợ hãi thế? Tôi đến tìm anh, cũng là vì những chuyện kỳ quái đang xảy ra. Lẽ ra không nên nói, nhưng mà mọi chuyện ly kỳ quá. Trong lúc chờ bạn anh quay lại, tôi sẽ kể cho anh nghe.”

Chẳng hiểu sao, nhìn mặt người cáo, tôi có cảm giác ông ta không có ý đồ xấu. Tôi bỗng thấy bình tĩnh lạ thường, nỗi sợ hãi dần tan biến. Trong tôi chỉ còn lại nghi ngờ. Trong căn phòng khủng khiếp kia đã xảy ra chuyện gì? Thuyền trưởng có biết ông ta đang mang lốt cáo không? Tại sao ông ta lại muốn kể chuyện cho tôi nghe?

Tôi cố rời mắt khỏi khuôn mặt cáo khổng lồ: “Vậy thì mời ông vào phòng, mong rằng tôi có thể giúp ông gì đó.”

Con cáo đưa cẳng chân lông lá vỗ vỗ vào vai tôi, nhếch một nụ cười rộng ngoác đến mang tai, để lộ hàm răng nhọn hoắt đầy dãi dớt. Tôi gắng gượng vịn mạn tàu đứng dậy, bước về phòng mà đầu óc không ngớt quay cuồng. Lẽ nào ông ta đã bị trúng ngải, giống như ngải sói?

Mặt trời là dương, mặt trăng là âm, đêm trăng tròn là thời điểm âm khí cực thịnh, nên những thứ không sạch sẽ thường xuất hiện vào đêm trăng tròn. Người yếu bóng vía, vào đêm trăng tròn đi ngoài đường dễ nhìn thấy những cái bóng chập chờn, nghe thấy những âm thanh kỳ quái, rồi bị yêu tà ám vào mình. Những người ấy sau khi về nhà tuyệt đối không được tắm nước nóng, nếu không khí huyệt giãn nở, những thứ âm tà sẽ xâm nhập cơ thể, nhẹ thì sinh bệnh, nặng thì trúng tà. Người xưa gọi hiện tượng này là bị ma bắt hồn, phải có người thân nửa đêm chạy đi gọi hồn mới chữa được. Nghĩ là vậy, tôi vội nhìn ra ngoài cửa sổ, xem hôm nay có phải là đêm trăng tròn hay không.

Tôi chợt nhìn thấy, trên cánh cửa sổ kính, phản chiếu lờ mờ cái bóng của một con cáo.

Chính là tôi!

“Á!” Tôi kinh hoàng tột độ, hai tay ôm chặt lấy đầu, nhưng lại nhận thấy hai tay đã biến thành hai cái cẳng cáo đầy lông lá.

“Chẳng lẽ anh không nhận ra anh đã biến thành cáo sao?” Người cáo ngồi xuống giường của Nguyệt Bính, “hôm qua ở trong phòng khám, lúc ngủ say, anh đã biến một lần rồi.”

Câu nói của thuyền trưởng người cáo khiến tôi sực nhớ ra, đây không phải là ngải, mà là một loại “hình chú”!

Thời xưa, trong một số đoàn tạp kỹ, giống như đoàn xiếc ngày nay, thường có những phương sĩ giống như nhà ảo thuật, biểu diễn màn “biến người”. Họ chọn ra một khán giả, cho chui vào trong một cái hòm rỗng màu mè, phương sĩ niệm vài câu thần chú, làm ra vài động tác bí hiểm rồi mở hòm, người bên trong đã biến mất, thế chỗ cho họ là con thỏ hoặc chó. Khán giả reo hò ầm ĩ, nhưng lại không biết được chân tướng rợn người: con vật trong hòm chính là khán giả khi nãy hoá thành.

Sau đó, những con vật này sẽ được đoàn tạp kỹ giữ lại nuôi. Chúng rất hiền, nghe lời, không hung dữ, biết diễn trò rất thông minh. Những hoa văn ngoằn ngoèo trên chiếc hòm diễn trò không phải là để cho đẹp, mà là một loại bùa chú, để làm “hình chú” biến người thành vật.

Tôi lại nghĩ đến hoa văn trên tàu. Lẽ nào con tàu này chính là một công cụ hình chú khổng lồ? Những hoa văn đó chính là bùa chú?

Thuyền trưởng người cáo móc bao thuốc trong túi ra, đôi chân cáo vụng về không lấy nổi điếu thuốc, ông ta bực bội quẳng luôn bao thuốc đi.

Nhìn cảnh ấy, tôi không nhịn nổi liền phì cười, nhưng tiếng cười bật ra khỏi miệng lại thành những tiếng “chít chít”. Tôi nghe mà rụng rời tay chân, nhưng sau đó, lại tự nhủ, nếu đúng là con tàu bị yểm hình tà thì toàn bộ người trên tàu đều đã biến thành cáo cả, nước lụt thì lút cả làng, có gì đáng sợ nữa? Tôi lại nghĩ đến cảnh Nguyệt Bính cũng hoá cáo như tôi, đang chạy lăng xăng trên boong tàu, chợt cảm thấy thật tức cười.

“Ở quê hương tôi có một truyền thuyết về hồ ly biến thành người.”

❀ 7 ❀

Ở vương triều Go Ryeo xưa kia, ngư dân Jinju sống ở vùng duyên hải sớm ngày ra khơi đánh cá, chiều về thu lưới, có được bao nhiêu phải mang nộp thuế cho quan phủ, chỉ còn vài con cá mang về. Đến bữa tối, cả làng chài sực nức hương vị các món ăn từ cá.

Lee Bo ngồi trước cổng nhà hút thuốc lá, nheo nheo mắt nhìn làn khói bay trên mái bếp. Đến tận lúc tối mịt, Lee Bo mới dụi tẩu thuốc vào đế giày, thở hắt ra một hơi rồi bước vào sân.

Mấy năm trước, Lee Bo cùng vợ ra biển đánh cá, gặp một trận bão lớn, vợ anh ngộ nạn, anh bám víu vào tấm ván gỗ, bập bềnh trên biển suốt mấy ngày, khi được các bạn ngư dân cứu lên bờ, đôi chân đã trắng bệch và sưng vù, ấn nhẹ là lõm.

Sau cái ngày ấy, Lee Bo không đi biển nữa, may sao nhà Lee Bo còn nghề làm muối gia truyền. Quan phủ quản lý muối rất nghiêm ngặt, không cho người dân được tự ý buôn bán muối, nếu bị phát hiện, nhẹ thì tống giam, nặng thì chém đầu. Trong nhà ngư dân thường chỉ phơi một ít để dùng hàng ngày, quân lính thu thuế của ngư dân cũng mắt nhắm mắt mở cho qua, coi như không thấy.

Lee Bo rất thạo nghề làm muối, muối anh làm, hạt đều tăm tắp, trắng muốt, sáng lấp lánh, dùng để nêm nếm, món ăn thơm ngon đậm đà hơn hẳn. Rất nhiều hàng quán trong thành Jinju đều nghe danh tìm tới hỏi mua. Nhưng Lee Bo có một nguyên tắc rất lạ lùng, đó là mỗi tháng chỉ bán một cân muối, vì hiếm hoi nên giá bán cũng rất cao. Lúc bấy giờ, nửa cân muối có thể bán được năm trăm tiền Cao Ly thông bảo, bằng số tiền ngư dân thức khuya dậy sớm đi biển đánh cá ba tháng trời. Dần dà, gia cảnh nhà họ Li ngày càng sung túc, mai mối bắt đầu qua lại dập dìu, nhưng Lee Bo chỉ chăm chú vào bể nước mặn ở sân sau, chẳng buồn ngó ngàng.

Lâu dần, không còn ai tìm đến nhà mai mối nữa. Dân làng nói rằng, từ khi vợ gặp nạn, Lee Bo thề không tái giá. Có người muốn học nghề làm muối của Lee Bo nên mang lễ vật tươm tất đến bái sư, nhưng đều bị xua đuổi.

Dân làng bắt đầu chì chiết Lee Bo, năm xưa gặp nạn đói lang thang tới đây, lả đi sắp chết, được dân làng cưu mang, cho ở lại, còn giúp dựng nhà cưới vợ. Nay đã không tái giá cũng không nhận học trò, ơn cứu nạn cũng không biết đường báo đáp, chắc muốn để tay nghề thất truyền mới hả dạ. Từ đó, dân làng coi như không có Lee Bo, chẳng ai buồn hỏi han gì đến anh nữa.

Lee Bo vẫn như không biết, sáng nào cũng quẩy thùng ra biển múc nước đem về, chiều thì lúi húi ở sân sau, chỉ đến bữa tối mới ngồi ngoài cổng nghỉ ngơi, hút thuốc.

Cho đến một ngày, Lee Bo cũng gùi muối ra khỏi làng, bảy ngày sau, anh ẵm về một đứa bé gái.

Đây quả là một chuyện ầm ĩ! Nước Go Ryeo mới thống nhất chưa lâu, chiến tranh loạn lạc triền miên, dân cư thưa thớt, nên buôn bán người là tội rất lớn. Pak Jeong An luôn ghen tị với gia tài của Lee Bo, ngay đêm hôm đó đã bẩm lên quan phủ, Lee Bo bị bắt tới công đường, một mực khẳng định đứa bé là con của mình, nhưng nhất quyết không nói mẹ nó là ai. Quan phủ cho nhỏ máu vào chậu nước để thử, kết quả hai giọt máu hoà lẫn vào nhau, nên đành phải thả anh ra.

Chuyện lan đi trong làng, người ta thêu dệt đủ điều. Lee Bo cũng thấy để dân làng thù hằn sẽ bất lợi cho mình và con gái, nên thi thoảng lại bỏ ra ít tiền giúp đỡ người nghèo trong làng. Người dân thấy vậy, dần không bàn tán gì nữa, mọi chuyện cũng từ từ lắng xuống.

Mười ba năm sau, đứa bé gái năm xưa đã ngấp nghé tuổi thiếu nữ, mắt sáng môi đỏ, trông cũng hao hao giống Lee Bo và người vợ quá cố, cả ngày nói cười vui vẻ, không biết buồn là gì, dân làng ai cũng quý mến. Go Ryeo thời đó, đàn bà không được mang tên, khi lấy chồng mới đặt họ của chồng trước họ của mình, nhưng vì cô con gái của Lee Bo quá đáng yêu, nên dân làng đặt cho cô bé cái tên Lee Cheom A, nghĩa là cô bé ngọt ngào.

Mấy năm nay, Lee Bo hầu như không ra khỏi cửa, những việc như lấy nước, bán muối, mua sắm đồ dùng... đều giao cả cho Lee Cheom A. Ngày ngày, ông lặng lẽ làm muối ở sân sau. Thi thoảng dân làng hỏi đến, Lee Cheom A chớp chớp đôi mắt sáng trong, nói: “Cha cháu dựng lều sân sau, bảo là để làm ra những hạt muối ngon nhất.”

Đến tết Thanh minh, theo tục lệ Go Ryeo, trưởng làng đi phát rượu cho từng nhà. Tối hôm đó dân làng cùng uống say sưa, tới rạng sáng đem đồ tế ra biển cúng vong hồn những người gặp nạn đắm tàu. Khi đi ngang qua nhà Lee Bo, có người nhìn thấy trên tường nhà vẽ một ký hiệu màu đỏ rất lạ. Một người dân tò mò lại gần xem, ngửi thấy mùi máu tanh nồng.

Người dân tụ lại đông nghịt bên ngoài bàn tán, nhưng trong nhà vẫn im ắng, không có động tĩnh gì.

Dân làng nghĩ đến chuyện quan phủ vừa xuống công văn, thông báo có cường đạo đang trốn ở Jinju để dân chúng cảnh giác. Lẽ nào nhà Lee Bo đã bị bọn cường đạo xông vào cướp của giết người?

Trưởng làng nghe tin chạy tới, nhìn thấy ký hiệu màu đỏ thì mặt mày thất sắc, vội gọi mấy thanh niên khoẻ mạnh đạp cửa xông vào.

Đúng lúc này, Lee Bo từ sân sau hộc tốc chạy ra, cẩn thận khoá chặt cánh cửa dẫn ra sân, chau mày trách móc mọi người sao lại phá cửa nhà mình.

Trưởng làng kể lại đầu đuôi mọi chuyện. Lee Bo nhìn ký hiệu trên bức tường, càng thêm giận dữ, quát lên: “Ai đã làm ra chuyện này?”

Trưởng làng không đáp, sải bước đi quanh sân, hỏi: “Lee Cheom A đâu rồi?”

Lee Bo tỏ ra lúng túng, lí nhí nói: “Nó theo tôi ra sân sau học làm muối. Tôi già rồi, cũng cần có người nối nghiệp.”

Trưởng làng nhìn về phía sân sau, Lee Bo vội bước sang, chắn mất tầm nhìn của ông. Đúng lúc này, một người dân hốt hoảng chạy lại, đưa tay chỉ về phía nhà Pak Jeong An, chưa kịp nói lời nào đã ngã vật xuống đất.

Khi dân làng kéo đến nhà Pak Jeong An, thì thấy trên tường nhà ông ta vẽ chi chít những ký hiệu màu đỏ máu giống như trên tường nhà Lee Bo. Cửa nhà mở toang, cả nhà Pak Jeong An năm người nằm ngổn ngang ngoài sân, đều đã chết trong vũng máu tự bao giờ. Bên vũng máu khô còn in rõ mấy dấu chân động vật rất lớn. Bụng của năm người đều bị mổ phanh, cùng thiếu mất lá gan.

“Cáo chín đuôi xuất hiện rồi!” Trưởng làng run lên lẩy bẩy.

Vừa nghe đến ba chữ “cáo chín đuôi”, dân làng đều kinh hoảng, ào một cái, đám đông chạy túa ra như ong vỡ tổ, ai về nhà nấy trốn biệt.

Số là ở Go Ryeo có một truyền thuyết đáng sợ, đồn rằng loài cáo cứ tu luyện một trăm năm sẽ mọc ra một cái đuôi, khi mọc đủ chín cái đuôi, chỉ cần ăn gan của người sống sẽ biến thành người thật. Cứ sau mười ba năm, thời điểm “độ kiếp”, người do cáo chín đuôi biến thành sẽ hiện nguyên hình. Sau khi biến lại thành người, cáo chín đuôi sẽ quên hết mọi chuyện ở kiếp trước, trước khi biến thành người, cáo chín đuôi sẽ lấy máu người viết ra tên tuổi và thân thế của nó khi hiện hình người trên trần gian bằng “văn tự hồ”. Và thứ “văn tự hồ” này, chỉ có pháp sư Saman sống trên núi cao mới đọc hiểu được.

Trưởng làng kêu gọi hơn một canh giờ, mới có mấy người dân bạo gan nhất chịu ra khỏi nhà, một người hỏi: “Tại sao trên tường nhà Lee Bo cũng xuất hiện văn tự hồ nhưng vẫn bình an vô sự?”

Trưởng làng bàng hoàng: “Lẽ nào cáo chín đuôi đã ăn thịt cha con Lee Bo rồi biến thành họ rồi? Hoặc cha con Lee Bo chính là cáo chín đuôi, phải ăn gan người sống mới có thể tiếp tục giữ nguyên hình người?”

Càng nghĩ, ông càng nghi ngờ về lai lịch của Lee Bo và Lee Cheom A. Mọi người lại hò nhau chạy tới nhà Lee Bo, nhưng nhà cửa vắng tanh vắng ngắt. Phá cửa sân sau chạy vào, chỉ thấy bể muối đầy ăm ắp, không tìm thấy cha con Lee Bo đâu!

Trưởng làng nghĩ một lát rồi ra lệnh, không ai được phép đồn đại chuyện này ra ngoài, bởi theo thông lệ của Go Ryeo, nếu để quan phủ biết được, toàn bộ dân làng sẽ bị giết sạch rồi đem xác đi thiêu huỷ để diệt trừ hậu hoạ.

Để giải hoạ, trưởng làng hô hào dân làng gom góp tiền của, đưa cho một người đáng tin cậy đi mời pháp sư Saman. Từ đó, khắp làng chìm trong không khí hoang mang, chỗ nào cũng thấy bôi đầy huyết gà, cổng nhà nào cũng châm đuốc ngải, nghe nói cáo chín đuôi kỵ nhất là hai thứ này.

Hơn nửa tháng trôi qua, người đi tìm pháp sư Saman đã trở về, dẫn theo một thiếu niên tướng mạo bình thường, áo quần rách rưới. Có lẽ bởi thiếu niên không có vẻ gì giống như pháp sư Saman trong tưởng tượng, nên dân làng thất vọng ra mặt. May sao trưởng làng là người hiểu biết, vẫn kính cẩn tiếp đãi, mời thiếu niên nghỉ ngơi dùng bữa. Thiếu niên xua tay từ chối, rồi đi thẳng về phía nhà Pak Jeong An, nhìn vào “văn tự hồ” trên tường, rồi hỏi: “Trong làng có ai tên Kim Hwan Yeong không?”

Dân làng ngơ ngác nhìn nhau. Trong làng nào có ai tên là Kim Hwan Yeong?

“Đó là một người con gái sống trong làng này.” Thiếu niên lấy ra một chiếc mặt nạ ác quỷ màu đỏ, đeo lên mặt, “nhà Lee Bo ở đâu? Mau dẫn ta tới đó.”

Thấy thiếu niên có vẻ bản lĩnh cao cường, dân làng cũng bạo dạn hơn hẳn, bèn dẫn đường cho thiếu niên tới nơi. Đọc xong dòng chữ trên tường, thiếu niên tháo mặt nạ, nghiêm mặt nói: “Lee Bo và con gái hắn đều là cáo chín đuôi, để vượt qua thiên kiếp mười ba năm một lần, cần phải ăn gan người. Người con gái đổi tên thành Kim Hwan Yeong, còn Lee Bo đổi thành Kim Taek Roe, đã chạy trốn tới Pyeong Yang rồi.”

Dân làng mắt tròn mắt dẹt, có vẻ như không tin cho lắm. Thiếu niên bước vào trong nhà, thành thục như đã quen đường đi nước bước, lúc trở ra, trên tay cầm hai tấm da cáo một to một nhỏ: “Đây là bộ da mà cáo chín đuôi đã biến thành người bỏ lại. Đêm nay ta sẽ ở đây để trừ bỏ nghiệp chướng mà yêu khí hồ ly lưu lại.”

Đến lúc này, dân làng mới thực sự tin những lời nói của thiếu niên. Nghĩ đến chuyện sống sát vách với người hàng xóm là cáo chín đuôi suốt bao nhiêu năm qua, người dân không khỏi sởn gai ốc, nhưng cũng cảm thấy nuối tiếc, vì nghe nói con người ăn được gan của các chín đuôi sẽ có thể kéo dài tuổi thọ, gặp nhiều may mắn.

Trưởng làng muốn bày tiệc cảm ơn, nhưng thiếu niên lại từ chối: “Cầu phúc diệt hoạ cho người là sứ mệnh của pháp sư Saman, nếu nhận lộc sẽ giảm mất vận khí. Ta có mang sẵn lương khô, không phải bận tâm. Lễ tiêu trừ nghiệp chướng tối nay vô cùng quan trọng, mong chư vị chớ có quấy quả, bằng không, cả làng sẽ gặp tai ương.”

Lúc này, trời đã nhập nhoạng, dân làng cũng không dám nán lại, lục tục ai về nhà nấy.

Sau khi mọi người đi khỏi, thiếu niên mới nhếch mép cười khẩy: “Tại sao loài người lại chỉ tin vào mắt nhìn kia chứ?”

❀ 9 ❀

Đêm ấy, dân làng phải sống trong cảnh phập phồng lo lắng hơn nửa tháng qua mới được ngủ một giấc yên lành, chỉ có nhà trưởng làng là chong đèn suốt đêm. Trưởng làng ngồi trước bàn, tay cầm chén rượu thẫn thờ. Ông cứ cảm thấy có điều bất an, như thể thiếu niên kia đang cố tình giấu giếm gì đó. Vả lại, cái tên Kim Hwan Yeong, dường như ông đã từng nghe thấy ở đâu đó, nhưng nghĩ mãi không ra. Mấy lần ông định tới nhà Lee Bo nhìn trộm xem có chuyện gì, nhưng rồi lại thôi vì e sợ sẽ phá hỏng pháp thuật của Saman.

Chốc lát, ông đã uống hết hơn nửa cút rượu, toàn thân nóng bừng. Đang định mở cửa sổ cho mát, bỗng nghe ngoài sân có tiếng sột soạt vọng vào. Ngọn nến thình lình tắt phụt, ánh trăng hắt qua khe cửa, rọi thành vệt dài dưới sàn nhà, trong bóng trăng, ông nhìn thấy có hai cánh tay kỳ hình dị dạng đang bám lấy cửa sổ, vươn lên phía trên, như muốn đẩy cánh cửa ra. Tiếp đến là hai cái tai nhọn hoắt, cái đầu bờm xờm lông lá, cọ vào giấy dán cửa sổ, có tiếng kêu “chít chít” vọng vào.

Trưởng làng kinh hãi buột kêu lên một tiếng: rõ ràng là một người cáo đang đứng ngoài cửa sổ!

“Trưởng làng... trưởng làng...”

Trưởng làng nhớ rõ dân gian có nói, nửa đêm nếu nghe thấy ai gọi tên mình, tuyệt đối không nên đáp lời, nếu không, sẽ bị tà ma đánh cắp linh hồn.

“Trưởng làng, tôi đây.” Cánh cửa sổ bị xô đẩy, cọ vào then cửa cọt kẹt. Người cáo đứng ngoài cửa sổ, vẫy tay với ông.

“Ngươi... ngươi là ai?” Trưởng làng hai gối mềm nhũn, quỳ sụp xuống đất, “xin hãy tha cho tôi.”

“Tha cho ông ư? Nhưng tôi chết oan uổng quá.” Người cáo lách qua khe cửa, trèo vào trong nhà, mở trừng đôi mắt xám ngoét không còn sinh khí, “chỉ vì muốn sống thêm vài năm nữa mà ông đã giết chết cả nhà tôi, phải không?”

“Ngươi nói gì? Ta không hiểu.” Trưởng làng dập đầu lia lịa, trán rớm máu.

“Cáo chín đuôi ăn gan người sẽ biến thành người, người ăn gan cáo chín đuôi sẽ được kéo dài tuổi thọ. Ông đã giết cả nhà tôi để ăn gan của chúng tôi.” Người cáo đưa tay vạch bụng, để lộ khoang bụng mổ phanh, sặc mùi máu tanh nồng. “Gan của tôi... có ngon không?”

Người cáo lừ lừ bước lại gần, ruột gan tràn ra khỏi bụng, lủng lẳng như những quả cà.

Trưởng làng bỗng sực nhớ ra, buột miệng kêu lên thất thanh: “Ngươi... ngươi là Pak Jeong An?”

Người cáo cười khằng khặc: “Kim Hwan Yeong, tại sao ông biết tôi là cáo chín đuôi?”

“Tôi là Kim Hwan Yeong?” Trưởng làng ngẩng mặt, ngỡ ngàng hỏi, máu ứa ra từ trên trán, chảy ngoằn ngoèo xuống sống mũi.

Người cáo vẫy đuôi: “Đúng là ông đã quên hết rồi. Vậy cũng tốt, biết sẽ càng đau khổ hơn.”

Trưởng làng bỗng thấy hoa mắt, trong tay người cáo hiện ra một tấm phướn vẽ đầy những ký hiệu màu đỏ, miệng lầm rầm như niệm chú. Mảnh phướn từ từ bay về phía trưởng làng, bọc kín lấy đầu ông ta, thít lại mỗi lúc một chặt. Trưởng làng lăn lộn dưới đất, gào rú thảm thiết, đầu bị thít đến biến dạng, thành hình quả trám. Người cáo niệm chú mỗi lúc một nhanh, mảnh phướn thít lại càng chặt, đầu của trường làng đã biến thành hình hồ lô.

“Bụp!” Trên đỉnh đầu ông ta nổi lên một cái u rất lớn, nháy mắt đã teo tóp lại, nước từ trong đó ứa ra, thấm vào mảnh phướn đỏ trắng lẫn lộn.

Trưởng làng hai chân co giật thêm mấy cái rồi bất động. Người cáo liếm môi, hai tay đưa vòng ra sau gáy giật mạnh, xé toạc tấm da cáo, để lộ nguyên hình.

Chính là pháp sư Saman!

Saman lấy từ trong tay nải đeo chéo sau lưng ra một cái hũ sành, thận trọng cậy nắp, lấy ít bột màu trắng rắc lên xác chết. Khói bốc đen đặc, cái xác phình lên như bị thổi hơi, chốc lát đã tròn ung ủng, bộ da đổi màu trắng ởn, mạch máu nổi phồng như từng búi giun bò ngoằn ngoèo dưới da. Saman giơ chân đạp mạnh vào cái bụng trương phềnh, “bụp” một tiếng, toàn bộ cái xác vỡ toác, máu me bắn toé như sương, bay khắp không gian. Nháy mắt, cái xác đã biến mất tăm hơi, chỉ còn lại một vũng máu từ từ thấm xuống nền đất.

Saman nhặt tấm phướn lên, thè lưỡi liếm vào máu thấm, chép miệng rồi quay đi, trèo qua cửa sổ ra ngoài.

❀ 10 ❀

Saman đứng bên bể muối ở sân sau nhà Lee Bo, kính cẩn thắp ba nén hương. Chờ đến khi hương cháy hết, Saman mới cầm cuốc xới tung đống muối.

Những tảng muối cứng rắn được bậy lên, chồng xếp ngổn ngang, trong lớp nước mặn đọng phía dưới những tảng muối, Lee Bo nằm đó, miệng he hé mở, sắc mặt thấp thoáng ít nhiều uất hận, trong lòng ôm hai cái xác cáo.

Saman quăng cuốc, quỳ sụp xuống, bật khóc thảm thiết: “Anh ơi, em đã tiêu diệt được hung thủ thực sự rồi. Em sẽ đời đời kiếp kiếp sống ở đây để bảo vệ mọi người.”

Lời vừa dứt, cứ như thể Lee Bo đã nghe thấy, trên gương mặt trắng bệch thấp thoáng một nụ cười, ba làn khói trắng toả ra từ lỗ mũi của một người hai cáo, lượn lờ quanh bể muối rồi từ từ tan biến.

Sáng sớm hôm sau, Saman kéo theo một cái xác cáo lớn từ trong nhà trưởng làng đi ra, kể rõ chân tướng với dân làng: trưởng làng mới là cáo chín đuôi thực sự, để được độ kiếp, ông ta đã giết chết cả nhà Pak Jeong An, rồi giá hoạ cho Lee Bo.

Dân làng vô cùng căm phẫn, giẫm nát cái xác cáo. Sau đó, thiếu niên được dân làng tôn làm trưởng làng mới, ở lại đây cưới vợ sinh con, bảo vệ bình an cho dân làng.

❀ 11 ❀

Kể đến đây, thuyền trưởng người cáo chợt im lặng. Quả là một truyền thuyết thú vị, tôi nãy giờ lắng nghe rất chăm chú, tự dưng thấy ông ta không kể nữa thì gặng hỏi: “Rồi sao nữa?”

Thuyền trưởng người cáo hít vào một hơi thật sâu, giọng khàn đi: “Trung Hoa xưa có bộ truyện ?