Chương 2 Kho muối Hòn khói -(Entrepot de Sel de Honekohe)
Chương 2
kho muối hòn khói
(entrepot de sel de honekohe)
hiếc xe ngựa hai bánh gỗ nghiến rào rào trên con đường trải đá dẫn từ Vạn giả xuống Hòn khói. Tôi nằm co ro trên ván xe, đầu gối vào đùi của mẹ, cố dỗ giấc ngủ trưa nhưng nào tôi đâu ngủ được! Lạ nước lạ cái, lạ cả cái mùi hương hoa đồng nội. Nhọc mệt và đói, vì hai mẹ con tôi vừa trải qua một cuộc hành trình dài, hai ngày một đêm trên xe lửa từ Đà Nẵng vào đến tỉnh Khánh hòa. Cuối cùng chúng tôi cũng đến.
Xuống xe lửa ở ga Vạn giả, mẹ dắt tôi vào trong ga nghỉ ngơi cùng kiểm lại hành lý và cũng để mẹ tôi tìm người xà ích đánh xe ngựa đến đón. Ba tôi đã cẩn thận thuê riêng một chiếc xe ngựa từ Hòn khói lên ga Vạn giả để rước chúng tôi. Trước đó ít tuần, ông cũng đã viết thư về cho mẹ tôi dặn dò kỹ lưỡng rằng, ngày đó nếu ba tôi được nghỉ sẽ cùng đi với ông xà ích lên đón mẹ con tôi. Nhưng nếu bận việc ở sở không nghỉ được, thì khi đến ga mẹ cứ tìm người xà ích mặc bộ đồ xanh đội chiếc nón phớt màu nâu, tên ông ta là cai Phúc. Ông cai Phúc là cai cu-li gánh muối làm cho sở ba tôi ở dưới Hòn Khói. Buổi sáng ông làm cai coi phu đổ muối cho sở, nhưng chiều về làm phu đánh xe ngựa đưa người lên xuống Vạn giả và Hòn khói. Tôi ngủ không được bèn ngồi dậy đưa mắt nhìn ông Phúc. Ông người gầy gò, nhưng rắn chắc, da ngăm ngăm đen, nước da của những người chuyên sống ở miền biển. Ông ngồi đằng trước xe sau đít con ngựa, một chân co lên trên ván xe, chân kia bỏ thõng xuống đu đưa qua lại theo nhịp xe chạy. Tay mặt cầm cương, tay trái ông dí dí chiếc roi vào đít con vật. Từ lúc xe chạy cho đến nơi, tôi chẳng hề thấy ông đánh vào đít nó một cái nào, chỉ có miệng ông thỉnh thoảng bảo con ngựa đi thẳng hoặc đứng lại, qua phải hoặc qua trái. Ông nói tiếng địa phương giọng lơ lớ nên tôi nghe không hiểu, chỉ nghe mẹ tôi thuật lại rằng ông là người Chàm lai Việt. Gương mặt ông khắc khổ nên tôi không thể đoán rằng ông được mấy mươi? Cổ ông quấn một cái khăn rằn ca rô màu đen trắng, khi gió thổi vào, một góc cái khăn bay che hết nửa khuôn mặt ông.
Con đường có đoạn trải đá, cũng có nhiều đoạn không, nên khi có chiếc xe ngựa nào chạy ngược chiều, bụi đất lại tung bay từng loạt. Tôi uể oải ngồi lên, hai tay nắm chặt lấy thành xe, mắt dõi nhìn bên đường, đầu lắc lư theo tiếng vó ngựa lốc ca lộc cộc. Đôi mắt mẹ tôi cũng mõi mệt, bà ngồi tựa lưng vào thành xe, tay mặt vòng ngang qua chiếc rương gỗ, thỉnh thoảng hỏi ông xà ích là sắp đến chưa? Ông trả lời chậm chạp, “chắc tàn điếu thuốc thì đến đó bà!”. Ngoài tiếng hỏi đáp của mẹ tôi và ông Phúc, tiếng vó ngựa lộp cộp, con đường im vắng hoàn toàn, thảng hoặc có vài tiếng chim kêu hoặc tiếng ục ặc của những con mãng nấp trong bụi rậm.
Xe đi qua một cái truông nhỏ, hai bên là dốc núi đất rậm rạp dày đặc những hàng cây sim chín cùng những bụi lá tơ hồng màu vàng thẫm, trãi dày trên chót những cụm cây sao. Trời xanh lơ, mặt trời trút nắng chói chang trên cảnh vật. Chợt một ngọn gió mang nặng mùi nước biển thổi lên mát rượi. Ông xà ích đưa cây roi chỉ vào đằng trước bảo với má tôi: "Sắp đến nơi rồi rồi đó bà"..
Tôi nhướn người nhìn ra phía trước theo hướng cái roi của ông xà ích, thấy bên trái mặt đường khởi đầu là ruộng muối. Hằng hà sa số cơ man là muối, muối trắng phau phau phản chiếu ánh mặt trời trưa trên những cánh đồng rộng. Hàng cò bay từng đoàn trên cao. Phu ruộng muối đang gom muối lại từng cụm, vun đống lên như những nóc nhà nhỏ trên mặt ruộng. Ước chừng cũng có đến cả trăm thửa.
Nước biển xanh nhạt còn lấp xấp trong ruộng, nhưng cũng có nhiều ruộng, đất đã khô. Xa xa bên tay trái là một cái doi đất cao nhô ra vịnh trên đó có một ngôi nhà lầu sơn trắng lợp ngói đỏ lấp ló trong lùm cây. Bên phải là một ngọn đồi thoai thoải, có con đường mòn đất nhỏ dẫn lên đồi, hai bên đường những hàng sim thấp mọc dày đặc như rừng. Xa xa bên trong lấp ló một dãy nhà nhiều căn, lưng dựa vào đồi. Trước sân thấp thoáng bóng trẻ con qua lại cười đùa trững giỡn. Vì xa tầm mắt nên tôi chỉ thấy nhiều mái đầu trai gái, tiếng nói thì nghe tiếng được tiếng mất. Sau này tôi mới biết rằng nơi đó chính là mái trường duy nhất mà tôi sẽ theo học trong thời gian ở với ba tôi tại chốn khỉ ho cò gáy này.
Vó ngựa vẫn lộc cộc khua vang trên con đường nhựa, đôi ba người phu đang cào muối ở cánh ruộng gần vệ đường dừng tay lại, đứng lên lấy tay che mắt tò mò nhìn chiếc xe ngựa chở mẹ con tôi đi qua. Xe băng qua một chiếc cầu gỗ ngắn không có lan can, rồi tiến thẳng vào một xóm chài nhỏ chừng đôi chục căn nhà lá dọc theo hai bên đường. Nơi đây người dân địa phương đánh cá và làm muối dùng để ở và để họp chợ vào mỗi sáng. Một cái cổng xây bằng gạch trét vôi đã cũ, màu sơn trắng cũng đã ngã sang vàng đục, lỗ chỗ rêu phong, trên cao có gắn một tấm biển lớn vòng cung sơn màu xanh đậm với hàng chữ trắng thật lớn: “Entrepot de sel de Honekohe”.
Sau khi xe ngựa chui qua cổng, ông xà ích kéo chiếc giây cương cho con ngựa rẽ sang phải đến một khu nhà năm gian dài lợp mái ngói đỏ và đổ ngay trước cửa căn đầu. Ông ghìm cương cho con ngựa đứng lại và nhảy xuống đất quay mặt ra sau xe: “thưa bà Đội, đến rồi”. Cẩn thận cột giây cương vào cái lan can nhỏ trước nhà, ông giật cái khăn rằn quấn trên cổ lau vội những hạt mồ hôi lấm tấm trên trán, chạy vào căn số 1 gõ cửa cộc cộc. Chưa dứt tiếng gỏ đã thấy ba tôi chạy ra, mặt ông rạng rỡ, một tay kẹp cuốn tập tay kia cầm cây viết. Vừa thấy mẹ tôi, ông lại chạy vô nhà, lính qua lính quýnh, bỏ cuốn tập với cây viết, chạy ra hí hửng nắm lấy tay mẹ tôi, tay kia phụ khiêng chiếc rương với ông xà ích, tới tấp hỏi:
“Mình đi có mệt không? Xe tới lâu chưa? Thằng con đâu?
Ông quay mặt nhìn ra sau, vì tôi đứng khuất sau lưng mẹ nên ông không thấy!
Mẹ tôi trả lời: “Nó đây nè! Ừa thì cũng mệt, nhưng chắc thằng nhỏ đói.”
Ba tôi nhoẻn miệng cười khi thấy tôi, tay ông xoa xoa cái đầu húi cua của tôi, rồi bỏ chiếc rương xuống, ông ôm lấy tôi hôn lên má trái tôi một cái “chụt”!.
Tôi nhìn ông mím môi cười sung sướng vì sau ba tháng rồi tôi mới lại được thấy mặt ba. Ông lại nhìn vào mặt tôi một giây rồi quay sang hỏi mẹ tôi:
“Chớ đứa mô cúp (hớt) tóc cho hắn rứa? Răng cạo trọc giống lính săng đá ri?(*)”
Mẹ tôi trả lời.
“Thằng Bốn chó con đó chớ ai! Đã nói cúp cua cho thằng nhỏ mà ổng ba chớp ba nháng cúp răng thiếu điều như cạo trọc! Tui la hắn một trận rồi!. hắn nhăn răng cười trừ!!”.
Số rằng trước khi đi mẹ tôi đã cẩn thận mang tôi lên căn tiệm hớt tóc của chú Bốn ở chợ Mới để húi cua, vì nghe trong Nam trời nóng lắm, cắt ngắn cho nó mát. Tôi có cái tật mỗi lần đi cắt tóc là hay ngủ gật, thế nên về nhà lần nào cũng bị la! Cứ hể khi nào bắt đầu trèo lên cái ghế da mềm mềm của tiệm chú Bốn, cúi đầu xuống nghe tiếng tông đơ rột roạt đều đều, lại có gió mát hây hây dưới cái quạt vải to treo trên trần, là y như rằng, không mời không rủ ông thần ngủ cũng tới viếng tôi ngay tức khắc!
Để nói thêm một tí về chiếc quạt có một không hai thời ấy. Thập niên 30-40 thời Tây đô hộ, thành phố Đà nẵng cũng như các thành phố nhỏ khác, 70% dân chúng không có điện. Chỉ có dưới Trẹm vùng Tòa Công sứ và quartier Francais (cư xá của Tây ở) đồn bót Tây hay một vài con đường lớn là có điện mà thôi. Đà nẵng còn thắp đèn dầu mù u, sang lắm là đèn măng sông.
Cái quán hớt tóc của chú Bốn chó con ở chợ mới là cái quán khá nhất trong vùng vì trong phòng có trang bị 2 chiếc ghế da bò, trên trần lại có bắt một chiếc quạt vải dày thật đẹp, bề ngang khoảng một thước tây, bề đứng chừng ½ thước. Ở giữa cái quạt phía trên có cột một sợi giây vải gai mịn, móc theo sà ngang xỏ qua một cái vòng sắt nhỏ, sợi giây kéo dài xuống đất cạnh góc tường. Ở đó chú Bốn thuê một thằng nhỏ ngồi cầm cái giây kéo qua kéo lại cho chiếc quạt phất phơ. Thằng nhỏ nhiều khi làm biếng móc cái đầu giây vào ngón chân cái co đầu gối kéo lên kéo xuống cho đỡ mỏi tay. Lâu lâu tôi cũng thấy nó gục như tôi, những lúc đó cái quạt chậm lại, chú Bốn khỏ vào đầu nó nghe một cái cốc, nó tỉnh ngủ liền, mở mắt ngước mặt lên, chân đạp tíu tít. Con trai chú Bốn đi học buổi sáng nhưng chiều về thì ra quán thay thằng nhỏ để kéo quạt cho ba nó bớt tốn tiền thuê.
Thời đó mà chú Bốn có quán hớt tóc, lại trang bị được chiếc quạt vải, là tiệm chú thuộc loại khá, vì hầu hết thợ hớt tóc thời bấy giờ đều đi hớt dạo, số thợ khác thì trang bị được cái gương soi, cái ghế xếp di động cùng hộp đồ nghề, đặt ghế ngồi dọc theo lối đi ven vệ đường sát các bờ tường là cùng. Tiếc rằng về sau này chẳng bao giờ tôi lại còn được thấy chiếc quạt hi hữu như trên nữa. Chỉ cần nghe tiếng quạt phành phạch, mát rượi, cái tông đơ trên tay chú Bốn bóp soạt qua soạt lại đều đặn, là cơn ngủ ở đâu kéo tới liền. Ngoại trừ khi nào tôi choàng giấc, là bữa đó chú Bốn quên mài tông đơ, nên sau khi bóp vài ba cái, tông đơ đùi nhách tóc kẹt vào giữa hai cái lưỡi, mà chú Bốn thì cứ vô tư giật lên, là tôi hét lớn liền:
“Đau quá à”!
Chú Bốn dừng tông đơ lại ngay, lấy tay xoa xoa đầu tôi, chỗ vừa mới bị kẹt. Nhưng sau đó vài phút cơn ngủ gục lại lò dò tới liền, cái đầu tôi từ từ cúi xuống đàng trước: “gật!”.. chú Bốn biết ý ngay, nâng nhẹ đầu tôi lên la khe khẻ:
“Đừng có ngủ, để tau cúp chớ?”
Những lúc đó mẹ tôi luôn luôn mắng: “Cái thằng ni, không ngủ thì cười, răng lạ rứa?”
Tôi đáp: “nhột”!.
Nhưng nhất định lần này tôi không ngủ nữa, ráng ngồi ngay ngắn, song chỉ được vài phút thì tôi lại co rúm cái cổ lên vì nhột. Chắc vì vậy mà chú Bốn hôm nay xì nẹt, thay vì húi cua, chú cắt ngắn như lính tẩy cho bỏ ghét, thiếu đều như cạo trọc!
Mẹ tôi cằn nhằn, “bảo dặn rồi mà chú cúp ngắn quá vô trỏng ba nó thấy ba nó la tui.”
Chú Bốn cười hì hì: “Í, coi rứa mà đẹp trai đó chị Ba”.
Tôi cũng chẳng buồn soi gương mần chi vì mẹ tui bảo sao thì tui nghe vậy!
Tôi cũng không nhớ và cũng không biết rằng ai đã đặt cho chú Bốn cái danh hiệu là Bốn chó con?! Lúc mẹ tôi còn sinh tiền tôi có hỏi bà thì bà cười kể rằng “Ừa, tao nghe thiên hạ gọi nó là Bốn chó con nên tao gọi theo. Nhưng chỉ gọi sau lưng nó thôi chớ trước mặt ai mà gọi nó như rứa, sợ nó giận!” Bà tiếp: “Chắc có lẽ nó tuổi Tuất, người lại nhỏ thó loắc choắc như chó con nên người ta gọi vậy.”
Năm căn nhà dài như trại gia binh, Tây cất cho gia đình người Đội và mấy anh Cai cùng lính ở. Vì ba tôi là người đội Việt nam duy nhất trong cái depot đó nên được ở căn đầu lớn và tiện nghi hơn. Có điện, có quạt máy trần khá hơn mấy căn kia không có quạt. Ba tôi lúc đó làm cho Sở quan thuế Pháp (Douane & Regis) nên trung ương cử vào để xem sở muối này, trên dưới khoảng 2 chục công nhân cả cai và lính lẫn phu gánh muối. Trưởng sở là một người Pháp to béo khoảng 30 tuổi, nặng cũng có đến 80 kí lô gram, tên là Bernard. Ông ta ở bên cái nhà lầu vi-la trông ra vịnh với vợ đầm cùng hai con, một trai một gái còn nhỏ và một chiếc xe Citroen màu đen trong nệm bọc toàn vải trắng. Ổng có tài xế riêng, người tài xế Việt đội cát két trắng viền đen, mặc bộ đồ tây trắng ủi láng cóng, mỗi sáng chở bà đầm đi ra chợ Hòn mua rau quả cá thịt đằng xóm trước. Trong thời gian tôi ở đó, thỉnh thoảng thấy có chiếc máy bay đậu dưới nước (thủy phi thoàng) hạ cánh đáp xuống vịnh, đậu cạnh cái cầu gỗ nhỏ bắt từ ngoài vịnh vào ngôi nhà hắn. Sau này cũng chiếc máy bay đó đến đưa gia đình hắn ta đi ra tàu thủy về Pháp.
Mẹ vào thăm ba tôi độ một tuần thì bà phải quay về Đà nẵng ngay, vì tôi còn thêm một thằng em nhỏ đang gửi cho bà ngoại trông, vì thế bà không ở với ba tôi lâu được. Lại nữa bà phải về để mở cửa hàng vải, sau cả tuần cửa đóng im ỉm. Tôi nhớ ngày cuối bà đã lật đật dậy từ sáng sớm cùng ba tôi khăn gói lên xe ngựa để ra ga Vạn giả đón xe lửa trở về Trung. Tôi phải ở lại với chú Tư người làm. Tôi khóc suốt trong thời gian ba đưa mẹ ra ga. Tôi nhớ rằng sau đó đã khóc hết mấy ngày mới nguôi vì nhớ mẹ. Hôm ra đi mẹ ôm tôi hôn, hai mẹ con cùng sướt mướt, trong lúc đó ba tôi mặt buồn rười rượi! Mẹ dặn tôi đủ điều, miệng tôi vâng dạ nhưng lòng rối như mớ bòng bong, nên có nhớ chi mô! Ba kêu chị bếp dắt tôi đi chơi chỗ khác, nhưng tôi cứ nằng nặc không chịu rời bà. Tuổi nhỏ dễ quên, sau đó ở với ba rồi mọi việc cũng đâu vào đấy!
Ở đây tôi được nuông chìu lắm vì nay ba tôi đã có thêm tôi, đỡ nhớ nhà, nhớ vợ và thằng em ngoài Đà nẵng. Đây cũng là lần đầu tiên trong đời tôi phải theo ba tôi rời xa thành phố chôn nhau cắt rún của mình. Ba tôi được hai người phụ việc, chú Tư lo việc dọn dẹp coi sóc trong nhà, đưa tôi đi học. Chị bếp thì lo việc chợ búa bếp nước. Đi đâu xa thì có ông Phúc xà ích.
Tuần vừa mới đến ba tôi chưa cho tôi vào trường, vì đã cuối niên khóa học trò sắp nghỉ hè, nên ba cho chú Tư dắt tôi đi chơi mọi nơi trong vùng. Hôm nào ba tôi có đi tuần vào buổi chiều mà không có ông sếp Tây, ổng cũng cho tôi đi theo, tôi lại được dịp đi ca nô cùng ông với hai người lính có trang bị hai khẫu mút cờ tông (súng trường Tây thời đó). Nhưng có một hôm ông đi tuần đêm với hai người lính, ca nô rọi đèn sáng rực. Ngọn đèn vừa quét qua bên phải, phía cầu cho tàu cặp bến ăn muối, bỗng ông chợt thấy có một chiếc ghe nhỏ khả nghi, đang cặp sát chân cầu. Trên bờ có hai người trai trẻ mặc đồ đen đang hì hục ăn cắp muối. Ông la lên bảo dừng lại, chúng nó hoảng hốt nhảy tùm hết xuống biển. Ông cho lính lên cò súng tiến đến chiếc ghe. Ngờ đâu có một thằng đang lặn dưới nước bất thình lình trồi lên gần ca nô phía ba tôi ngồi, hươi dao đâm vào ba tôi. Ông né người tránh được mũi dao, nhưng tay mặt ông cũng bị chém một nhát vào ngón cái gần đứt tiện. Anh lính bồng súng nghe ba tôi la bèn nhắm súng vào hướng quân gian nổ một cái ầm. Chúng lặn mất tiêu. Ba tôi đành phải quay ca nô trở về trại để băng bó vết thương. Sáng hôm sau đến chỗ củ xem lại thì chiếc ghe đã biến mất, nhưng đống muối vẫn còn trên bờ chưa kịp tẩu tán. Từ đó ba tôi không dám cho tôi đi theo, cho dẫu có đi ban ngày cũng vậy.
Tối tối đêm nào rảnh rỗi ít công việc ông đi câu cá cũng dắt tôi theo ra cầu đá cuối vịnh để câu cá mú ghềnh. Một hôm ông câu được một con mú rằn khoảng 3, 4 pounds, cá ăn mồi rồi kéo vào hốc đá mắc kẹt trong hang. Ông cởi áo và quần dài, mặc có cái quần xà lỏn bảo tôi ngồi yên nắm cái cần câu cho ông. Ông lặn xuống theo giây cước vào hang một chặp kéo con mú ra xách lên bờ cười ha hả.
Cũng từ đó tôi bắt đầu đam mê thú câu cá và sau đó xin ông cho tôi một cái cần nho nhỏ và dạy tôi câu. Nhưng người dạy tôi câu không phải là ba tôi mà là chú Tư vì ba tôi ít khi rảnh rỗi. Mấy hôm sau tôi háo hức lắm chỉ mong chú Tư chùi nhà cửa cho lẹ để dắt tôi đi câu, nhưng chú Tư bảo phải từ từ và phải dậy thật sớm để đi ra bãi bắt mồi trước. Tôi nghe phải thức dậy sớm cũng hơi lo lo, vì tánh con nít ít đứa nào dậy sớm được.
Tôi hỏi chú Tư, “dậy sớm là mấy giờ?”
Chú đáp: “khoảng 5 giờ ½ sáng”. Chú tiếp: “nhưng mà cháu dậy sớm được không? thì chú mới tới sớm để dẫn cháu đi?”
Chú Tư đến làm mỗi ngày trừ chủ nhật, lúc bảy giờ sáng. Chỉ có chị Ba nấu bếp là được ở lại luôn, trong một căn phòng nhỏ kế nhà bếp mà thôi. Tôi nói mạnh: “được chớ chú Tư, con ráng dậy sớm mà, chú cứ đến nếu thấy con còn ngủ thì đánh thức con dậy.” Chú Tư bằng lòng rồi xin ba tôi mai cho chú đến sớm để đưa tôi ra bãi biển bắt mồi câu cá suốt. Ba tôi bằng lòng nhưng cũng căn dặn chú là đừng để nó ham quá rồi đi ra xa bị nước cuốn!
Quay sang tôi ba tôi hỏi: ‘Con dậy nổi không mà làm phiền chú Tư?”
“Con dậy được mà!” Tôi đáp ngay!
Gió biển ở đây sáng tinh sương sao nó mát rời rợi!.. Buổi sáng nước biển ròng nên sóng biển đã lùi ra xa tít, trơ lại trong bờ một vùng sình lỗ chỗ những lỗ nhỏ xì xọp nước trồi lên xuống khi có bước chân người bước đến gần. Chú Tư dắt tay tôi lội xuống bãi sình để bắt trùn biển làm mồi. Tay chú cầm một miếng giẻ rách và một cái lon thiếc sửa bò củ. Chú khom lưng đi từ từ, mặt cúi xuống sình xem cái lỗ nào nước biển khô mà chú nghi là có con trùn trong đó. Chú bèn nhúng miếng giẻ xuống vũng nước cạnh đó rồi vò tròn lại trong tay, bóp nhẹ cho nước vô lỗ. Lập tức có một con trùn biển to bằng chiếc đũa tre dài khoảng một tấc tây trồi lên mặt sình. Chú vội vàng chụp lấy đầu lôi con trùn ra khỏi hang rồi bỏ vào cái lon thiếc có để chút nước biển. “Dzậy là được một con!”, mặt chú hý hững!..Chú dạy tôi rằng buổi sáng khi nước ròng, mấy con trùn biển nó trốn phía dưới đáy lỗ. Chờ tới khi nước biển lên thì nó cũng ngoi lên để ra ngoài đi ăn. Vì vậy mình nhử nó bằng cách cho nước vào, con trùn tưởng nước biển đã lên, tự động chui lên, dzậy là cứ nắm đầu hắn kéo ra khỏi lỗ. Tôi học được cách bắt trùn từ nơi chú Tư, sau đó cùng bè bạn trong xóm ra chỗ chiếc cầu gỗ mỗi chiều sau 4 giờ để câu cá suốt.
Giờ đó nước biển trong vịnh và ruộng muối bắt đầu rút ra từ từ. Tôi ngồi trến ván cầu, hai chân bỏ thõng xuống. Cứ rức một đoạn nhỏ của con trùn móc vào lưỡi câu bỏ xuống là a lê hấp một hai ba thấy cần rung là giật. Chỉ một buổi chiều mà tôi câu được cũng gần hai ba lon lớn cá suốt. (Lon sữa guigoz) Thế là tôi mê mẫn, chiều nào cũng xin đi câu, nhưng ba tôi chỉ cho phép một tuần hai lần mà thôi vì cá câu về chị Bếp có kho cũng không hết, đem đổ chớ cho ai họ cũng chẳng lấy.
Vùng tôi ở là một bán đảo nhỏ, nhưng không hiểu sao dân chúng ở đây gọi là cái Hòn? Hòn khói! Có lẽ xưa kia Hòn khói là một cái hòn gần sát với đất liền. Lúc đó nước biển còn bao quanh hòn? Sau này nước biển rút thấp lòi ra một doi đất còn dính liền đảo với đất chăng? Hòn khói hiện tại có hai đầu nhoi ra biển, giữa là cái vịnh nhỏ, xung quanh vịnh là vùng đất thấp và bằng phẳng. Từ lúc Tây sang đô hộ nước ta, họ đắp bờ xây nên ruộng muối. Hòn khói phong cảnh thật đẹp và nếu không có cái depot muối thì cảnh trí nên thơ vô cùng.
Cả mùa hè rảnh rỗi tôi chưa có đi học vả lại thầy Lang người cai làm chung với Ba tôi chỉ kèm hè cho tôi một ngày 2 tiếng vào buổi tối khi thầy đi làm về, nên cả ngày tôi được rảnh rỗi. Sau mỗi sáng ôn bài và làm bài tập xong là tôi được quyền đi chơi. Nhưng đi đâu cũng phải nói cho chú Tư và chị Bếp biết. Tôi không được đi xa, song xóm tôi ở, đi chưa tới nửa ki lo mét là hết xóm. Vì thế tôi chỉ lẩn quẩn trong xóm, lên cái đồi sim trên trường làng, hay vòng qua cái doi đất lên đồi phía ông Tây Bernard ở, để rình xem bà đầm cùng mấy đứa con nhỏ chơi xích đu, nhưng ba tôi cấm là không được mon men đến gần vì nhà ông Tây có lính bồng súng gác. Quanh đi quẫn lại rốt cuộc cũng ra chiếc cầu ván ngồi chờ mấy thằng bạn vác cần ra câu.
Vùng tôi ở có rất nhiêu kên kên (vautour) và cò. Nhiều khi ban đêm chó hay mèo đi rình cá, nước ròng chúng lội theo ra vũng sình, bị kẹt sình nằm chết chình ình trên vũng. Rứa là sáng hôm sau một lũ kên kên bay vần vũ la ó om trời đất, sà xuống làm thịt con mồi. Chúng dành ăn đánh nhau chí chóe cả bãi sình. Lắm con cũng bị kẹt sình nhưng cố ráng quạt cánh bay lên. Cò thì bay trắng cả ruộng, bay từng đoàn, chúng lăm le khi thấy vắng người là sà xuống ruộng bắt cá và tép. Chúng đậu trên những hàng cây lớn ven sườn đồi trắng lỗ chỗ và cũng làm tổ trên đó. Tôi ghét chúng nhất là mùa cò đẻ, tiếng cò con khóc như tiếng con nít ở trên cây! và dưới vệ đường ôi thôi toàn là phân cò trắng toát!
Mỗi buổi sáng xóm chợ chồm hổm trước cửa depot muối, rộn rịp bán buôn từ lúc 5, 6 giờ sáng. Những ghe đi đánh cá đêm vừa về đổ cá ra chợ bán cho con buôn xuống từ Vạn giả, Đại lảnh, cũng có khi tận trong Ninh Hòa ra mua. Xe ngựa đến mang rau cỏ thịt thà xuống chợ, khi về thì hai bên thành xe móc đầy ắp các giỏ cùng thúng đầy những cá. Chợ tấp nập ồn ào cho đến khoảng 10 giờ sáng, khi kẻ nhóm chợ về hết trả lại cái xóm Hòn vắng tanh như chùa bà Đanh. Chợ xóm Hòn này có cái đặc biệt là không có bán cá từng con, trừ những con cá lớn đôi ba chục ký trở lên, còn lại họ bán từng thúng hoặc rổ là ít nhất. Vì bán sỉ cho con buôn, nên chị bếp nhà tôi có là dân ở đó cũng phải mua nguyên cả một rỗ đem về chia ra cho bà con cùng dãy. Dĩ nhiên mỗi căn lấy cá phải trả lại chị bếp tiền phần cá của mình. Có khi nguyên cả tuần, một dãy năm căn ăn có một loại cá. Thỉnh thoảng rỗ cá lọt ít con mực hoặc vài con cua hay một loại cá khác thì chị bếp luôn dành cho nhà tôi, nhưng khi ba tôi biết được thì ba la chị bếp đừng làm vậy không được công bằng. Có một hôm chú Tư ra chợ mang về cho ba tôi một con tôm hùm lớn gần bằng cái ống chân của tôi. Râu ria và càng của nó tua tủa ra tôi cầm không hết. Tôm hùm ở đây con nào con nấy cân cũng đến ba bốn pounds (gần hai kí lô). Hôm đó cả nhà ba tôi và chú Lang ăn tôm hùm nướng bơ và nhậu hết nửa lít đế. Chú Tư mặt đỏ gay vừa ăn vừa hát cải lương rân-cà-tum vang cả xóm Hòn!
Mấy tuần lễ đầu tiên mới đến tôi lợm giọng mỗi khi đi ngang qua đó vì tanh quá. Nhưng riết rồi cũng quen. Còn bữa nào tôi đi ra bãi sớm để bắt trùn, khi về đi ngang qua chợ cá cũng được bà con cho vài con cá tươi mang về. Nhiều lúc tôi không lấy nhưng họ biết tôi con thầy Đội nên cứ nhấn đại vô tay. Bất đắc dĩ tôi phải mang về cho chị bếp. Chị bếp lần sau dặn tôi đừng đi qua đó nữa, đợi tới trưa trưa rồi hẵng về. Nhưng ở cái xóm Hòn Khói này buồn quá là buồn, không có khỉ ho, nhưng có cò gáy, chỉ mong sang sáng có phiên chợ còn ra xem được thiên hạ tấp nập mua bán cho vui. Bởi vậy chiều nào mà tôi được đi câu cá là chiều đó vui xiết kể.
Ruộng muối phu phen bắt đầu đầm lại sau khi đã xả hết nước biển ra và lấy hết muối. Công nhân cào muối bằng chiếc cào to bản làm bằng gỗ tốt có sơn và phết chai để nước biển khỏi ăn mục. Muối cào lên dồn từng đống sau đó phu muối gánh lên bờ đổ vào các thùng xe rùa, (2 thước nhân 4 thước), đặt nằm trên đường rầy nhỏ ven lộ gần rìa ruộng. Đầy hết các thùng thì xe lăn bánh kéo về depot để đổ ra, tại đó có công nhân dồn muối lên thành từng đống lớn bằng cả cái nhà ba gian trên có lợp mái lá hẵn hoi để nước mưa không thấm vào muối. Tôi đếm ở depot có cũng hơn chục núi muối là ít. Lâu lâu có tàu nhỏ cặp bến lấy muối ra phân phối cho các thành phố khác. Công việc làm muối này do chánh phủ Tây thuộc địa thực hiện và cai quản bởi sở quan thuế Pháp (Douane et Regis) như đã nói ở trên. Thời Tây cai trị xứ mình mọi công việc gì làm ra tiền lớn đều do chánh phủ Tây cai quản, ngay cả đến rượu trắng bán cho dân, Tây cũng dành lấy thành lập một cơ quan chế biến và bán rượu trắng tên gọi là SICA (+) Vì thế ngành quan thuế ngoài việc đi tuần tra để bắt thuốc phiện lậu, rượu lậu, còn thêm công tác làm muối và phân phối muối, cũng là một Sở rất lớn vào thời bấy giờ.
Có một lần tôi thấy một đoàn người Thượng trên các buôn làng trong dãy trường sơn gần Đại lãnh kéo nhau xuống Hòn Khói lưng mang gùi đầy thú rừng nhỏ như khỉ, gà rừng, vải vóc tự dệt, cùng các hàng hóa thuốc dân tộc như gạc nai, v.v.. Họ đi bộ cả mấy ngày trường xuống vùng biển để đổi lấy muối mang về. Người dân tại đó có một số ít biết tiếng Thượng (Rhadé hay Kohor gì đó) nói chuyện với họ, vì một số lớn dân ở Hòn khói là sắc tộc Chăm có ngôn ngữ gần gũi với các giống người Thượng miền núi. Tôi nghe chú Tư kể lại rằng dân trong xóm bữa đó hỏi ai đã chỉ cho các người biết ở đây có muối mà xuống mua? Họ đáp: Bấy tôi từ trước nay có xuống đổi ở mấy phố trên đường lộ, nhưng bây giờ họ đòi bán và đổi muối ít quá, có người chỉ cho đi xuống đây mà đổi có nhiều lắm!. Hàng xóm bảo ai chỉ cho mà ác nhơn vậy? Đâu có được, ở đây muối của ông Tây không có bán, ai mà bán trong sở bắt được họ bỏ tù. Và lại tụi tui đâu có nhiều muối mà đổi, mỗi gia đình chỉ được phép mang về nhà một ít mỗi tuần nếu có thân nhân làm trong sở muối. Mấy chú đi về ngay đi, ở đây Tây nó biết nó đem súng ra bắn chết hết đó! Nói vậy chớ khi tôi thấy họ quay về trong gùi trên lưng người nào cũng đầy muối và xóm tôi từ đó có thêm một con khỉ. Nhưng rồi sau đó trở đi tôi không còn thấy đám người Thượng léo hánh đến Hòn Khói nữa!.
Những ruộng đã cào lấy muối từ nhiều tháng trước nay đất đáy đã khô, phu muối tiếp tục đầm cho đất dày và mịn lại như trét xi măng để sẵn sàng mở cửa cho nước biển vào cho vụ muối mới. Nhiều ruộng công nhân đã mở cho nước mới vào xâm xấp từ cả tháng nay. Sau vài lần tháo nước cũ ra, thay nước mới vào thì người ta đóng bờ ruộng lại để cho nước biển bốc hết hơi. Lúc nước biển bốc hết hơi còn đọng lại là muối trắng, họ chờ muối khô đủ ngày tháng thì sẵn sàng cào để lấy muối mới.
Những tháng cho nước mới vào ruộng là những lần tôi được chú Tư dắt đi xúc tép trong ruộng. Từng đống tép đỏ ối nằm dưới mặt nước biển trong ruộng, tha hồ đem cái thúng có lỗ chỉ việc nhẹ nhàng đút chiếc thúng dưới đám tép và múc nó lên. Chao ôi những con tép màu hồng nhảy tưng tưng dưới ánh nắng trông đẹp làm sao. Thế là về nhà chị bếp lại có nhiều màn nào kho sả, xào với giá hay làm mắm ruốc.
Sau những tháng hè rong chơi vui vẻ, sáng nay là niên khóa đầu tiên của niên học l942-43. Ba tôi dắt tôi tới ngôi trường trên đồi trong làng gặp thầy hiệu trưởng để xin cho con vào lớp mới. Ông hiệu trưởng sau khi tiếp ba tôi, xem học bạ cùng những giấy ban khen “mentions bien” chứng chỉ lớp tư năm rồi và thư xin đổi trường. Ông phê cho tôi được miễn thi. Tôi được ngồi lớp ba (**) với hai thằng bạn đi câu cá suốt là thằng Mến và thằng Đạt. Ngôi trường nhỏ rêu phong nằm dựa lưng trên một cái đồi sim thoai thoải. Sau trường có lối mòn đi lên tận đỉnh, trên đó chúng tôi có thể nhìn bao quát từ Hòn sang mấy ngọn đồi kế và xa xa là biển Nam Hải. Những giờ ra chơi hay buổi sáng đến trường sớm, tụi tôi rủ nhau leo lên tận đỉnh đồi hái sim chín và bắt chim con về nuôi. Thỉnh thoảng cũng thấy nai và mãng đi ăn dọc theo con đường mòn trên đỉnh đồi đối diện. Thầy giáo và chú Tư cũng đã dặn dò tụi tôi rằng không được trèo qua bên đồi khác vì bên đó có cọp. Lúc đó cư dân Hòn Khói đồn rằng ban đêm thỉnh thoảng có cọp xuống bắt nai, mãng, nhưng thấy cọp thì chả nghe ai nói đến. Song trên quốc lộ 1 từ Đại lãnh vào Nha trang thỉnh thoảng buổi chiều tối cọp hay ra đường cái ngồi xổm nhìn đèn xe hơi. Xe chạy đến thì nhảy tuốt vào bụi rậm. Thời gian đó vùng này nổi tiếng rất nhiều cọp vì thế nên dân địa phương có câu: “cọp Khánh hòa ma Bình Thuận”.
Ngày tháng êm đềm trôi, cuối năm tôi được theo ba tôi về Đà nẵng ăn Tết rồi ra giêng lại lót tót theo ông trở lại Hòn Khói. Một đêm đang ngủ, ba tôi bỗng choàng thức giấc dậy vì có những tiếng động lạ bên vi-la của người sếp Tây Bernard vọng qua, có cả tiếng quát mắng lớn nhưng ba tôi nghe không rõ. Tôi cũng thức theo ba rõi mắt nhìn qua cửa sổ kính, thấy bên vi-la đèn đuốc bật sáng trưng. Có rất nhiều lính cầm súng chạy vào chạy ra, những người lính này mặc đồ kaki màu vàng trên đầu lại đội mũ vải có tai bèo che hai bên hông tai. Trước đó tôi cũng có nghe một vài tiếng súng nổ. Bên cạnh nhà tôi căn của chú Lang mở đèn, ba tôi hết hồn gọi qua bảo chú tắt đèn đi. Tôi thấy gương mặt ba tôi lộ vẻ lo lắng khẩn trương, ông xem giờ thì thấy khoảng 2 giờ sáng. Ông bảo tôi đi tới giường ngủ lại đi con, nhưng tôi cứ nắm tay ông và không muốn trở lại giường mà không có ông. Ông ngồi cạnh chiếc ghế đặt bên cửa sổ mắt vẫn theo dõi qua phía vi-la bên kia vịnh. Sau đó ông thấy nhiều tiếng máy xe nổ và một số người lố nhố ra xe lái đi. Vì xa quá nên ba tôi không thấy rõ là những ai, chỉ thấy bóng dáng nhiều lính, người lại thấp lùn. Ba tôi bèn trở lại giường, nhưng ông nằm trằn trọc thao thức không ngủ tiếp được.
Mới năm giờ sáng, ba tôi giật mình choàng dậy vì nghe có nhiều tiếng chân người rầm rập đi vào depot. Tôi cũng thức giấc dậy theo ông. Tiếng chân đi rập ràng có vẻ như một toán lính mang giầy bốt đờ sô (giày lính). Họ dừng lại trước sân. Im lặng vài phút, rồi có tiếng người đi vào phía cửa chính nhà tôi. Có tiếng gõ cửa dồn dập. Ba tôi đoán có chuyện chẳng lành, ông vội tiến đến cửa sổ mà đêm qua sơ ý ông quên không đóng kín. Lần theo khe hở ghé mắt dòm ra, ông hoảng hồn khi thấy một đám lính Nhật lố nhố đàng trước nhà. Ông xỏ dép đi ra mở cửa. Tôi cũng líu ríu đi theo.
Cửa mở, một người lính Nhật hiện ra tay cầm súng nói xí xa xí xô chi đó rồi kéo ba tôi ra ngoài. Tôi chạy theo, ba tôi la bảo tôi đi vào trong. Tôi thấy cái cổng lớn đã mở toang, một chiếc xe jeep đang chạy vào, trên xe có cắm cờ Nhật Bản. Toán lính chia nhau đến trước các căn nhà kế bên gọi mọi người trong nhà đi ra ngoài hết. Anh lính Nhật nói một tràng tiếng Nhật chi đó nhưng ba tôi không hiểu, anh ta ra dấu cho ba tôi theo anh đi ra ngoài xe. Hai người lính khác tiến vào nhà bật đèn lục soát kỷ lưỡng xem trong nhà còn có ai không, nhưng khi chỉ thấy có tôi và chị bếp họ bèn bỏ đi ra.
Chúng dắt ba tôi ra ngoài xe jeep gặp cấp chỉ huy và bắt đứng ở đó chờ. Dần dà đến lượt chú Lang cùng mấy người cai và lính ở các căn kế cận cũng cùng đi ra với mấy người lính Nhật. Một người lính khác cầm theo ra hai cây súng mút cờ tông và một thùng đạn. Hắn đem ra giao cho người chỉ huy. Họ dắt tất cả mấy người cai và lính tới đứng cùng chỗ với ba tôi.
Trên xe jeep bước xuống một người lính Nhật vóc dáng nhỏ thó, mắt đeo kính cận, đội mủ tai bèo hông mang súng lục và một cây kiếm, có vẻ là một sĩ quan. Ông ta đưa mắt nhìn tất cả mọi người rồi nói gì đó bằng tiếng Nhật với ba tôi. Ba tôi và các chú cai không ai hiểu gì cả đành lắc đầu. Ông ta bèn móc vào túi áo trên lấy ra một mảnh giấy viết bằng tiếng Pháp đưa cho ba tôi. Ba tôi đọc và hiểu ngay rằng Nhật đã đảo chính Pháp và bắt hết người Pháp dẫn đi vào sáng sớm nay lúc 2 giờ sáng. Trong số đó có ông sếp Tây của sở muối và cả gia đình. Ba tôi ra dấu cho người sĩ quan xin phép cho ông nói cùng mấy người cai và lính đứng sau lưng ông. Vị sĩ quan gật đầu. Sau đó họ ra dấu cho ba tôi và mấy người cai trở lại nhà, không được đi đâu và cắt một toán nhỏ lính Nhật canh gác sở muối cùng nhà của nhân viên trong sở.
Bảy giờ dân phu lục tục kéo tới sở làm, nhưng thấy cổng đóng và có lính Nhật gác, chưng hững, không ai dám vô chỉ đứng lớ quớ trước sở chờ. Chú Tư cũng có đứng trong đám đó rướn cổ ngóng vô nhà tôi. Phần tôi khi ba đi ra ngoài với mấy người lính Nhật tôi muốn bật khóc, nhưng vì quá sợ nên dằn lại cứ đứng nắm tay chị bếp mà run lây bẩy. Chị bếp cũng run không kém tôi. Mặt chị xanh như tàu lá. Một lát sau ba tôi vào, tôi bật khóc òa, ba tôi bảo: “đừng khóc con, lớn rồi, lính Nhật nó nghe nó bắt đi thì ba không biết làm sao”. Tôi nghe lính Nhật bắt đi bèn ráng nín khóc, chùi nước mắt hỏi ba: “Mấy người lính đó có bắt ba đi không?” Ông lắc đầu: “Không, họ không bắt ai hết”. Tôi nghe thấy an tâm nhưng vẫn còn sợ hãi. Ba tôi sờ xuống quần tôi, thấy ướt vì tôi sợ quá nên tè ra lúc nào không biết. Ông cười và kêu chị bếp đem quần ra cho tôi thay.
Đâu khoảng mấy ngày sau đó, một sáng tôi thức dậy thấy lính Nhật gác depot đã rút đi êm từ tối qua không để lại một dấu vết nào. Ba tôi ra mở cổng và kêu mấy người phu gần đó vào làm nốt mấy công việc còn dang dỡ mấy ngày qua. Đến khoảng xế trưa ba tôi thấy ông sếp Tây Bernard đi cùng mấy viên sĩ quan Nhật trong xe Citroen của ông qua sở gặp ba tôi nói chuyện chi đó thật lâu rồi ông ta lại trở về bên vi-la. Song từ đó trở đi chẳng ai thấy ổng trở lại depot nữa.
Quân Nhật kiểm soát và quản lý về phần hành chánh và giao công việc điều hành nhân viên công tác cho ba tôi. Công việc sở lại chuyển động như cũ. Nhưng trên gương mặt ba và chú Lang cùng mấy người cai và lính đều âu lo thấy rõ. Cuồi năm sau thì ba tôi được lệnh thuyên chuyển lên Vạn giả. Một hôm có người lính củ của ba tôi dưới Hòn lên báo cho ba tôi biết rằng có chiếc tàu bay đậu dưới nước đến đón người xếp Tây đi rồi.
Tình hình biến đổi thấy rõ. Chiến tranh bùng nổ lớn giữa Nhật và Mỹ cùng đồng minh. Nhật hiện thời thôn tính và cai trị nước tôi. Chỉ có một đêm mà chúng giải giới quân Anh và Pháp toàn cõi Đông dương, tiến chiếm xuống tận Mã Lai và Nam dương. Chính sách Đại đông Á ban hành. Quân phiệt Nhật rất là tàn ác! Sau này ba tôi thuật lại rằng có nhiều người Việt lúc đó biết tiếng Nhật mà không chịu làm thông ngôn cho chúng thì chúng chặt đầu mổ bụng! Cũng có nhiều người dân mình đôi khi chỉ vì quá đói, ăn cắp của chúng một lon gạo hay một vật dụng nhỏ nào là chúng cũng chặt tay. Mấy tháng sau nghe đồn có nạn đói lớn đang xảy ra ngoài Bắc nữa. Lý do là vì khi quân Nhật chiếm đóng nước ta họ đã bắt dân ta ngoài Bắc không được trồng lúa, thay vào đó trồng đay (?) cho quân đội Nhật, nên mới xảy ra vụ đói 45 giết cả hàng trăm ngàn đồng bào ta!
Một buổi sáng đang học trong lớp, tụi tôi nghe có nhiều tiếng máy bay trên không phận Hòn Khói. Có cả tiếng súng ầm ầm nổ vang trên trời. Thầy tôi biết có biến nên cho học trò ra sân sau xuống hầm ẩn núp. Trước đó mấy ngày thầy giáo cũng đã cho học trò các lớp biết rằng xứ mình sắp có chiến tranh, nên trường đã cho đào một rãnh mương sâu phía trước sân trường để làm hầm trú ẩn. Khi có biến thì học trò chạy ra xuống hết dưới mấy chiếc mương đó. Sáng nay khi nghe tiếng máy bay, thầy hiệu trưởng chạy ra sân bảo tất cả các phòng học đóng cửa và cho học trò xuống hầm ngay. Ông thổi tu huýt ra lệnh cho các thầy cô di tản gấp học sinh.
Ngồi dưới hầm lộ thiên chúng tôi nhìn lên thấy ba bốn chiếc máy bay hai hình bay thiệt cao, có một chiếc chao qua chao lại. Chốc chốc thấy có hai chiếc máy bay nhỏ hơn bay xẹt qua bắn vào mấy chiếc máy bay lớn trên. Rồi lửa và khói đằng sau đuôi chiếc lớn vọt ra. Tôi nghe có tiếng súng lớn bắn trả lại ở mấy chiếc phi cơ hai hình. Chiếc có đuôi lửa bỗng nổ và cháy rực trên trời, có hai chấm trắng lao ra từ chiếc máy bay lớn, sau đó hai chiếc dù mở ra và có người lắc lư dưới thân dù. Hai chiếc dù rớt xuống biển. Mấy chiếc phi cơ nhỏ đã bay đi mất và biến vào trong mây. Sau đó không còn nghe tiếng phi cơ nữa. Chờ cho máy bay đi xa và thật yên vắng thầy hiệu trưởng mới huýt còi cho học sinh trở lại lớp. Sau đó thầy hiệu trưởng đến từng lớp một ra lịnh cho thầy cô cho học sinh về sớm. Chúng tôi nào biết chiến tranh là gì đâu, tung tăng chạy ra ngõ theo thầy cô mình sắp hàng xuôi về xóm.
Tôi về tới nhà thấy chú Tư đang loay hoay lau bàn ghế ngạc nhiên nhìn lên vì chưa tới giờ đón tôi sao thấy tôi đi về một mình. Tôi thuật lại trận máy bay đánh trên trời và cho biết thầy hiệu trưởng hôm nay cho học trò về sớm. Tôi hỏi chú Tư có thấy máy bay bắn lộn không, chú nói có thấy và chú cũng trốn ở cái mương sau với chị bếp. Chiều về cả xóm đồn rân rằng máy bay Nhật bắn máy bay Mỹ. Thế là trận chiến Mỹ Nhật đã xảy ra trên đất nước nhỏ bé của tôi. Đêm đêm đang ngủ ba con tôi cũng bị thức giấc bởi tiếng máy bay và súng đại liên bắn nhau râm ran cả bầu trời đêm cùng những trái hỏa châu phi cơ thả ra soi sáng cả một vùng trời phía bắc Hòn Khói. Sau này tôi mới biết lúc đó hạm đội của Mỹ đánh Nhật có một số lớn tàu chiến vào nấp ở Vũng Rô.
Mấy tháng sau đó depot Hòn Khói tạm thời đóng cửa. Cai, lính và công nhân bị thôi việc. Ba tôi thì được giấy của trung ương thuyên chuyển lên xem kho muối trên ga Vạn giả. Nói là kho chứ thật sự chỉ là năm sáu toa xe lửa đầy muối, trên lợp lá tranh đậu nấp dưới hàng cây còng. Thế là cha con tôi lại khăn gói quả mướp lên đường rời bỏ Hòn Khói sau một năm tràn đầy kỷ niệm của cậu học trò,- có cái giò [***] đi câu
Chú thích:
(*) lính săng đá: soldat
(**)Thời đó chương trình học 5 năm đầu tiên cho trẻ là: lớp năm, lớp tư, lớp ba, lớp nhì rồi đến lớp nhất. Thi Tiểu học (Primaire) Rồi đến Trung Học: đệ thất, đệ lục, đệ ngủ, đệ tứ, đệ tam. Thi Thành Chung (Diplome). Tiếp đến: đệ nhị, đệ nhất. Thi Tú tài phần nhất…rồi toàn phần.
(***) giò: chân, cẳng.
(+) Hãng SICA (Không nhớ toàn tên, chỉ nhớ các chữ tắt)
Nguồn: MyThanh "Tác giả thân tặng" - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 21 tháng 3 năm 2016