← Quay lại trang sách

Chương 4 Bắt đầu cơ cực

Chương 4

bắt đầu cơ cực

our-âne”…Tiếng nhắc của ông Tây soát vé “contrôleur” trên toa xe lửa hạng nhì có cút sết (*) làm tôi bật ngồi dậy ngay. Ngoài nhiệm vụ soát vé khi nào xe lửa sắp đến ga lớn ông ta còn có nhiệm vụ đi từng phòng ngủ nhắc cho hành khách biết tên ga sắp tới. Nghe tiếng “merci” của ba tôi, tôi vội vàng đứng dậy, tay nắm lấy chiếc va li. Ba tôi bật cười:

“Chưa tới mô con! còn ít nhất cũng năm mười phút nữa.”

Xe bắt đầu vào ga và chạy chậm lại. Tiếng xì xịt của cái thắng hơi nước bắt đầu nhả ra. Đoàn xe đi qua khúc quanh hai hàng bánh sắt cọ vào đường rầy nghe bắt rợn người! Tiếng còi tàu báo sắp đến ga vang lên lanh lảnh cùng tiếng thắng xe rít lên nghe như chuột rúc! Khói và mùi than cháy len vào toa tàu làm tôi khó chịu vô cùng. Tôi đưa tay lên che miệng và nuốt vội miếng nước bọt đánh ực. Hành khách lố nhố thò đầu ra cửa sổ dòm qua lại và bắt đầu gọi nhau ơi ới sửa soạn hành lý để xuống ga. Đoàn xe từ từ chạy chậm rồi dừng lại, tiếng hơi nước xả ra nghe một tiếng xì ii… thật dài, mấy toa xe cụng vào nhau đánh rầm, con tàu lắc một cái thật mạnh làm cho hành khách ai cũng lắc theo, rồi đứng hẳn.

“Tour âne”!!! Người Pháp đến cái xứ sở của tôi vào những năm mà ông bà cố nội ngoại tôi còn là những đứa trẻ con. Họ đi một vòng làng này bằng con lừa rồi trở lại khởi điểm, gọi là một: “tour”, con lừa: “âne”. Ghép hai chữ vào một nên gọi là Tourâne. Từ đó họ giở nón chào thành phố của tôi bằng cách bỏ cái dấu ^ trên chữ a của con lừa, và đặt tên cho cái thị xã của tôi bằng tiếng Phú lang sa(**) của họ là: Tourane!

Đó là giai thoại của mấy cụ tôi từ thời Tây bảo hộ kể lại. Tôi là hậu sinh nhưng không khả úy nên các cụ bảo sao nghe vậy! Sau đó chính quyền thời thủ tướng Trần trọng Kim đặt lại tên Việt là Đà nẵng.

Đà nẵng, quê tôi là một phố thị hiền hòa nằm tựa ven biển ở miền Trung. Phía bắc ngăn cách tỉnh Thừa thiên bởi ngọn đèo Hải vân. Phía Nam có dãy núi Ngũ hành trấn giữ. Lưng dựa vào dãy trường sơn trùng điệp ngút ngàn, có vùng nghỉ mát Bà Nà và phía Đông trông ra biển Nam Hải. Con sông Hàn cắt đôi thành phố từ Đông Nam đổ ra vịnh và cửa Hàn, tạo ra bên mặt một bán đảo nhỏ gọi là Mỹ Khê chạy dài đến biển và giải đất chấm dứt với ngọn Sơn Chà. Bao quanh Đà nẵng lúc đó thêm bốn làng chài có tiếng: Thanh Khê, Hà Khê, Cu Đê và Nam ổ. Ven sông từ chợ Hàn xuống Trẹm là một hàng cây phượng rủ cành xuống tận bờ sông. Mùa hè hoa phượng đỏ rực, chèo thuyền ra giữa sông mà ngắm, cảnh đẹp tựa trong tranh.

Sau khi theo ba tôi từ cuối tỉnh miền Trung trở về. Đà nẵng năm 45 cũng vậy, không khác chi từ lúc tôi mới ra đi. Thành phố nhộn nhịp và tấp nập hơn một tí. Xe kéo vẫn kéo những ông Tây bà đầm đi chợ, mấy thằng nhỏ ba nhe (***) vẫn đứng xớ rớ dưới chợ Hàn! Phú lít Tây còn đứng trên cái bục tròn trên có mái dù che nắng giữa mỗi ngả tư, tay cầm ma trắc làm ‘chim bay cò bay’ chỉ đường cho đám xe kéo! Dân tôi vẫn còn đi bộ nhiều, vài chiếc xe đạp hiệu Peugeot cũ kỹ do các thầy cai phú lít Tây và Ta đạp lên đạp xuống dọc đường bờ sông để rình phạt mấy người đái đường hay rượt bắt mấy chị bán hàng rong ngồi không đúng chỗ.

Chợ Hàn nhóm ngay cạnh bờ sông. Bạn hàng bán cá và rau quả ngồi la liệt bên nhau phía mé sông cạnh những thúng cá tươi có con còn nhảy đồm độp xen lẫn những mẹt rau quả vừa mới chuyển từ dưới ghe lên. Phía bên trong là một số sạp tre có mái che, cái thì che bằng tranh hay vải bạt. Một số sạp gỗ dành cho bạn hàng bán đồ khô cùng vải vóc, trên mái lợp mấy tấm tole thiếc củ kỷ rỉ sét đà ngã sang màu vàng sẩm.

Anh tây lai thâu thuế chợ cho Tây ở đâu trờ tới dựng chiếc xe đạp cạnh cây cột đèn lấy cái xích sắt khóa chiếc xe cẩn thận rồi lững thững đi vào chợ trên

tay cầm xấp tem phiếu thâu tiền chỗ. Gương mặt anh đanh đá lạnh lùng, anh dừng lại trước một chị bán cá ngồi chồm hổm đang loay hoay cúi xuống xếp mâý con cá lại cho ngay ngắn. Chẳng nói chẳng rằng anh điềm nhiên dán một con tem ngay trên chiềc nón lá cuả chị ta rồi im lặng ngữa tay chờ chị đưa tiền. Chờ một chặp không thấy chị bán hàng nhúc nhích, mặt anh đanh lại, anh quát một tiếng thật to:

“Đóng thuế!”

Chị bán hàng giật thót cả người ngẫng mặt lên rầu rầu than vãn:

Chu choa mẹ wơi, sáng mới tới đã bán được đồng xu cắc bạc chi mô mà đóng thuế rứa anh!?

Không mô tê chi hết, đóng trước liền đi không thôi thì dẹp.!

Thế là có một màn năn nỉ ỉ ôi của chị bán cá:

Ăn ở chi ác đức rứa anh? Tui đã bán được đồng cắc chi mô mà mà…lấy thuế, chớ tiền mô mà đóng bây chừ! Mà anh dán tem xanh hay tem đỏ rứa?

Dường như quá quen với cái lối cù cưa ngoan cố của mấy chị bán cá, anh thâu thuế không muốn dài dòng cải cọ. Anh sẵng giọng quát to:

Định giỡn mặt hả? Có đưa không thì nói? Năm cắc hay muốn lên một đồng?

Xem chừng cò cưa với thằng cha Tây lai ni không ăn thua chi, chị bán cá lặng lẽ đành móc túi lấy mấy cắc bạc đưa cho hắn. Đợi hắn đi một quảng xa chị mới lầu bầu rủa nhỏ trong miệng: cái đồ mắc dịch! Sáng ra chưa bán chi mà quỷ đã tới ám! Chị bán rau ngồi cạnh cũng nguýt gã thâu thuế một cái thiếu đều muốn lác mắt, song chị cũng chẳng dại gì mà dây dưa với gã, chị móc sẵn tiền ra cầm đó đợi đến lượt chị thì cũng cúng cho hắn đi cho khuất mắt. Gã Tây lai thâu thuế đi một vòng chợ, xấp tem phiếu trên tay hắn đã vơi gần hết chỉ còn trơ lại cái cùi, nhưng cái túi dết nhỏ hắn mang trên vai thì đã no tròn bạc cắc. Gã đủng đỉnh đi ra phiá chiếc xe đạp của gã, bỏ lại sau lưng những tiếng càm ràm của bạn hàng mà chắc gã nghe mãi hằng ngày hầu như phát nhàm phát chán.

Đó là một trong những hoạt cảnh đa dạng mà người dân Đà nẵng phải cúi mặt xấu hổ chịu đựng trong thời thực dân bảo hộ. Nhưng năm nay cái lo lắng của người dân và đám Tây thuộc địa thấy rõ hơn vì dân nước tôi đã vùng dậy sau gần 80 mươi năm đô hộ, nét âu lo hằn rõ trên gương mặt mỗi người.

Chiến tranh đã thực sự xảy ra trên đất nước tôi. Những tên tuổi có tinh thần quốc gia chống Pháp như Phan chu Trinh, Phan bội Châu, Huỳnh thúc Kháng v.v… những nhà cách mạng thuần túy được người dân Quảng Nam- Đà nẵng lúc đó nhắc nhở trên môi một cách kính cẩn, bảo trọng và ngưỡng mộ. Ngoài ra người ngoài Bắc vào đã đồn ầm lên rằng Tây đang ký hiệp định trả lại Việt Nam cho mình. Người ta cũng đồn miền Trung sắp đói đến nơi, nhà nhà phải ăn đổi bữa, thêm sắn và khoai, thay vì ba bữa cơm như trước. Mặc dầu nhà tôi chưa đến nỗi phải bữa đói bữa no, nhưng mỗi buổi sáng tôi không còn được ăn mì ăn bún hay ăn xôi, mà thay vào đó những bữa khoai hoặc sắn. Người dân miền Trung vốn dĩ đã thắt lưng buộc bụng từ lâu nay phải thắt thêm để có gạo đem ra Bắc nuôi đồng bào ngoài đó.

Tiếng đồn Việt minh nổi dậy đánh Tây đâu ngoài Bắc, nhưng trong này dân chúng cũng rộn lên không kém. Tôi nhớ cậu Út tôi cũng xung vào đội thanh niên xung phong của xóm, ban đêm lén nhà đi họp ngoài bưng? Nghe nhũng danh từ mới như bưng biền, chiến khu, những danh từ lạ hoắc hoặc cùng những bài ca hùng tráng như: “Chiều nay trên chiến khu trong rừng chiều.” mà từ bé đến nay tôi có nghe thấy đâu, bèn hỏi cậu Út thì cậu thì thầm vào tai tôi:

“Bưng là ngoài rừng” nhưng con nít đừng nói bá láp Tây nó nghe thì chết…

Rứa là thằng nhỏ dạ ran xin giữ kín, nhưng khi ông ngoại nghi tôi biết mà dấu ông, ông cầm roi nhịp nhịp hỏi tôi:

“Thấy cậu Út mày đâu không?”

Tôi rét run dưới cái roi mây, bèn ghé tai ngoại thưa nhỏ:

“Cậu đi ra bưng đó ông Ngoại”!

Ngoại tôi giựt mình đánh thót…“Chết cha! thằng nhỏ này bị mấy thằng trời đánh dụ khị rồi.!” Tôi cũng chẳng biết mình nói như vậy có hại chi cho cậu Út không, nhưng mấy ngày sau đó thì tôi thấy rõ cái tai hại của cái miệng tòa loe không giữ kín. Cậu tôi giận tôi ra mặt. Ông hầm hầm chỉ vào mặt tôi và nói:

“Lần sau mà mi khai với ông là tao thiến d..ái mi chớ không chơi mô?

Bất chợt nghĩ đến cái ông thợ thiến heo mỗi ngày đi qua nhà tôi rao: “Ai thiến heo không? là tui rụng rời chân tay, hết dám hỏi han và từ đó biết giữ mồm giữ miệng!

Về lại Đà nẵng, ba tôi tiếp tục cho tôi đi học lớp nhì ở trường Lyceé. Học trường Tây nhưng tôi với mấy thằng bạn An nam ghét tụi Tây con đáo để. Tụi mặt trắng dã mũi lõ đó kỳ thị hết chỗ nói. Giờ học thì ngồi chung, tới giờ ra chơi là chúng họp riêng lại một nhóm và chơi với nhau. Có mấy thằng Tây lai cũng hùa theo tụi nó, nên tụi tôi cũng lập một nhóm An nam mít chơi riêng. Thường thì học trò An nam nhiều hơn Tây, chúng tôi chơi đá cầu. Một hôm thằng Rô trong nhóm tôi tức giận thằng Henri sao đó, giờ ra chơi nó bèn rỉ tai với tụi tôi là để nó đá phạt thằng Henri cho mà coi.

Thằng Rô đá cầu rất giỏi. Hắn có cú đá tài tình lắm là móc cái chân đá ngược ra sau. Nói là làm. Bữa đó hắn đá cầu với tụi tôi môt chặp rồi bỗng nhiên la lên:

“Coi nè!”

Rứa là hắn lộn mèo đá trái cầu cái chóc vô mặt thằng Henri đang đứng lớ quớ nói chuyện với mấy con đầm nhỏ cách đó không xa. Thằng Henri hôm đó đang cười cợt với mấy con Hélene và Agnes, thình lình bị một cú đá móc của thằng Rô, trái cầu ở đâu bay vụt ngay vào trán nó xớt một đường máu chảy rịn trán. Thế là cu cậu ôm mặt mước mắt chảy ròng ròng chạy vào mét thầy hiệu trưởng.

Một cuộc gây gổ ỏm tỏi suýt đòi đánh nhau giữa bọn tây con và tụi mũi tẹt. Đám đầm con cũng sợ quá phú lĩnh đâu mất tiêu! Mấy thằng tôi còn đứng xớ rớ đó mặt thằng nào thằng nấy xanh lè như tàu lá chuối non. Khi thấy thầy hiệu trưởng dắt thằng Henri đi ra phía chúng tôi, mấy đứa chúng tôi đứng chết trân vì biết chắc thầy hiệu trưởng không đánh thì cũng đuổi một trong mấy đứa chúng tôi, chớ không tha cho cái vụ này. Sau khi hạch hỏi kỹ bọn tôi, “ai đá?” đứa nào cũng chối không cho biết rằng cú đá đó là của thằng Rô. Thầy hiệu trưởng giận ra mặt cầm cái roi mây chỉ vào mặt tụi tôi và mẹt xà lù rầm lên, vì ba thằng Henri là bạn của ổng và là Sếp sở mật thám Đà nẵng. Thằng Rô có trốn đàng trời cũng bị ổng lôi ra, nhẹ là đánh đòn, nặng là đuổi. Chúng tôi đứa nào cũng im re, chối bai bải đổ thừa tại nó đứng gần, tụi con đá trật chứ không cố ý.

Thầy hiệu trưởng bèn đem thằng Henri vô phòng lấy cồn xoa vết trầy rồi bảo nó thôi đừng tới gần mấy thằng A na mít nữa. Hú vía, tụi tôi vô lớp mà còn run. Sau này mấy con đầm cái mét thầy hiệu trưởng nên thằng Rô bị đuổi còn tụi tôi thì không được phép chơi trò đá cầu nữa!

Không đá cầu thì bắn bi. Dạo đó tụi tôi mua bi bằng đá cẩm thạch non lấy ở núi Non nước. Bi mua lại của thằng Rô, (lại cũng thằng Rô là đầu têu), nó biết tụi tui chịu chi mua bi cẩm thạch nên nó lên mấy chỗ làm bia mộ xin đá vụn về mướn mấy thằng ba nhe ngoài chợ Hàn khi nào rảnh rỗi không có việc chi làm thì mài cho nó. Nó gặp tụi tôi ngoài cổng trường sau giờ tan học bán 10 bi một dát (cắc bạc) trong khi nó trả cho mấy thằng ba nhe một cắc tới 20 chục hòn. Mới 10 tuổi đầu mà nó đã biết buôn bán, thảo nào 20 năm sau gặp hắn ta tại Saigon, hắn nghiễm nhiên là ông chủ bự có hãng nhập cảng buôn đồ nhựa (plastic). Chúng tôi nhắc lại kỷ niệm thưở ấu thời đó và cười đến đau cả bụng!

Chẳng may vào đầu hè 45, sau khi má tôi ngã bệnh, bác sĩ khám phá ra là má tôi bị lao xương. Bệnh viện Đà nẵng không đủ tiêu chuẫn mổ bèn gửi má tôi ra Huế để tái khám và chuẫn bị phẫu thuật, vì có vị thạc sĩ y khoa giỏi chuyên về phẫu thuật ở đó. Thế là cha mẹ con cái lại lục tục lên đường ra Huế, vì thế việc học của tôi bị gián đoạn. Tôi tiếc ngẩn tiếc ngơ những ngày học hành vui vẻ tại mái trường Lycée Đà nẵng mặc dầu có hôm đi học về tôi oang oang học bài sử ký: “Nos ancêtres sont des Gaulois” (+) làm ba tôi tức cười muốn bể bụng, phần tôi nào có hiểu gì đâu, học và đọc như con vẹt!.

Xe lửa lại đưa ba mẹ và hai anh em tôi ra Huế. Vì mẹ tôi đau cột sống không thể ngồi lâu được, nên ba tôi phải mua 5 vé, 1 vé đôi cho mẹ tôi có chỗ nằm. Khi lên tàu ông báo cho người soát vé rằng ông cần móc cái võng lên hàng ghế cho mẹ tôi nằm vì bà bịnh lao xương sau lưng, không ngồi được. Người soát vé thấy bà có 2 vé nên đồng ý dành riêng cho chúng tôi một dãy ghế 5 chỗ liền nhau, nơi đó ba tôi căng võng cho bà và hai đứa tôi thì ngồi sát phía dưới. Băng tàu hạng nhì có phần rộng rãi hơn và lòng ghế được đóng bằng những thanh gỗ dọc dài có khe hở để cho hành khách ngồi khỏi phải nóng đít và lưng.

Chiều hôm ấy chúng tôi đến ga An cựu. Nơi đây ba tôi phải vất vả lắm để thuê một cái xe ngựa cho mẹ nằm và chở thẳng đến nhà thương Huế.

Sau khi làm thủ tục nhập viện cho mẹ tôi xong thì đã quá khuya. May quá ba tôi cũng đã lo mua quà cho chúng tôi lót dạ ở ga An cựu trước khi đến nhà thương nên chúng tôi cũng không thấy đói. Vì đã nửa đêm nên ông xin phép người y tá cho hai đứa tôi vào ngủ đỡ trên một cái băng dài dành cho khách đến thăm nuôi. Lạ chỗ phần vì nhà thương hôi mùi crésyl (bleach) quá nên tôi trằn trọc mãi. Còn ba tôi thì thao thức suốt đêm bên mẹ cho đến sáng. Vì ba tôi cũng đã lo trước nên hôm sau có người chị bà con bên Cồn qua đón chúng tôi về nhà họ. Chúng tôi lót tót theo chị về Cồn, ba tôi phải ở lại với mẹ tôi để lo gặp các bác sĩ phẫu thuật. Từ ngày về ở bên Cồn anh em tôi được chị bà con dắt đi chơi dưới Vỹ dạ, được ăn bắp Cồn, chè Cồn, một loại chè bắp trồng ở Cồn nấu chè ăn dẻo và ngon đáo để. Thỉnh thoảng chị rảnh rỗi cũng dắt tụi tôi vào thăm mẹ tôi.

Theo lời ba tôi thuật lại, mẹ tôi bị lao xương tới thời kỳ phải mổ ngay tức khắc nếu không lao sẽ lan ra các khúc xương khác làm hư lây, thối tủy cùng biến dạng cột sống. Sáng ngày thứ ba má tôi được đưa vào phòng mổ ngay để lấy khúc xương sống bị lao. Bác sĩ dùng một khúc xương nhỏ dưới ống chân của bà để thay thế, nên bà bị mỗ hai chỗ, vừa trên lưng, vừa dưới ống chân. Sau đó bà nằm lại nhà thương khoảng một tháng. Bác sĩ cho về nhưng bà bị liệt cả hai chân không còn đi được nữa. Thế là hết bịnh này lại xoay sang bịnh khác! Ba tôi đành phải tính chuyện mang bà trở về lại Đà nẵng. Tôi còn nhớ ông phải đặt cho bà một chiếc giường đặc biệt bằng mây đan có lỗ để bà nằm cho êm cái lưng và mát người, vì lúc đó làm gì có nệm!

Ngày rời nhà thương cũng là ngày Huế chạy giặc vì tiếng đồn Việt minh đánh vào thành phố Huế nay mai. Thiệt là phước bất trùng lai, họa vô đơn chí!! Ba tôi tức tốc đưa ngay mẹ tôi lên xe lửa cùng chúng tôi xuôi Nam. Một cuộc hành trình vô cùng khó khăn mà tôi còn nhớ mãi trong lòng. Nội nhờ người đem nguyên chiếc giường và bà lên xe lửa cũng là một chuyện trần ai! Phải đút nguyên chiếc giường và bà qua cửa sổ thay vì cửa bước lên xe. Nhưng rốt cuộc mọi việc cũng đâu vào đấy. Về đến Đà nẵng cũng đà yên đâu, tiếng đồn Việt Minh đã tấn công vào Huế, người dân ngoài Huế lũ lượt tản cư vô Đà nẵng. Ba tôi lòng dạ rối bời, ngày ngày giao mẹ cho hai đứa tôi canh giữ. Ông ra Sở xin phép thôi việc để đưa vợ con về quê lánh nạn. Phải lo bán cửa hàng và đồ đạc gấp. Cũng nhờ vậy mà gia đình tôi có một số tiền kha khá để đi tản cư.

Mẹ tôi nằm liệt trên giường, tuy đã hết cảnh lo thuốc thang, nhưng cơm nước tôi phải đành thay ba lo cho mẹ và em nhũng lúc ba phải chạy ra ngoài lo công việc. Từ đó trở đi tôi bắt đầu nếm mùi cơ cực, và cũng nhờ vậy mà tôi rất thành thạo trong việc nấu cơm, kho cá, cùng những công việc lặt vặt bếp núc, mà lúc đó mẹ tôi nằm trên giường chỉ cho tôi. Tôi cũng phải trông chừng thằng em lúc đó đã được 7 tuổi, lo cơm nước tắm rửa cho em cùng dạy cho nó học vỡ lòng. Tôi làm công việc của một chị hai.

Một buổi sáng ba tôi đi tới trưa mới về bảo mẹ và chúng tôi sẵn sàng để ngày mai tản cư về làng của ông. Ông đã thuê được một chiếc ghe bầu để chở cả nhà ra đi. Nhà sẽ đóng cửa bỏ đó, căn tiệm vải của má tôi thì cũng đã dẹp và bán đi từ lâu. Má tôi nghe thì khóc và cả nhà buồn phiền song biết sự ra đi là rất cần thiết cho cả gia đình. Theo cha về mới có mấy tháng lại phải đi ngay ra Huế rồi bây giờ lại phải xa Đà nẵng vì chiến tranh, thật cái số tôi sao mà lận đận chẳng ở đâu được lâu! Nghĩ như vậy trong lòng tôi thật buồn vô hạn.

Chú thích:

(*) couchette: giường nằm trên xe lửa

(**) Phú lãng sa, phiên âm Việt của từ Français.

(***) ba nhe: tiếng Pháp là panier: cái thúng, người đội cái thúng. Thời đó ở các chợ miền Trung có một số thanh niên vô nghề nghiệp tụ họp tại chợ để khuân vác hay đội thúng thuê giúp khách hàng mua bán gọi là ba nhe. Từ này cũng có nghĩa bóng gọi những kẻ đó là dân du côn ngoài chợ.

(+) tổ tiên chúng ta là dân Gaulois (Tây)


Nguồn: MyThanh "Tác giả thân tặng" - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 21 tháng 3 năm 2016