Chương 3 Nếm mùi bom đạn.
Chương 3
nếm mùi bom đạn.
m, ầm, ầm!…Đàn chim đang đậu trên mấy lùm cây gần đó tung bay tán loạn. Mặt đất rung rinh. Tiếng rít của chiếc phi cơ chiến đấu Pháp đang xé gió nhào xuống từ trên không. Đạch, đạch, đạch, đùng đùng…Hàng tràng đạn đại liên tới tấp tuôn ra từ hai bên cánh máy bay xối xả đổ xuống các toa xe lửa chở đầy muối đang đậu ở ga Vạn Giả. Có tiếng ầm vang lớn, tiếp theo là lửa bốc cháy từ các toa xe. Mùi khói súng, mùi khen khét của lá khô cùng tàn của nó bay đầy trong không khí.
Tôi có cảm tưởng như đang có một vật gì thật lớn đè nặng lên thân thể tôi. Bản năng tự vệ khiến tôi đưa tay lên cổ. Nhưng tay tôi bị dính kẹt như có ai đang cầm lấy hai tay mình ghì xuống. Tôi cảm thấy nghẹt thở ở cổ họng. Tôi ráng hét một tiếng thật lớn: Ba ơi! Rồi tắt nghẹn như bị ai bóp cổ, tôi không còn thốt thành tiếng nữa nhưng miệng thì vẫn há to gọi ba.
Từ căn hầm bên kia ba tôi bò lết sang, thấy tôi đang cố vùng vẫy trong đống cát, ông bèn lấy hai tay đào cát ra khỏi thân tôi, miệng vừa trấn an:
“Đừng sợ, đừng sợ, nó bay đi rồi, có ba đây! Không sao đâu..
Sau một hồi cào cát, may mà cát chỗ đó mềm nhưng hai tay ông cũng rướm máu. Ông lôi tôi ra khỏi đống cát trong hầm núp. Cái hầm cá nhân trốn bom của tôi chỉ còn thấy miệng hầm mà thôi. Tôi thoát chết trong gang tấc nếu không có ba tôi bò qua kịp thời, không thì đã bị nghẹt thở trong đống cát! Hú hồn…Hai cha con kéo nhau đứng dậy.
Lửa vẫn còn cháy dữ dội trên các toa xe đầy muối. Khói cuồn cuộn lên thành những cột đen thui. Tiếng nổ lốp bốp của muối và tiếng la ó của quân lính Nhật đóng gần đó chạy ra, ơi ới gọi nhau lấy nước chữa lửa. Ba tôi dìu tôi vào nhà, trên sân tôi đạp phải những vỏ đạn đồng “dum dum”(*) còn nóng hổi. Tôi co cẳng nhảy lò cò. Ông quan sát kỹ tôi từ đầu xuống chân rồi bảo:
“Xong rồi, con không có hề hấn chi mô. Để ba chạy ra ngoài chữa cháy”.
Nói xong ông chạy vụt ra ngoài nhập với đoàn lính Nhật đang đem thùng múc nước dưới ruộng gần đó hắt lên các toa muối đang bị cháy. Kiểm điểm lại thì không có ai bị thương, nhưng ba toa xe muối bốc cháy vì trên trần có lợp lá ngụy trang. Hai toa xe lửa trống bị nổ tung, sườn và thùng xe văng ra xa, bánh xe sắt vỡ ra làm hai ba mảnh, hai đường rầy chỗ đó bị cong lại như hai cái đòn gánh. Nhà ga Vạn Giả cũng bị trúng bom sập tan tành. Chiếc máy bay vừa thả bom xong, bay vút lên trời thật cao, vòng lại áng chừng như để chụp hình quang cảnh đám cháy hay tránh cao xạ của Nhật bắn lên?
Sau cơn chấn động tôi ngồi thở hổn hển mắt nhìn dán vào đoàn người đang chạy lên chạy xuống dưới mương ruộng gần đó. Ông bà Lý hàng xóm kế nhà tôi thần hồn nát thần tính chạy ra chạy vô đâm sầm vào nhau kêu ơi ới! Chị Huệ con ông bà cũng hớt ha hớt hải chạy qua nhà tôi xem tôi có bị thương không? Sau khi biết tôi không hề hấn gì chị lại chạy về nhà trấn an hai ông bà già đang cãi nhau inh ỏi. Chị Huệ thương tôi lắm. Từ ngày ba tôi cùng tôi dọn về đây, ngày nào chị đi rừng về cũng ghé qua nhà cho tôi nào sim chín nào trái mây. Có hôm có cả chà là mật nữa. Sáng nào chị cũng vào rừng cắt giây mây về bán. Một số chị để nhà cho ba má chị gọt chuốt để đan rổ rá. Còn lại chị đem xuống chợ bán cho tiệm đồ gỗ để họ dệt nắp bàn hay ghế. Chị thương tôi như em vì ba má chị chỉ có mình chị là con gái và tôi thì ở một mình với ba. Người con trai trưởng đã có vợ và ra riêng nên không còn ở với cha mẹ từ năm ngoái.
Từ ngày quân Nhật chiếm đóng, sau đó không lâu Sở hỏa xa đã được lịnh ngưng chuyển vận hành khách và hàng hóa vào ban ngày. Xe chỉ chạy có một chuyến vào ban đêm để tránh máy bay Pháp bắn phá. Nhà ga Vạn Giả ở đây cũng đã bị quân Nhật sung công và đóng cửa. Chúng đóng quân cách đó không xa. Mọi việc di chuyển của dân chúng bằng xe hỏa về đêm phải về các ga lớn như Nha Trang hay Ninh Hòa. Lúc ba tôi được thuyên chuyển về đây chỉ thấy có mấy cái toa xe muối và một số toa xe chở hàng trống trơn nằm dọc theo đường rầy thứ hai nấp dưới các tàn cây bàng hay cây còng lớn. Dẫu vậy ba tôi không hiểu tại sao chúng vẫn giữ ông lại đó để trông mấy cái toa muối đó, làm mà không được trả lương.
Ông lo lắng và buồn chán vô cùng bèn gửi thư về trung ương, nhưng cũng chẳng thấy trung ương trả lời. Sau đó mấy tháng có một chuyện hi hữu xảy ra.
Số là hôm đó có một viên sĩ quan Nhật đi với mấy người lính đến gặp ba tôi và ra dấu bảo cho chúng nó lấy đi một số muối. Ba tôi hỏi chứng thư cho phép của cấp trên. Nó lắc đầu bảo không có và ra dấu cho ba tôi là: “nhắm mắt bịt tai” làm như không biết! Theo lịnh của trung ương thì mỗi lần quân Nhật đến lấy muối phải có chứng từ cùng chữ ký của vị sĩ quan coi Sở muối dưới Hòn Khói mới cho lấy muối. Không hiểu tại sao bữa đó lại có cái thằng sĩ quan vô kỷ luật này đến đòi lấy muối, đã không có giấy tờ lại còn bảo ba tôi nhắm mắt làm ngơ làm như không biết. Ba tôi lắc đầu bỏ đi, vậy là hắn ta nhảy xổ tới đứng trước mặt ba tôi rút gươm ra dọa đòi mổ bụng ba tôi.
Không biết trời xui đất khiến gì ông già hôm đó đã không sợ lại còn vạch áo đưa ngực và bụng ra thách nó mổ. Trời đất ơi, ông già chịu chơi quá chừng! Ông bảo với nó rằng ông sẽ đi đến trại đóng quân báo cáo sự việc. Tên sĩ quan bèn vội vàng đút gươm vào vỏ, miệng cười rồi lên xe bảo tài xế lái đi. Sau này khi lớn lên tôi cứ nhắc lại chuyện đó hỏi ba tôi sao không sợ, ông cũng lắc đầu không hiểu tại sao lúc đó ông gan cùng mình vậy? nhỡ nó làm thiệt thì sao? Ông bảo ông nghi rằng Nhật chúng nó cho người đến thử xem ông có tham nhũng bán muối lậu không?
Hôm đó một phen hú hồn hú vía, về nhà ba tôi suy nghĩ mãi tại sao lại có cái màn này? Vì từ khi quân Nhật sang đây thiên hạ đồn rằng chúng nó kỷ luật lắm, ăn cắp là chặt tay chứ đâu phải chơi. Ông suy nghỉ mãi và ngày hôm sau ông quyết định vô trại Nhật gần đó nhờ người thông dịch viên báo cáo lại sự việc với viên sĩ quan trưởng trại. Họ tra hỏi ba tôi lâu lắm, hỏi rằng có nhớ mặt người sĩ quan đó không? có biết tên hắn không? và đi xe mang biển số gì. Ba tôi lắc đầu bảo không nhớ và cũng không biết. Chúng lập biên bản và bảo ba tôi đi về.
Mấy ngày hôm sau có hai người lính Nhật bên trại đóng quân cùng với một anh thông ngôn đi qua nhà tôi. Ba tôi thấy họ đến thình lình thì lo sợ ra mặt, tưởng họ sang bắt mình. Nhưng sau đó thấy họ không có mang súng và anh thông dịch nói rằng mấy anh lính Nhật muốn sang nhà thăm ba tôi chơi mà thôi, chứ không có chuyện chi. Họ hỏi han ba tôi ba điều bốn chuyện chi đó. Ba tôi mời tất cả ngồi và vào trong pha nước trà ra mời họ. Một anh lính Nhật đến bên tôi lấy ra mấy viên kẹo cho tôi, nhưng tôi lắc đầu không nhận, anh lính nhờ anh thông ngôn hỏi tôi tên chi, bao nhiêu tuổi, có đi học đâu không? Tôi đáp:
“Từ khi ba tôi dọn về đây tôi không được đi học vì không có trường.”
Anh lính bảo rằng anh cũng có một người em trai nhỏ bằng tuổi tôi ở bên Nhật. Anh hỏi tôi:
"Em có biết hát không?"
Tôi đáp: "dạ có."
Anh ta hẹn bữa nào rảnh sẽ qua nhà dạy tôi hát bài Shina no yoru! Khi họ về có để lại biếu cho ba tôi một bịch đường trắng và mấy trái dưa chuột. Đó cũng là khẩu phần thường ngày của quân lính Nhật. Dĩ nhiên cũng có những ngày khác đổi món, nhưng tôi để ý thấy hầu hết là họ ăn cơm với dưa chuột cùng đường trắng mỗi ngày. Còn tắm thì cởi truồng tồng ngồng không che đậy chi hết.
“Shina no yo ru”…lúc đó tôi cũng chẳng biết bài đó là bài gì cho mãi đến tuần sau thì thấy anh lính Nhật ấy lại qua nhà tôi, trên tay anh cầm theo cây đàn vuông nhỏ nom giống như cây đàn nguyệt nhưng thay vì tròn thì nó lại vuông. Anh đàn và dạy tôi hát, tôi không thích lắm nhưng sợ và cả nể nên học theo anh. Cây đàn anh khảy với một miếng tre vọt mỏng và nhọn tà một đầu. Tiếng đàn khản đục như nước vo gạo, khô khúc như tiếng mộc chạm vào nhau, không thanh tao như đàn tranh hay đàn kìm của mình. Anh hát ư ử say sưa, gảy đàn cành cạch, tiếng bấc tiếng chì!
“ Shi..i..i..na..no..yo rư …ư…ư.!!”
Hết bài tôi khen anh lấy lòng. Từ đó cứ mỗi tuần anh lính Nhật đều qua nhà tôi dạy tôi hát cùng học tiếng Nhật, nhưng tôi nghe lỗ tai này rồi nó đi ra ở lỗ tai kia, tôi cũng chẳng còn nhớ! Vả lại thời gian đó mà nhà nào giao du nhiều với quân đội Nhật là trong làng lối xóm họ để ý. Một hôm ba tôi bảo thôi con tránh nó đi, vác cần câu xuống dưới xóm dưới đi câu, để khi nào nó sang ba sẽ nói với nó rằng con đi câu với chúng bạn từ sáng rồi. Vài lần như vậy, anh Nhật qua nhà không thấy tôi, riết chán rồi cũng không qua nữa.
Trại đóng quân của Nhật ở cách nhà tôi không xa lắm, đi bộ dăm phút, cách nhà ga độ ba trăm mét. Chúng lập căn cứ trong một căn nhà tranh đầu xóm bao bọc bởi một mảnh vườn rộng lớn, hai bên nhà là hai lũy tre rậm rạp, nằm trên con đường từ nhà ga vào làng. Chúng căng trại dưới tàn tre rậm. Lính Nhật mỗi sáng tập trung trong trại dã chiến chào cờ, xong rồi đua nhau đi nấu cơm rồi tụ tập ăn sáng. Chúng chia nhau gác các chốt hai đầu đường rầy dẫn đến nhà ga ở phía dưới bè ruộng, cùng con đường dẫn vào làng. Từ ngày quân Nhật đến đây đóng quân, dân chúng trong làng không ai dám đi ra phía nhà ga. Hơn nữa ga Vạn giả đã đóng cửa từ lâu, chuyến tàu đêm chỉ đi ngang qua ga chớ không dừng lại. Căn nhà đầu xóm đó của một tá điền khá giả đã bị chúng sung công và chiếm ngụ từ khi mới đến, nên họ sợ và cuốn gói bỏ đi giao cho chúng xử dụng từ lâu. Bên góc nhà đằng trước sân có một cái giếng nước một nửa xây mặt vào trong nhà, một nửa xây ra ngoài đường nhỏ để cho dân chúng trong làng đến lấy nước xử dụng chung. Nhưng từ ngày Nhật đến chiếm cứ thì không một ai còn dám léo hánh đến để gánh nước. Mấy ngày đầu có một vài chị trong làng thử quang gánh đến giếng, quân Nhật đuổi đi không cho lấy nước. Nhưng mà không đuổi mấy chị ấy cũng cạch không bao giờ dám đến nữa, vì trời ơi cả chục thằng lính Nhật sáng chiều hai bận, tồng ngồng như ông A đam đứng ra ven đường cạnh giếng tắm rửa tỉnh bơ. Chúng cười ha hả khi thấy mấy chị lần đầu lò dò đến lấy nước. Chúng xí xô xí xa ngoắc mấy chị lại, trong lúc đó mấy bà chụp thùng vớ đòn gánh chạy trối chết. Từ đó không có ma nào trong làng dám đi ngang qua đó, thỉnh thoảng chỉ có mấy thằng chăn trâu cỡi trâu men bờ ruộng dòm Nhật tắm cỡi truồng rồi về khoe với dân làng trong xóm. Một buổi sáng cả làng nhốn nháo lên vì thấy quân Nhật rút đi âm thầm từ đêm qua. Dân làng tụm năm tụm ba đoán già đoán non, chẳng ai hiểu mô tê gì hết. Họ hỏi ba tôi, ba tôi nói cũng không biết gì, vì có gặp họ thường xuyên đâu? Sau đó ít lâu ba tôi được giấy báo của trung ương cho biết sẽ triệu hồi ông về Đà Nẵng nay mai. Ba tôi vui mừng ra mặt vì thấy thoát được hiểm nghèo, và nếu mà còn ở lại đây thì đói vì tiền bạc dành dụm mấy lâu nay ăn xài cũng đã gần hết.
Lúc đó Pháp đang muốn trở lại Đông dương, miếng đất béo bở phì nhiêu này, sau khi quân phiệt Nhật tước khí giới và cướp đi miếng mồi ngon. Mỹ đang cố tình giúp cho Pháp trở lại bán đảo này nên ngày ngày máy bay Pháp từ ngoài hàng không mẫu hạm Mỹ bay dọc theo các chốt đóng của quân đội Nhật trên các tuyến đường xe lửa thả bom cùng bắn phá vào các cơ sở mà quân đội Nhật đã chiếm đóng của Pháp trước đây. Tình trạng giằng co giữa Pháp và Nhật kéo dài cho đến năm 1945 khi Mỹ thả hai trái bom nguyên tử đầu tiên trên hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật, chấm dứt chiến tranh cùng đuổi Nhật ra khỏi bán đảo Đông dương.
Mấy tháng ở Vạn Giả nhưng sao tôi thấy thời gian nó dài tưởng chừng như cả năm vậy. Ba tôi thì ngày nào cũng phập phồng lo sợ vì không biết quân Nhật sẽ chiếm đóng xứ sở mình trong bao lâu, cũng không biết chánh sách của họ đối với người Việt ta như thế nào nói chung và đối với nhân viên làm cho Pháp cũ ra sao?. Phần cũng vì lương bổng từ ngày thuyên chuyển lên đây chỉ nhận được có một tháng đầu, từ tháng thứ hai đến nay thì không thấy có. Ba tôi bèn qua trại đóng quân của Nhật gần đó để hỏi tình trạng lương bổng của ông như thế nào thì cấp sĩ quan dưới đó bảo không biết và cứ về làm việc như thường. Hỏi nữa thì người thông dịch bảo ông Tướng Nhật ra lệnh phải làm không công một thời gian cho đến khi có lịnh mới. Trung ương thì biệt tăm không có chỉ thị hay liên lạc gì hết.
Mấy tháng trước ba tôi có lần muốn xuống Hòn Khói để hỏi xem tình trạng và người chỉ huy dưới đó ra sao, nhưng quân Nhật không cho ba tôi rời nhà và bắt phải ở lại Vạn Giả để xem xét các xe muối từ dưới Hòn Khói giao lên cùng ký giấy cho Nhật khi họ muốn di chuyển muối đi các nơi khác.
Thực ra công việc ở đây chẳng có gì vì ngày ngày mỗi sáng cha con tôi cứ lắng tai nghe tiếng máy bay của Pháp u u từ xa là vội chạy ngay lao xuống hầm trú ẩn. Máy bay qua rồi thì trèo lên vào nhà đi vô đi ra cho hết ngày. Khi nào có lính Nhật tới kêu ba tôi ra ga ký nhận giấy tờ xe muối thì mới ra mà thôi. Mọi việc chuyển muối từ xe rùa sang xe lửa đã có quân đội Nhật làm. Ba tôi không hiểu tại sao họ không sa thải ổng mà cứ bắt ông ở đó như làm con tin.
Hầu hết các lần trước máy bay Pháp có bay ngang qua rồi thôi, cũng có lúc bắn xẹt xẹt vài tràng đại liên rồi cũng bay luôn. Nhưng hôm nay chắc quân Pháp có tin tình báo cho biết mấy toa xe lửa muối ngụy trang đang nằm che lấp dưới các tàng cây còng lớn ở ga Vạn Giả hay sao mà nó làm dữ, thả bom và bắn phá nhiều hơn các lần trước. Vì máy bay Pháp dùng chiến thuật bắn phá thần tốc rồi bay đi ngay nên quân Nhật không trở tay kịp và cũng không thấy phòng không bắn trả, hay quân Nhật sợ khi phòng không bắn lên Pháp sẽ biết chỗ đóng quân của quân đội Nhật. Quân Nhật di chuyển luôn luôn, không khi nào ở nguyên một chỗ quá hai ba ngày.
Vào thời gian hỗn độn đó ba tôi thật không biết xoay xở làm sao, vì không làm cho Nhật thì chúng cắt cổ chặt đầu, mà làm thì không có lương để sống. Trong lúc đang tiến thối lưỡng nan, thì ba tôi được lịnh ở Nha quan thuế trung ương cho biết Tây đã trở lại và bảo phải ở yên tại đó chờ cho đến khi Sở chuyển vận Hỏa xa cho nhân viên địa phương sửa chữa thay thế những khoảng đường rầy đã bị máy bay Pháp đánh phá hư hỏng từ trước. Một số nhà ga cũng đã trùng tu lại và sau một thời gian ngắn Sở Hỏa Xa đã tái lập lại các tuyến giao thông ban ngày.
Những ngày ở Vạn Giả còn buồn thảm hơn ở Hòn Khói. Tôi chỉ biết ngồi nhà lấy sách vở cũ ra ôn lại. Ba tôi cũng tiếp tục dạy Toán và Pháp văn cho tôi. Học xong tôi chạy sang nhà ông bà Lý xem họ đan rổ rá và chờ chị Huệ đi rừng về để ăn trái mây và sim. Cũng có bữa tôi ra đường rầy kép chơi với chúng bạn trèo lên xe rùa hai đứa đứng hai bên, mỗi thằng cầm cán đẩy lên đẩy xuống cho xe rùa chạy. Nhưng chúng tôi không dám đi xa vì thật sự xe rùa đâu có ra được phía ghi mà kiểm soát viên của ga cho phép. Ban đêm chuyến tàu đi ngang sẽ đụng phải và chỗ đó cũng đã có cái khóa kềm xe lại rồi. Buồn nhất là chiều chiều ngồi trong nhà nhìn ra phía xóm dưới. Xóm nhà tranh ẩn khuất sau lùm cây, khói nấu cơm chiều bay lên lãng đãng. Chợt có tiếng ru con văng vẳng vọng qua. Tiếng võng kẽo cà kẽo kẹt, và giọng ru mới buồn thảm làm sao:
“Cú mà kiu, ba tiếng, cú mà kiu…
Anh đang giả nếp..í..nấu chè phai (khoai) đợi cú dìa (về)..!!”
Một buổi sáng, một nhân viên nhận tín hiệu morse ở nhà ga cho người chạy đến nhà trao cho ba tôi một cái giây thép (điện tín) Trung ương gọi ba tôi hãy về gấp lại Đà Nẵng, nhận nhiệm vụ mới và để lãnh rappel (**). Ba tôi hớn hở, lòng như mở cờ, rối rít xếp gọn hành trang để sửa soạn sáng mai lên đường. Mười một giờ trưa hôm sau con tàu lù lù đến mang theo nỗi vui mừng của hai cha con tôi vui không xiết kể. Sáng đó trên sân ga cũng có hai vợ chồng bác Lý hàng xóm lẫn chị Huệ ra tiễn đưa. Cả bọn năm người nước mắt chạy quanh, riêng tôi vừa khóc lại vừa mừng, miệng méo xệch; nếu có chiếc gương mà soi thì chắc mặt tôi lúc đó không giống một con giáp nào cả.
Chú thích:
(*) Dumdum: Một loại đạn xuyên phá mà quân đội Anh dùng trong Đệ nhất thế chiến. Họ lấy tên một cái làng bên Ấn là “Damdam”,( phía Tây vịnh Bengal) để đặt tên cho loại đạn đó.
(**) truy lĩnh phụ cấp
Nguồn: MyThanh "Tác giả thân tặng" - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 21 tháng 3 năm 2016