← Quay lại trang sách

Chương 3 TẠO THẾ MỚI - LỰC MỚI

Một trong những điều rất đáng tự hào đối với Đảng ta là trong cả quá trình lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng lâu dài, Đảng luôn biết sáng tạo thời cơ và chủ động đón thời cơ chiến lược để đưa cách mạng đến những bước ngoặt quyết định. Và mỗi chặng đường thắng lợi đó đều được đánh dấu bằng một quyết tâm chiến lược đúng dắn, kịp thời của Đảng.

Từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 11 năm 1939), lần thứ 7 (tháng 11 năm 1940), nhất là từ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5 năm 1941) khi Hồ Chủ tịch về nước lãnh đạo cách mạng Đảng đã xác định rõ con đường đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân và việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang để đón thời cơ chiến lược.

Trước và trong Cách mạng tháng Tám, tiếp theo chỉ thị ngày 12-3-1945 "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" (phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước chuẩn bị tổng khởi nghĩa) và khi Nhật vừa đầu hàng Đồng minh, Đảng quyết định chớp thời cơ phát động toàn dân tổng khởi nghĩa, nhanh chóng giành chính quyền trên cả nước.

Trong kháng chiến chống Pháp, Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng (tháng 9 năm 1953) dẫn đến thắng lợi Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.

Trong kháng chiến chống Mỹ, bằng Nghị quyết 15 (năm 1959), Đảng hạ quyết tâm phát động khởi nghĩa vũ trang từng phần, bắt đầu bằng cao trào "đồng khởi" và sau đó từng bước đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và tay sai. Khi quân Mỹ ồ ạt kéo vào miền Nam, với Nghị quyết 12 (đầu năm 1966), Đảng quyết định tiếp tục phát triển thế tiến công chiến lược từng bước đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của địch. Và vào giữa năm 1978 này, chỉ 5 tháng sau Hiệp định Paris, Nghị quyết 21 của Trung ương(1) khẳng định tiếp tục con đường bạo lực cách mạng, tiếp tục phản công và tiến công địch, làm thất bại âm mưu chiến lược mới của Mỹ-nguỵ, mở đường đi tới thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng miền Nam. Nghị quyết 21 có tầm quan trọng đặc biệt: xác định đúng hướng đi của cách mạng miền Nam trong giai đoạn cuối của gần 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, của cả 30 năm chiến tranh giải phóng.

Từ thực tế trên đây, có thể khẳng định: trên mỗi chặng của cả con đường đấu tranh lâu dài, Đảng luôn đánh giá đúng tình hình, dự kiến đúng thời cơ, chủ động đi trước một bước trong việc chuẩn bị chiến lược, huy động sức mạnh, tổng hợp của toàn dân để kịp tạo nên thế mới, lực mới, giành thắng lợi từng bước ngày càng lớn.

Đó là một trong những điểm nổi bật về tài thao lược của Đảng ta trong lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng.

Sau khi dự Hội nghị Trung ương lần thử 21 (đợt đầu), tôi chuẩn bị trớ lại chiến trường để cùng các anh trong đó chuẩn bị cho kịp cuộc họp Trung ương Cục, dự định vào khoảng tháng 9.

Anh em quân y đề nghị tôi đi kiểm tra sức khỏe trước khi lên đường. Ba tháng qua, kể từ ngày ở chiến trường ra Bắc, sức khỏe tốt khiến tôi rất yên tâm. Nhưng điều không ngờ đã xảy đến.

Các bác sĩ kiểm tra và kết luận tôi đã bị nhồi máu cơ tim một lần và đang bị sỏi thận, phải mổ. Theo đề nghị của Hội đồng bác sĩ, Ban Tổ chức Trung ương quyết định tôi sang điều trị ở Cộng hoà dân chủ Đức. Trù tính ít nhất chừng ba đến bốn tháng cả chữa bệnh và đi, về.

Tôi phân vân, trao đổi ý kiến với các đồng chí trong Thường trực Quân uỷ và điện xin ý kiến anh Phạm Hùng. Các anh khuyên tôi nên đi chữa bệnh, "cuộc chiến đấu còn dài".

Tôi dành thêm nửa tháng làm việc với các cơ quan, giải quyết tiếp những vấn đề cần thiết cho B2 và gửi điện đề đạt với Trung ương Cục những ý kiến riêng về việc triển khai Nghị quyết 21.

Ngày 13 tháng 7 tôi lên đường sang nước bạn.

Trở về nước vào cuối tháng 11, mang theo những ấn tượng sâu sắc, tốt đẹp về tình hữu nghị anh em và sự chăm sóc tận tình của các đồng chí cán bộ y tế Cộng hoà dân chủ Đức, về công cuộc xáy dựng, phát triển kinh tế và đời sống của nhân dân nước anh em.

Chiến tranh đã chấm dứt trên đất nước này gần 30 năm. Tinh thần lao động quên mình của nhân dân Cộng hoà dân chủ Đức trong mấy chục năm qua đã đưa lại cuộc sống không ngừng được cải thiện như ngày nay. Tôi suy nghĩ nhiều và liên hệ đến viễn cảnh của đất nước ta khi sự nghiệp giải phóng miền Nam hoàn thành, đất nước được thống nhất, chúng ta sẽ đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa như thế nào trong điều kiện một nước nông nghiệp, sản xuất nhỏ, lại chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh tàn phá và của chủ nghĩa thực đân cũ và mới của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ để lại.

Về tới Hà Nội, tôi điện báo cáo với các anh trong Trung ương Cục và Bộ tư lệnh Miền. Mùa khô đã đến. Tôi khẩn trương làm việc với các cơ quan Bộ, nắm tình hình các mặt liên quan đến nhiệm vụ sắp tới ở B2 và chuẩn bị lên đường trở lại chiến trường.

Tôi được các anh trong Thường trực Quân uỷ Trung ương cho biết những quyết định mới nhất về chủ trương tác chiến, về trang bị và số quán bổ sung, về công tác cán bộ và phương hướng công tác chính trị tư tưởng. Tôi yên tâm về khả năng hoàn thành nhiệm vụ của chiến trường trong mùa khô này và các bước tiếp theo.

Trung tuần tháng 12, tôi gửi một bức điện trả lời các anh Phạm Hùng, Trần Văn Trà, về kế hoạch chi viện cho chiến trường năm 1974:

"Tôi đã nhận được điện của các anh hỏi về số quân và trang bị mà Bộ chi viện cho B2 trong năm tới. Về số quân, con số cuối cùng được Bộ xác định bổ sung cho B2 là 26.000.

"Một điều, khiến tôi rất mừng, lần này Tổng cục Hậu cần và Đoàn 559 chuyển số quân này bằng cơ giới và sẽ hoàn thành trong vòng ba tháng đầu năm. Việc ăn uống dọc đường do các binh trạm của 559 lo. Như vậy bộ đội vào sẽ nhanh hơn, sức khỏe bảo đảm tốt hơn; lần này quân bổ sung được huấn luyện tốt hơn, thời gian huấn luyện mỗi đợt chừng sáu tháng. Ngoài bộ binh và binh chủng, Bộ còn bổ sung một số khá đông nhân viên chuyên môn (cơ yếu, báo vụ, trinh sát và hậu cần-kỹ thuật).

"Tôi đề nghị các anh, chỉ thị cho các cơ quan chuẩn bị kế hoạch tiếp nhận và phân phối kịp thời để trânh bị ùn.

"Việc xin cán bộ để thành lập Bộ tư lệnh Phòng không, cũng như xin thêm một số đơn vị cao xạ 57 ly cỡ B2, trước mắt chưa giải quyết được.

"Về mặt hàng quân sự và dân dụng, năm nay Trung ương sẽ chi viện cho B2 tổng cộng là 22.000 tấn, trong đó có 12.000 tấn hàng quân sự (hai phần ba là súng đạn). Tổng cục Hậu cần dự kiến hoàn thành việc vận chuyển cho B2 trong bốn tháng đầu năm 1974. Việc xin đạn cao xạ 5 7 ly và súng đạn A72 chưa có điều kiện giải quyết. Tôi có xin thêm (ngoài kế hoạch) súng phòng không khác và súng ĐK82, cùng các loại đạn. Đề nghị này đã được chấp nhận.

"Nhân đây xin báo cáo anh Phạm Hùng và các anh trong Trung ương Cục về tình hình sức khỏe của tôi. Ngày 5 tháng 12, Hội đồng bác sĩ đã chẩn đoán lại và kết luận: Hiện nay tim mạch chưa ổn lắm, cần điều trị thêm một thời gian. Tôi đã bàn với anh em quân y cố gắng điều trị từ nay đến hết tháng 1 năm 1974, để đầu tháng 2 tôi có thể lên đường trước Tết âm lịch. Tôi sẽ chấp hành đúng như điện của anh Hùng, cố gắng điều trị cho khỏe".

Dự tính vào tới B2 đúng những ngày xuân Giáp Dần, tôi chuẩn bị quà tết và gửi xe đi trước, để khi lên đường được gọn nhẹ, nhanh chóng hơn.

Cuối tháng 1 năm 1974, mọi công việc chuẩn bị đã xong, tôi đang đi chào tạm biệt các đồng chí lãnh đạo và anh em trong cơ quan Bộ thì một lần nữa, điều bất ngờ lại xảy đến.

Khi đến gặp anh Sáu Thọ, anh cho biết Ban Tổ chức Trung ương đã đề nghị lên Bộ Chính trị và các anh đã nhất trí để tôi ở lại miền Bắc. Tôi sững sờ hỏi:

- Vì sao vậy, anh?

- Hội đồng bác sĩ mới kiến nghị không nên để anh đi vì mới qua đại phẫu, hơn nữa tim mạch cũng không ổn lắm, đi không đảm bảo an toàn, nhất là trên dọc đường.

- Đề nghị cứ cho tôi đi. Tôi sẽ đảm bảo giữ gìn sức khỏe tốt.

- Không được đâu. Chúng mình được biết anh đã chuẩn bị xong xuôi mọi mặt, nhưng vừa đây anh em bác sĩ phát hiện như vậy để anh đi, nếu xảy ra chuyện không hay thì ngoài trách nhiệm ra, chúng mình sẽ ân hận mãi. Thôi, ở lại ngoài này, trở về công tác ở Bộ Tổng Tham mưu. Chuẩn bị cho giai đoạn dứt điểm, Quân uỷ Trung ương và cơ quan tham mưu cần được tăng cường để giúp Bộ Chính trị và Trung ương.

Tôi biết có đề nghị cũng khó. Các anh trong Bộ Chính trị đã đồng ý với ý kiến Ban Tổ chức để tôi ở lại công tác ở Bộ Quốc phòng. Trên cũng đã quyết định cử anh Trần Văn Trà thay tôi làm Tư lệnh chiến trường B2. Bắt tay anh Thọ ra về, lòng tôi bứt dứt khôn nguôi.

Những suy nghĩ, những dự tính từ sau Hội nghị 21, những ngày háo hức chuẩn bị trở lại chiến trường. Nhớ từng anh trong Trung ương Cục trong Bộ tư lệnh Miền. Nhớ những lúc hội họp, trao đổi ý kiến, nhớ cả những buổi đấu tranh sôi nổi, có lúc gay gắt khi có ý kiến bất đồng để rồi đi đến nhất trí, đoàn kết chung lưng đấu cật trong cuộc đọ sức quyết liệt với quân thù. Tôi ngồi suốt ba giờ liền, viết một bức thư dài tám trang, báo cáo tình hình và tâm sự với anh Phạm Hùng và các anh trong Trung ương Cục, nhắc lại những ngày cùng làm việc với nhau, tình cảm đồng chí thắm thiết không thể nào quên.

Phải ở lại, tôi gặp anh Văn, anh Dũng hỏi về công tác, các anh cho biết Bộ Chính trị đã bàn và mới quyết định tôi làm Phó Tổng Tham mưu trưởng thứ nhất. Các anh phân công tôi trực tiếp chỉ đạo việc chi viện chiến trường và chỉ đạo tác chiến.

Thế là trở lại với việc cũ, người xưa. Tôi xác định phải yên tâm để bắt tay ngay vào công việc.

Lúc này, cơ quan đang tập trung giúp trên chỉ đạo các chiến trường thực hiện kế hoạch mùa khô. Các phái viên cũng từ các chiến trường trở về, mang theo báo cáo tình hình mọi mặt và ý kiến đề đạt của các nơi về phương hướng chiến lược năm 1974, theo tinh thần Nghị quyết 21 của Trung ương.

Tôi đành nhiều thời gian nghe các cục và các phái viên báo cáo để nắm tình hình các chiến trường, tình hình công tác của Bộ Tổng Tham mưu. Tôi cũng làm việc với anh Song Hào, anh Đinh Đức Thiện để thống nhất phối hợp những công việc chung của Bộ Quốc phòng trong víệc triển khai Nghị quyết 21.

Trong dịp này, anh Lê Đức Anh, Tư lệnh Quân khu 9 cũng ra báo cáo với Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương. Theo đề nghị của chúng tôi, anh dành bốn ngày báo cáo với Bộ Tổng Tham mưu và cùng nhau rút kinh nghiệm về tình hình Khu 9 từ đầu năm 1973. Hơn một năm qua, kinh nghiệm chống phá bình định của Khu 9 vẫn là một vấn đề rất quan trọng mà cơ quan tham mưu chiến lược mong đợi được nghe tường tận.

Ngay khi Hiệp định còn chưa được ký kết, từ ngày 11-1-1973, địch đã tung sư đoàn 21 đánh vào tây-nam Long Mỹ, đồng thời đưa nhiều lực lượng khác lấn chiếm nhiều vùng giải phóng trong khu. Quân và dân Khu 9 vừa đánh trả địch, vừa điều chỉnh lại lực lượng, chuẩn bị thực hiện "Kế hoạch thời cơ" theo chỉ thị của Trung ương Cục và Bộ tư lệnh Miền. Sau hơn một tuấn, ta đã đánh bại cuộc hành quân của địch và dấn lên giải phóng thêm vùng bắc Long Mỹ, Phụng Hiệp.

Tháng 3, địch lại dùng sư đoàn 21, được trung đoàn kỵ binh 9 yểm trợ, bắt đầu đợt 1 chiến dịch tiến công vào vùng Chương Thiện, nhằm "líp" các lõm giải phóng của ta ở tây-nam Long Mỹ, lập tuyến ngăn chặn từ Ngang Dừa đi Vĩnh Chèo, cô lập U Minh và đẩy lực lượng ta ra khỏi địa bàn quan trọng này. Quán triệt tinh thần nghị quyết ngày 3 tháng 2 của Thường vụ Khu uỷ, quân và dân địa phương kiên quyết đánh trả địch. Đợt 1 cuộc hành quân của địch vào Chương Thiện bị thất bại.

Ngày 5 tháng 6 địch mở đợt 2 của chiến dịch tiến công và lần này, lại bị ta đẩy lùi. Mười ngày sau, chúng tập trung trên 60 tiểu đoàn bộ binh, 4 giang đoàn và 6 chi đoàn M113 mở cuộc hành quân lớn, dài ngày, hòng chiếm khu vực Ba Hồ, Lái Hiếu. Quân và dân Khu 9 kiên quyết bám trụ địa bàn, ba thứ quân liên tiếp phản công và tiến công địch, kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công, đánh địch trên địa bàn trọng điểm đồng thời thu hút căng kéo địch, trên các địa bàn phối hợp. Trải qua hai tháng rưỡi (từ ngày 15 tháng 6 đến ngày 30-8-1973), quân và dân Khu 9 đã đánh trên 200 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu trên 5.000 tên địch, làm thất bại cuộc tiến công quy mô lớn nhất từ trước tới nay của địch vào vùng Chương Thiện, giữ vững được căn cứ U Minh, tạo được thế trận có lợi cho ta.

Chúng tôi nghĩ phải chăng bài học kinh nghiệm của Khu 9 là ở chỗ bám chắc địa bàn, chiến trường; nhạy bén trong lãnh đạo, chỉ đạo; đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn của địch; chủ động, kiên quyết đánh trả địch, không do dự lừng chừng; vận dụng phương châm, phương thức đúng đắn, sáng tạo, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các địa phương; đánh địch liên tục, khiến địch đông quân nhưng bị căng kéo ra đối phó trên nhiều hướng, bị những đòn đau trên những trọng điểm, không đạt được mục tiêu đề ra, lại bị tổn thất nặng nề.

Đồng chí Lê Đức Anh cũng cho chúng tôi biết thêm về chiến trường Khu 8. Đến cuối năm 1973, về cơ bản ta đã giành lại các mảng, các lõm mà địch lấn chiếm từ cuối tháng 1 năm 1973 ở nam - bắc lộ 4, "vùng 20 tháng 7"(2), Bến Tre, Kiến Tường. Riêng ở Bến Tre, ta đã mở ra nhiều vùng trọng điểm ở Mỏ Cày Nam, Giồng Trôm, Mỏ Cày Bắc, buộc địch phải rút bỏ trên 50 đồn, ta giành lại 126 ấp với 4,5 vạn dân. Ở Mỹ Tho, ta giành lại 3 vùng và 1 lõm, giải phóng 6 xã, 12 ấp với gần 9 vạn dân.

Từ kinh nghiệm đồng bằng sông Cưu Long, nhất là kinh nghiệm của Khu 9, tôi cùng các anh Lê Trọng Tấn, Cao Văn Khánh và các đồng chí Cục trưởng Tác chiến, Cục trưởng Dân quân bàn bạc và nhất trí đề nghị với Bộ triệu tập cuộc hội nghị trao đổi kinh nghiệm về chỉ đạo chống phá bình định vào khoảng tháng 5. Đề nghị được chấp nhận. Hai cục Dân quân và Tác chiến phối hợp chuẩn bị.

Đồng chí Bí thư Quân uỷ cho biết sẽ có cuộc họp của Quân uỷ vào tháng 3 nhằm kiểm điểm tình hình quân sự và ra nghị quyết về những công tác lớn cần tiếp tục triển khai theo tinh thần Nghị quyết 21 của Trung ương, nhất là cụ thể hoá phương châm, phương thức hoạt động trong thời gian tới. Chúng tôi trao đổi ý kiến và nhất trí phân công anh Tấn chuẩn bị đề án để đưa ra thông qua anh Văn, anh Dũng và các đồng chí chủ trì trong Bộ Tổng Tham mưu trước khi báo cáo tại hội nghị Quân uỷ.

Khi trao đổi ý kiến để chuẩn bị cho bản dự thảo nghị quyết hội nghị Quân uỷ Trung ương, vấn đề mà chúng tôi đặc biệt quan tâm là Bộ Tổng Tham mưu phải làm gì để đề đạt với Quân uỷ và Bộ Chính trị về phương hướng tạo thế mới, lực mới trước khi bước vào mùa khô 1974-1975, hàng loạt công tác chuẩn bị chiến lược đang được triển khai, nay cần khẩn trương đẩy nhanh hơn nữa để hoàn thành về cơ bản vào cuối năm 1974; đẩy mạnh đợt hoạt động cuối mùa khô 1973-1974 và cả trong mùa mưa này, nhằm tiếp tục tạo thế trận ngày càng có lợi; hoàn thành đợt 1 và bắt đầu đợt 2 kế hoạch vận chuyển chi viện cho chiến trường; chỉ đạo và đôn đốc việc xây dựng lực lượng vũ trang địa phương ở miền Nam; hoàn chỉnh mạng đường chiến lược, chiến dịch và phát triển đường ống dẫn dầu sâu xuống phía nam; chỉ đạo và kiểm tra việc xây dựng cơ sở hậu cần tại chỗ dọc đường 559 và trong các vùng giải phóng; hoàn thành kế hoạch tuyển quân năm 1974 và đợt đầu 1975; củng cố bộ đội chủ lực, nhất là khối chủ lực cơ động chiến lược ở miền Bắc, kể cả các đơn vị kỹ thuật, trong đó có việc sơ kết huấn luyện quân sự đợt 1, triển khai huấn luyện đợt 2, v.v.

Hoàn thành các công tác chuẩn bị chiến lược trên đây, không những ta tạo được thế mới, lực mới, trên cả hai miền, nhất là ở miền Nam, để giành thắng lợi lớn mùa khô sắp tới, mà còn chuẩn bị tích cực để chủ động đón thời cơ chiến lược.

Những ngày làm việc với anh Tấn, anh Khánh, chuẩn bị bản đề án trình Quân uỷ cũng như làm việc với các tổng cục trong Bộ Quốc phòng, các cục trong Bộ Tổng Tham mưu và các phái viên mới ở các chiến trường về, đã giúp tôi nắm được công tác của Bộ và tình hình các chiến trường.

Trong năm 1973 vừa qua, địch đã nỗ lực rất lớn và chúng đã đạt được một số kết quả.

Chúng đã lấn chiếm một số căn cứ lõm giải phóng gồm khoảng gần 400 ấp, đóng thêm hơn 700 đồn bốt, giữ nguỵ quân, nguỵ quyền không bị tan rã, khống chế quần chúng, củng cố một bước vùng kiểm soát của chúng, nhất là ở đồng bằng Khu 5. Nhưng chúng chưa đạt được mục tiêu chủ yếu là xoá thế da báo. Từ tháng 9, chúng bị đẩy lùi ở Khu 9, bị chặn lại ở Khu 8, tuy chúng có lấn được một số vùng ở Khu 5, nhưng ở đây chúng cũng đã phải chựng lại.

Quân nguỵ được củng cố một bước quan trọng. Được Mỹ chi viện, số quân nguỵ có tăng lên (riêng quân địa phương tăng gấp ba lần). Quân nguỵ có thể duy trì một cuộc chiến đấu quy mô nhỏ và vừa, nhưng không đủ sức đối phó với một cuộc tiến công lớn của ta như năm 1972.

Thiệu đã củng cố một bước nguỵ quyền, nhất là quân sự hoá bộ máy kìm kẹp ở cơ sở. Nhưng chúng bị cô lập cao độ về chính trị, gặp khó khăn lớn về kinh tế. Điều nổi lên là tinh thần và sức chiến đấu của quân nguỵ đã giảm sút rõ rệt, thế bố trí chiến lược bị phân tán, căng kéo, nơi nào bị ta kiên quyết đánh trả như ở đồng bằng sông Cửu Long thì địch lúng túng bị động.

Đế quốc Mỹ gặp nhỉều khó khăn nghiêm trọng ở trong nước và trên thế giới. Mâu thuẫn nội bộ gay gắt. Tuy chúng chưa từ bỏ âm mưu đen tối đối với miền Nam Việt Nam nhưng sự can thiệp đã bị ràng buộc và hạn chế hơn trước.

Về phía ta, nhiệm vụ trung tâm số 1 là phá bình định, chống lấn chiếm. Cuộc đấu tranh nhằm giành dân, giành quyền làm chủ của nhân dân đang diễn ra hết sức gay gắt, nhất là ở đồng bằng Khu 5 và Khu 8. Đến nay, ta đã giành được khoảng 4 triệu dân, trong đó có 1 triệu 20 vạn dân vùng giải phóng.

Về tác chiến, với chủ trương phản công và tiến công, vừa đánh phía trước, vừa đưa lực lượng luồn vào phía sau, ta đã duy trì và đẩy mạnh chiến tranh nhân dân ở địa phương nhất là từ tháng 9.

Tỷ lệ thương vong trong năm qua là địch 5, ta 1; tỷ lệ này con cao.

Lực lượng vũ trang địa phương bước đầu được bổ sung và rèn luyện đã có một bước tiến bộ mới, nổi lên là ở đồng bằng sông Cứu Long.

Trong năm qua miền Bắc đưa vào chiến trường gấn 10 vạn quân, nhờ vậy đã tăng số quân chiến đấu của các tiểu đoàn, trung bình từ 850 đến 400 quân. Các đơn vị đã có điều kiện luân phiên huấn luyện, chiến đấu, lực lượng vũ trang địa phương có tăng lên nhưng chưa nhiều. Các binh khí kỹ thuật (pháo mặt đất, pháo cao xạ xe tăng, v.v.) đều được tăng cường. Cuối năm 1973, ở phía nam đường Trường Sơn còn chừng 1 vạn 5 nghìn tấn vũ khí, nhưng việc vận chuyển xuống các chiến trường Khu 6, Khu 8, Khu 9 và phía nam Khu 5 vẫn còn khó khăn.

Việc xây dựng vùng giải phóng và căn cứ địa miền núi cũng như việc giúp đỡ nhân dân hai nước Lào và Campuchia anh em vẫn được xúc tiến tích cực, khẩn trương.

Sau khi nắm tình hình mọi mặt, tôi suy nghĩ và trao đổi với các anh trong Bộ Tổng Tham mưu, thấy có mấy vấn đề còn yếu phải cố gắng khắc phục:

- Về quân sự, bộ đội địa phương, dân quân du kích miền Nam vẫn chưa phát triển kịp so với yêu cầu nhiệm vụ chiến lược.

Về chính trị, phong trào đô thị chưa lên, thực lực ở cơ sỡ bên trong còn mỏng, bàn đạp vùng ven và hành lang nối liền các căn cứ chưa vững. Phong trào công khai hợp pháp của lực lượng thứ ba chưa phát triển.

Viện trợ quân sự, nhất là vũ khí tiến công, đạn pháo không được như trước. Chúng tôi đã giao cho Cục Tác chiến và đề nghị với Tổng cục Hậu cần tính toán lại vũ khí, khí tài, bảo đảm cho kế hoạch tác chiến năm 1974 và vài năm tới, ở mức độ đánh vừa trong năm 1975, đánh lớn vào năm 1976 và đề đạt phương hướng khắc phục (nếu không đủ đạn lớn).

Tôi đã báo cáo những suy nghĩ trên đây với anh Văn, anh Dũng và các đồng chí phó Tổng Tham mưu trứởng khác, khi thông qua bản đề án quân sự mà anh Tấn chuẩn bị.

Trong cuộc hội nghị Quân uỷ tháng 3, anh Tấn thay mặt Bộ Tổng Tham mưu trình bày bản đề án. Sau khi kiểm điểm tình hình các mặt trong năm 1973, bản báo cáo của Bộ Tổng Tham mưu đề nghị phương hướng chiến lược, phương chám, phương thức hoạt động trong mấy năm tới, theo tinh thần Nghị quyết 21.

Hội nghị Quân uỷ Trung ương đã trao đổi, thảo luận và ra nghị quyết gồm những điểm chính sau đây: Về chủ trương chiến lược vài năm trước mắt, Quân uỷ xác định:

1. Nhiệm vụ trung tâm số 1 vẫn là đánh bại một bước quan trọng kế hoạch bình định, lấn chiếm, phân tuyến của địch; giành dân, giành quyền làm chủ ở đồng bằng và vùng ven đô thị đông người, nhiều của.

2. Từng bước đưa phong trào đấu tranh chính trị ở thành thị tiến lên, đồng thời chuẩn bị lực lượng cơ sở, tạo điều kiện và thời cơ đầy tới cao trào cách mạng.

3. Chủ lực vừa chiến đấu, vừa xây dựng, từng bước nâng dần quy mô đánh tiêu diệt, vừa đánh vừa theo dõi phản ứng của địch để kịp thời có biện pháp đối phó.

4. Củng cố, xây dựng, giữ vững, hoàn chỉnh vùng giải phóng, căn cứ địa ở miền Nam đi đôi với ra sức khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc mạnh cả về kinh tế và quốc phòng và sẵn sàng đánh bại âm mưu địch.

Tất cả đều nhằm làm thay đổi só sánh lực lượng toàn diện có lợi cho ta, đồng thời sáng tạo điều kiện, nắm vững thời cơ, sẵn sàng chủ động phối hợp ba quả đấm mạnh (chủ lực, nông thôn, thành thị), làm chuyển biến cục diện một cách bất ngờ và nhanh chóng, làm địch không kịp trở tay, giành thắng lợi cao nhất cho cách mạng.

Để thực hiện chủ trương trên, Quân uỷ nhấn mạnh:

- 1 Yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản trong vài năm tới là giành dân, giành quyền làm chủ ở đồng bằng, giải phóng và làm chủ vững chắc ở miền núi, xây dựng những lõm nhỏ trong vùng địch kiểm soát, từng bước giành quyền làm chủ ở thành thị, phát triển thế và lực cách mạng ở miền Nam, làm cho ta mạnh lên địch yếu đi.

2. Phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta. Phải căn cứ vào điều kiện cụ thể từng thời kỳ, từng vùng mà vận dụng phương châm, phương thức cho linh hoạt.

- Ở đồng bằng đông dân, địch đang bình định lấn chiếm, ta phải tiến công và phản công để đánh bại chúng, lấy tiến công làm chính, lấy vùng tranh chấp và vùng địch tạm chiếm làm phương hướng chính để từng bước đưa vùng tranh chấp lên vùng giải phóng, đưa vùng địch kìm kẹp lên tranh chấp hoặc giải phóng.

- Ở miền núi, ta thực hành phản công và tiến công, đánh bại các cuộc tiến công lấn chiếm của địch, đống thời tiến công tiêu diệt các điểm chốt còn lại, mở rộng thế liên hoàn và xây dựng vùng giải phóng vững chắc.

- Tại vùng sau lưng địch, ta phải chủ động tiến công đánh phá các sân bay, kho tàng, hậu cứ, căn cứ xuất phát hành quân và các đường giao thông địch vận chuyển đi đánh phá ta.

3. Kết hợp chặt chẽ mấy phương thức hoạt động:

- Giữ vững và phát tnển chiến tranh nhân dân ở địa phương trong vừng đồng bằng đông dân, nhiễu của; đánh nhỏ, đánh vừa, liên tục và rộng khắp; tổ chức chiến dịch tổng hơp từ nhỏ đến lớn, nhằm thực hiện nhiệm vụ trung tâm là phá kế hoạch bình định lấn chiếm của địch, giành dân, giành quyền làm chủ ở vùng đông dân, nhiều của.

- Đẩy mạnh tác chiến quy mô vừa và lớn của chủ lực, tiêu diệt một bộ phận chủ lực địch, phối hợp và tạo điều kiện cho chiến tranh nhân dân ở đồng bằng phát triển; chủ lực vừa tác chiến vừa xây dựng, sẵn sàng đánh to, tiêu diệt lớn khi có thời cơ.

- Thúc đẩy phong trào thành thị phát triển, tiến đến bao vây chặt các thành phố, thị xã quan trọng, nhất là Sài Gòn.

Ta cần nỗ lực vượt bậc, phối hợp ba phương thức hoạt động nói trên để trong các năm tới tạo thành ba quả đấm mạnh (nông thôn, đô thị, chủ lực). Khi có thời cơ chiến lược, khi so sánh lực lượng giữa ta và địch có sự thay đổi cơ bản, khi Mỹ gặp nhiều khó khăn trong nước và trên thế giới, khi việc chuẩn bị của ta đã sẵn sàng, thì ta tùy tình hình cụ thể mà quyết định mức độ giành thắng lợi.

Hội nghị Quân uỷ cũng quyết nghị một số công tác lớn nhằm thực hiện chủ trương chiến lược trong giai đoạn mới, hướng theo yêu cầu tác chiến quy mô lớn: Tăng cường lực lượng vũ trang, nhất là kiện toàn khối cơ động dự bị chiến lược; hậu phương lớn miền Bắc vừa ra sức phục hồi và phát triển kinh tế, vừa tích cực động viên sức người sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam; coi trọng công tác chính trị, tư tưởng, biên chế, tổ chức và huấn luyện, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng chiến đấu toàn diện của các lực lượng vũ trang. Khi phổ biến Nghị quyết Quân uỷ cho cán bộ chủ trì các cục trong Bộ Tổng Tham mưu, sau khi phân tích tình hình cách mạng và chủ trương chiến lược mới, tôi chú ý nói rõ nội dung các công tác lớn mà cơ quan tham mưu chiến lược cần chú trọng (ngoài nhiệm vụ thường xuyên hiện nay là chỉ đạo tác chiến theo kế hoạch đã định), nhằm tạo nên thế mới, lực mới trước khi bước vào mùa khô sắp tới.

Trong việc xây dựng lực lượng vũ trang, Bộ Tổng Tham mưu cần quan tâm xây dựng khối chủ lực cơ động chiến lược thành những quân đoàn mạnh, được tổ chức huấn luyện theo phương hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, nâng số quân của các tiểu đoàn lên trung đoàn đủ biên chế; điều thêm lực lượng vào chiến trường làm lực lượng dự bị tại chỗ; tăng lực lượng vũ trang địa phương lên 1,5 đến 2 lần hiện nay.

Cùng với chủ trương tích cực xây dựng và củng cố vùng giải phóng và căn cứ địa ở miền Nam, Bộ Tổng Tham mưu phối hợp với Tổng cục Hậu cần và Đoàn 559 đẩy mạnh việc củng cố tuyến đường chiến lược Tây Trường Sơn, mở đường Đông Trường Sơn; xây dựng hệ thống kho tàng, hệ thống cơ sở bảo đảm hậu cần kỹ thuật cho tác chiến quy mô lớn; bàn với Bộ tư lệnh Thông tin phát triển tuyến dây điện thoại đường dài nối liền chiến trường với các cơ quan Bộ Quốc phòng ở phía sau.

Ở miền Bắc, chủ yếu là tập trung củng cố vùng Khu 4, đặc biệt là phía nam Khu 4. Các tỉnh đều phải chuẩn bị công tác động viên tuyển quân và vẫn phải tăng cường công tác phòng không nhân dân, nhất là ở các khu vực quân sự, kinh tế, chính trị quan trọng.

Sau khi Nghị quyết tháng 3 năm 1974 của Quân uỷ Trung ương được Bộ Chính trị thông qua, Bộ Tổng Tham mưu đã nhanh chóng điện và gửi hoả tốc cho các quân khu phía nam. Đầu tháng 4 năm 1974, Quân uỷ triệu tập hội nghị cán bộ cao cấp trong toàn quân (chủ yếu là những cán bộ ở phía bắc) để quán triệt và nghiên cứu tổ chức triển khai thực hiện.

Đã lâu lắm tôi mới được dự cuộc họp đông vui như lần này. Các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các quân khu, quân chủng, binh chủng, binh đoàn, các tổng cục, các cục quan trọng đều có mặt ở khu nnà khách của Bộ Quốc phòng, 33 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội.

Tiết trời mới chớm sang hè. Những cây phượng vĩ bên đường phố Hà Nội đã chớm nở những bông hoa đầu tiên, đỏ thắm.

Lâu ngày mới gặp nhau, tay bắt mặt mừng. Chuyện chiến đấu, chuyện công tác và cả chuyện gia đình. Nhắc lại quá khứ, nói về hiện tại và cả những dự kiến tương lai, sau ngày đất nước toàn thắng.

Không khí phấn khởi bao trùm cả hội trường. Vừa qua mọi người đã được nghe và thảo luận Nghị quyết 21 của Trung ương; nay lại được thông báo tình hình các chiến trường, nhiệm vụ quân sự trước mắt và khả năng phát triển của tình hình, chủ trương và biện pháp mà Quân uỷ đã xác định trong Nghị quyết tháng 3 năm 1974. Lắng nghe chăm chú, thảo luận sôi nổi, từng địa phương, từng chiến trường, từng quân chủng, binh chủng, từng đơn vị, cơ quan đều biểu thị sự nhất trí hoàn toàn với Nghị quyết 21 của Trung ương và Nghị quyết Quân uỷ Trung ương, và quyết tâm tổ chức thực hiện tốt nhất theo chức năng, nhiệm vụ của mình.

Vào ngày cuối, anh Ba và anh Sáu Thọ đến thăm hội nghị.

Được nghe các anh nói chuyện, phân tích thêm về tình hình, về nhiệm vụ, nhiều vấn đề càng sáng tỏ hơn, nhất là về ý đồ của một số nước đối với vùng Đông Nam châu á, khả năng phát triển của cách mạng miền Nam và những biện pháp chiến lược tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn trong những năm tớỉ.

Cũng trong dịp này, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng công bố quyết định của Bộ Chính trị, của Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ phong quân hàm cấp tướng cho một số đồng chí đại tá và thăng cấp cho một số đồng chí cán bộ cấp tướng. Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã tới dự. Bác Tôn biểu dương thành tích của quân đội ta, biểu dương cán bộ và nhắc nhở mọi người phải nâng cao quyết tâm hơn nữa để hoàn thành tốt sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đến giờ nghỉ, cả hội trường rộn ràng những lời chúc mừng nồng nhiệt, những cái bắt tay chân tình thắm thiết giữa những người đồng chí.

Vui mừng xen lẫn với lo lắng. Vui mừng vì nhất trí hoàn toàn với Nghị quyết của Đảng về cách mạng miền Nam, nhưng lo lắng vì nhiều công việc lớn quá mà thời gian rất khẩn trương. Trong khi chiến trường đẩy mạnh tác chiến và xây dựng lực lượng, tạo thế mới, lực mới thì hậu phương phải nhanh chóng triển khai cho kịp hàng loạt công tác cấp bách có tầm chiến lược quan trọng: tuyển quân, xây dựng, huấn luyện theo phương hướng tác chiến quy mô lớn; triển khai mạng đường chiến lược, chiến dịch xây dựng hệ thống chân hàng, bảo đảm hậu cần kỹ thuật, tổng kết rút kinh nghiệm chiến đấu; xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, để kịp thời đón thời cơ chiến lược.

Để hiểu thêm thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao, việc xuống các đơn vị, các địa phương, đối với tôi lúc này, trở thành một yêu cầu cấp bách.

Trải qua gần 10 năm ở chiến trường, biết bao vấn đề mới cần nắm vững để mở rộng kiến thức và chỉ đạo đơn vị, nhất là chỉ đạo các quân chủng, binh chủng theo yêu cầu phát triển mới của quân đội ta, trong đó có việc tổng kết những kinh nghiệm chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của địch.

Từ cuối tháng 4 và cả tháng 5 năm 1974, tôi dành hầu hết thời gian xuống các đơn vị, các quân khu ở miền Bắc để nắm tình hình và học hỏi thêm, nhất là để đánh giá đúng tiềm lực về mọi mặt, làm cơ sở cho việc tham gia xây dựng kế hoạch chiến lược vài ba năm tới.

Những ngày xuống các đơn vị chủ lực và địa phương, làm việc với các đồng chí lãnh đạo và chỉ huy, gặp gỡ anh em, thực là những ngày bổ ích. Nói với anh em về tình hình chiến trường, về những trận đánh hay, về tinh thần ngoan cường bám trụ của nhân dân, về tấm lòng đồng bào và chiến sĩ tiền tuyến lớn miền Nam ngày đêm hướng về hậu phương lớn miền Bắc với lòng tin tưởng cùng nhau ráng sức đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Với danh nghĩa là người đã trải qua những năm tháng chiến đấu ở Khu 5 rồi B2, tôi thay mặt đồng bào và chiến sĩ ở tiền tuyến tỏ lòng biết ơn các địa phương, các đơn vị ở hậu phương đã hết lòng chi viện cho miền Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thật cảm động biết bao khỉ đến đâu cũng thấy các địa phương đang rộn ràng động viên tuyển quân chi viện cho chiến trường, các đơn vị náo nức chuẩn bị chờ ngày lên đường vào Nam chiến đấu.

Các đồng chí chỉ huy Quân chủng Phòng không - Không quân giới thiệu kinh nghiệm sử dụng không quân, tên lửa chống chiến tranh phá hoại của địch. Đến các đơn vị phòng không tôi được anh em giới thiệu loại tên lửa mới "SAM-3". Trước đây, trong hai lần chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, ta mới có loại "SAM-2".

Xuống Quân chủng Hải quân, tôi nghe kỹ về những trận đánh của đặc công nước, về khả năng tổ chức chi viện đường biển cho miền Nam và trao đổ ý kiến trước với anh em trường hợp ta đánh thắng sẽ nghiên cứu tổ chức sử dụng lực lượng hải quân của nguỵ thế nào.

Đến thăm Binh chủng Công binh, tôi được xem anh em thao tác lắp cầu bảo đảm cơ động hành quân của binh đoàn lớn. Tôi nói với anh em về địa hình sông rạch ở Nam Bộ và gợi ý anh em nghiên cứu cách vận dụng cho phù hợp với loại địa hình đặc biệt đó để đảm bảo cho hành quân cơ giới.

Ngoài các đơn vị pháo binh mà tôi biết từ trước ngày vào Nam, lúc này ta đã có rất nhiều đơn vị pháo, trong đó có những lữ đoàn pháo cỡ lớn, tầm xa, vận động bằng cơ giới. Lực lượng pháo binh dự bị chiến lươc này sẽ là hoả lực yểm trợ chủ yếu trong những chiến dịch lớn sắp tới.

Tại Bộ tư lệnh Thiết giáp, tôi chăm chú nghe anh em giới thiệu các trận phối hợp bộ binh-xe tăng trong trận đánh đầu tiên ở Làng Vây, những trận đánh ở Đường 9-Nam Lào và trong chiến dịch Quảng Trị.

Đến Bộ tư lệnh Đặc công, đang có cuộc hội nghị tổng kết những trận đánh hay. Có nhiều đồng chí cán bộ miền Nam mà tôi đã quen biết, ra dự. Tôi ở lại họp hai ngày và góp thêm nhiều ý kiến.

Qua binh chủng, quân chủng nào tôi cũng trao đổi kỹ với các đồng chí phụ trách về yêu cầu và khả năng chi viện cho chiến trường miền Nam khi có mệnh lệnh của Bộ.

Qua những ngày đi kiểm tra các đơn vị, các quân chủng, binh chủng kỹ thuật điều khiến tôi yên tâm, phấn khởi là tình hình tư tưởng của bộ đội, tinh thần háo hức chờ đợi lên đường của các đơn vị là kết quả huấn luyện theo phương hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, là đội ngũ cán bộ chỉ huy và kỹ thuật đông đảo vừa có trình độ chính trị tư tưởng tốt vừa nắm vững tính năng binh khí kỹ thuật của binh chủng.

Nhưng có một điều khiến tôi băn khoăn là số đạn lớn của ta còn quá ít. Toàn bộ lực lượng dự trữ của ta chỉ còn chưa đầy mười vạn viên đạn pháo cỡ lớn. Một phần trong số này đã phân phối xuống các đơn vị. Còn phần lớn đã đưa tới các chân hàng từ phía nam đường 9 trở vào. Các kho ở hậu phương miền Bắc gần như đã hết. Làm thế nào để đủ hoả lực cho những chiến dịch lớn, nhất là khi đánh địch phòng ngự trong các căn cứ lớn, các thành phố, thị xã, thị trấn. Vấn đề này cần được báo cáo sớm với Quân uỷ và bàn với Tổng cục Hậu cần để cùng nhau tìm phương hướng khắc phục.

Xuống các quân khu Tả Ngạn và Hữu Ngạn, điều tôi quan tâm tìm hiểu là khả năng động viên tuyển quân. Con số chiến sĩ mới huy động vừa qua thật là lớn. Ví dụ: ở Tả Ngạn, với số dân khi đó là hơn bảy triệu, nhưng trong 10 năm (1964-1973) Các tỉnh đã chi viện cho chiến trường gần 56 vạn quân, tức 8% số dân, một con số đầy ý nghĩa, nói lên ý thức trách nhiệm và tinh thần hy sinh cao cả của toàn dân, của từng gia đình trước nghĩa vụ thiêng liêng của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.

Từ thực tế tình hình tuyển quân ở đồng bằng sông Hồng, điều khiến tôi suy nghĩ là yêu cầu rất lớn của chiến trường trong những năm tới, làm thế nào tiếp tục động viên tuyển quân để kịp đón thời cơ chlen lược, khi khả năng động viên tại chỗ ở miền Nam còn rất hạn chế. Mặt khác, vấn đề giành dân, tạo thế cho dân bung ra phá thế kìm kẹp của địch ở miền Nam để có thể huy động lực lượng lớn tại chỗ càng trở thành yêu cầu cấp thiết, để cùng lực lượng chi viện của miền Bắc đáp ứng yêu cầu những bước phát triển nhảy vọt của cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam.

Vào Quân khu 4, tôi kiểm tra kỹ tình hình bố trí binh lực ở phía nam quân khu, đặc biệt chú ý xem xét các trận địa pháo bờ biển của quân khu và của từng địa phương. Khi về qua huyện Tĩnh Gia (Thanh Hoá), tôi đã xuống kiểm tra báo động một cụm pháo bờ biển. Trình độ tổ chức chỉ huy của đơn vị khá tốt, các đồng chí trong huyện uỷ rất quan tâm xây dựng lực lượng dân quân tự vệ để phối hợp với chủ lực bảo vệ bờ biển.

Vào thăm Quân đoàn 1, tôi tìm hiểu kỹ tình hình mọi mặt. Đây là quân đoàn đầu tiên được thành lập từ tháng 10 năm trước. Sự ra đời của quân đoàn đầu đàn này lại một lần nữa chúng minh sự sáng suốt của Đảng ta, thấy trước sự phát triển tất yếu của chiến tranh, tính tất yếu của tác chiến quy mô lớn. Thực tế những năm 1971- 1972 cho thấy hình thức tổ chức và sử dụng các sư đoàn độc lập hoặc phối thuộc không còn thích hợp nữa, mà phải xây dựng và phát huy vai trò của những quả đấm mạnh hơn, lớn hơn cỡ sư đoàn, mới có thể hoàn thành nhiệm vụ chiến lược là tiêu diệt khối chủ lực có số quân đông và trang bị mạnh của địch trong thời gian tương đối ngắn. Những quả đấm đó chính là các quân đoàn dự bị chiến lược được trang bị tương đối hiện đại, có sức đột kích lớn, hoả lực mạnh, khả năng cơ động cao. Quân đoàn 1 là quân đoàn đầu tiên và không phải ngẫu nhiên mà trong các đơn vị chủ lực đầu tiên của quân này lại có những đơn vị của quân đội ta: sư đoàn bộ binh 308 và trung đoàn pháo binh cơ giới 45. Tôi nhớ lại thời kỳ kháng chiến chống Pháp, địch thường theo dõi sát các đơn vị này. Nếu biết sư đoàn 308 ở hướng nào là chúng phán đoán ta sẽ đánh lớn trên hướng dó. Chúng đã gọi 308 là sư đoàn thép. Sư đoàn 308 đã được tặng danh hiệu Sư đoàn Quân Tiên Phong, trung đoàn pháo binh 45 được tặng danh hiệu Trung đoàn Tất Thắng.

Trong thời gian này dưới sự chỉ đạo của anh Trần Văn Quang, hai cục Tác chiến và Dân quân đã chuẩn bị xong bán tổng kết kinh nghiệm đánh phá bình định. Dựa vào thực tế chiến trường những năm chống Mỹ, nhất là từ sau Hiệp định Paris, trong đó có kinh nghiệm của quân và dân Khu 9 do đồng chí Lê Đức Anh giới thiệu hồi tháng 2 năm 1974, Bộ Tổng Tham mưu đã đúc kết thành bản báo cáo súc tích, phong phú cả về thực tiễn và lý luận, sẽ được trình bày tại hội nghị sắp tới. Bản báo cáo được anh Văn và anh Dũng thông qua. Sau đó, hội nghị tổng kết kinh nghiệm đánh phá bình định được tổ chức và cuối tháng 5 năm 1974. Đại biểu các chiến trường miền Nam đều ra dự và đóng góp thêm nhiều ý kiến rất quý báu và phong phú. Những bài học rút ra từ cuộc hội nghị quan trọng này là quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng bạo lực và tư tưởng chiến lược tiến công; là thường xuyên bảo đảm cho lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống; thường xuyên tổ chức lực lượng quần chúng, chi bộ Đảng ở cơ sở, từ đó mà phát triển dân quân du kích bổ sung quân cho bộ đội địa phương; từng thời kỳ phát hiện sớm, đánh giá đúng âm mưu và thủ đoạn mới của dịch, nhất là khi chiến tranh có bước ngoặt lớn; biết tuỳ tình hình cụ thể của địa phương mà vận dụng phương châm, phương thức đấu tranh thích hợp; không ngừng phát huy sức mạnh của cả hai lực lượng vũ trang và chính trị, sức mạnh của cả ba mũi giáp công, chủ động tiến công và phản công địch. Tất cả đều nhằm đánh bại kế hoạch bình dịnh, lấn chiếm của địch.

Thực tế trên toàn chiến trường miền Nam cuối năm 1974 đã chứng minh ý nghĩa quan trọng và tác dụng thiết thực của cuộc hội nghị này đối với việc phá bình định, chống lấn chiếm của địch, tạo thế mới, lực mới cho ta.

Một nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt đối với Bộ Tổng Tham mưu trước khi bước vào mùa khô là hoàn chỉnh bản kế hoạch tác chiến cơ bản để trình Quân uỷ Trung ương.

Ngay sau khi có Nghị quyết Trung ương lần thứ 21, Nghị quyết Quân uỷ tháng 10 năm 1973, Tổ trung tâm của Cục Tác chiến đã chuẩn bị bản kế hoạch chiến lược nhan đề: Phương hướng tác chiến 1973-1975, làm cơ sở chuẩn bị cho hội nghị Quân uỷ tháng 3 năm 1974. Sau cuộc họp của Quân uỷ, tháng 5 năm 1974 Cục Tác chiến lại hoàn thành bản dự thảo: Đề cương nghiên cứu kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam.

Sau khi nghiên cứu bản đề cương này, thấy những vấn đề cần bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển trên chiến trường, ngày 18-7-1974, đồng chí Tổng tư lệnh đã căn cứ vào tư tưởng chỉ dạo của Bộ Chính trị, chl thị cho tôi cùng cơ quan tác chiến nghiên cứu lại để hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược cơ bản để trình Bộ Chính trị thông qua vào cuối tháng 9.

Để giúp cơ quan quán triệt ý định của Bộ Chính trị, đồng chí đã nêu lên một số ý kiến cơ bản trong việc xây dựng kế hoạch chiến lược:

1. Phải nắm vững lại toàn bộ tình hình phát triển của cục diện chiến trường từ cuối năm 1978 đến nay. Do chiến trường vận dụng tốt tư tưởng tiến công, kiên quyết phản công và tiến công địch, lại do hậu phương đẩy mạnh việc vận chuyển chi viện cho các chiến trường, cho nên thế mới và lực mới đã hình thành ngày càng rõ nét. Cấn đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá những nhân tố mới đã được tạo ra, làm cơ sở cho quyết tâm chiến lược.

2. Dựa trên thay đổi bước đầu về so sánh lực lượng và cục diện chiến trường, cần xây dựng kế hoạch cơ bản theo hai bước.

Bước một, giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định. Đó là lúc ta đã làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng trên chiến trường. Ta mạnh hơn địch cả về quân sự và chính trị, làm chủ phần lớn vùng nông thôn, rừng núi và tạo được khả năng thành lập chính phủ liên hiệp.

Bước hai, trên cơ sở đó phát triển lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi hoàn toàn.

3. Về chọn hướng chiến lược: Trong bước một nên chọn hai hướng: Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Hai hướng chiến lược này rất quan trọng có ý nghĩa quyết định. Hướng chủ yếu quyết định nhất là miền Đông. Nhưng chỉ khi nào ta có điều kiện dứt điểm. Trên hai hướng chiến lược này, phải có biện pháp nghi binh, tạo yếu tố bất ngờ, không để lộ lực lượng lớn và sớm để địch đề phòng. Trước mắt, chủ lực chỉ nên hoạt động ở mức độ vừa phải.

4. Phải có kế hoạch riêng cho miền Bắc, gắn với kế hoạch miền Nam. Tập trung vào hai nhiệm vụ: động viên chi viện miền Nam cả người và vật chất kỹ thuật; chuẩn bị đề phòng chiến tranh phá hoại trở lại và sẵn sàng kế hoạch tác chiến trong trường hợp địch đổ bộ vào vùng ven biển nam Khu 4.

5. Về xây dựng lực lượng: Nắm vững yêu cầu nâng cao chất lượng chiến đấu; chú trọng giải quyết vấn đề biên chế tổ chức một cách hợp lý, xác định tỷ lệ cân đối giữa các quân chủng, binh chủng, sao cho phù hợp với thực tế số quân hiện nay và khả năng động viên tuyển quân sắp tới; có kế hoạch tích cực bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến lược sắp tới.

6. Về cách đánh: Phổ biến sâu rộng hơn nữa kinh nghiệm vừa tổng kết về đánh phá bình định của địch; tổ chức nghiên cứu kinh nghiệm tác chiến của các đơn vị chủ lực đánh tiêu diệt chi khu, quận lỵ, thị xã và chiến đoàn địch; kinh nghiệm xây dựng đơn vị lớn tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, tiêu diệt sư đoàn địch.

7. Nghiên cứu kế hoạch kết hợp quốc phòng với kinh tế, trong đó có tổ chức quân đội tham gia xây dựng kinh tế và chuẩn bị phục hồi đường sắt từ nam Khu 4 trở vào.

Điều suy nghĩ đầu tiên của tôi sau khi nhận chỉ thị của đồng chí Tổng tư lệnh là nắm lại tình hình mới nhất, toàn diện nhất, là cơ sở cho việc bổ sung và hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược.

Anh Dũng mệt đang nghỉ ở nước ngoài. Tôi cùng anh Tấn và các đồng chí Phó Tổng Tham mưu trưởng khác trao đổi ý kiến, lần lượt nghe các cục trong Bộ Tổng Tham mưu báo cáo và cùng các đồng chí bên Tổng cục Hậu cần đánh giá tình hình tổng hợp trong nửa năm qua. Đáp số cần tìm ra là thế mới, lực mới trên chiến trường, trên cơ sở đó mà đề đạt kế hoạch chiến lược trong vài năm tới.

Điều nổi lên sau đợt hoạt động mùa khô 1973-1974 vừa qua là sự chuyển hoá về lực lượng so sánh giữa ta và địch, là sự thay đổi bước đầu về cục diện chiến trường có lợi cho ta.

Bước vào năm 1974, những số liệu của địch cho thấy chúng vẫn chủ quan khi đề ra chỉ tiêu trong kế hoạch bình định, lấn chiếm, xây dựng quân nguỵ và khôi phục kinh tế. Nhưng thực tế nửa đầu năm 1974 chứng tỏ chúng đã không thể thực hiện được các kế hoạch đề ra.

Quân địch còn đông, phi pháo còn tập trung, đồn bốt ở nông thôn còn nhiều, nên chúng còn kiểm soát kìm kẹp được một số vùng đông dân, còn vét được người, được của cho chiến tranh.

Nhưng về mặt tác chiến, những điểm yếu của địch bộc lộ ngày càng rõ. Khi ta mở đợt hoạt động, nhất là từ tháng 3 năm 1974, đã xuất hiện một tình hình phổ biến trên các chiến trường là địch phải bị động đối phó. Quân số địch tuy còn đông nhưng chúng bị căng kéo buộc phải dàn mỏng lực lượng phòng giữ, sức phản kích hạn chế, khả năng giải toả chậm, điều quân nhỏ giọt, khả năng cơ động giảm sút. Mâu thuẫn ngày càng rõ rệt giữa tung quân bình định, lấn chiếm với tập trung lực lượng giải toả.

Thực tế cho thấy tinh thấn và sức chiến đấu của địch sa sút, nơi nào bị ta đánh mạnh thì chúng bỏ chạy, nhất là bảo an dân vệ.

Trong mấy tháng đầu năm, địch còn dốc sức lấn chiếm một số vùng ở tây Sơn Tịnh, tây Tư Nghĩa, đông Mộ Đức, đông-bắc Đức Phổ và Vùng 4 Kiến Tường, nhung địch không thực hiện được ý định. Các chi tiêu bình định, lấn chiếm do địch đề ra cho sáu tháng đầu năm 1974 dều không đạt được. Số đồn bốt ta gỡ được gấp đôi, gấp ba số địch chiếm lại; vùng kiểm soát của địch ngày càng thu hẹp rõ rệt. Kế hoạch bình định, lấn chiếm có ý nghĩạ chiến lược của chúng đứng trước nguy cơ phá sản, về xây dựng lực lượng, mặc dù địch dùng mọi thủ đoạn để bắt lính, đôn quân hòng cố giữ số quân xấp xỉ năm 1973 và bắt đầu tổ chức các phân, chi khu quân sự xã, nhưng nửa đầu năm 1974 cho thấy quân nguỵ đang trên đà suy sụp nhanh: nạn đào ngũ, rã ngũ tăng, tổng số quân đang có nguy cơ tụt xuống so với năm 1973, số quân của các tiểu đoàn chủ lực và địa phương đều thấp so với biên chế; lực lượng cơ động chiến lược đã thiếu lại bị thu hút tập trung ở vùng 1 chiến thuật.

Điều đáng chú ý là trang bị kỹ thuật của địch còn nhiều, nhưng khả năng sử dụng lại hạn chế, vì hư hỏng không đủ cơ sở sửa chữa, thiếu nhân viên kỹ thuật (riêng phi công chỉ đủ 30% yêu cầu), đạn pháo sử dụng trên chiến trường nửa đầu năm 1974 giảm 9 lần so với nửa đầu năm 1973; xăng dầu giảm hơn một nửa so với năm 1972; trong tổng số 1.800 máy bay chi sử dụng được 1.100 chiếc, v.v.

Tình hình đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần và hoạt động của quân nguỵ trên chiến trường. Điều đó giải thích vì sao tháng 6 năm 1974, Nguyễn Văn Thiệu phải kêu gọi quân nguỵ "chiến đấu theo kiểu con nhà nghèo"!

Nền kinh tế Mỹ gặp khó khăn do hậu quả chiến tranh Việt Nam; viện trợ Mỹ bắt đầu giảm sút đã tác động mạnh đến nền kinh tế nguỵ Sài Gòn. Ngân sách tài khoá năm 1973 thiếu hụt 168 tỷ đồng miền Nam (tức 37% ngân sách); ngân sách năm 1974 - mặc dù Thiệu phải lạm phát 200 tỷ, vẫn thiếu hụt 98 tỷ (18% ngân sách). Hoạt động công nghiệp giảm trên 40%, diện tích canh tác nông nghiệp giảm từ 30 đến 40%.

Về phía ta, từ đầu năm 1974, các chiến trường đã hoạt động đều và mạnh hơn. Trên cả hai miền, ta đã ra sức chuẩn bị về mọi mặt, nhằm tạo thế mới, lực mới để bước vào mùa khô 1974-1975.

Từ Xuân Hè, ta đã chủ động phản công địch, từng bước giành lại các vùng địch lấn chiếm năm 1973 trên cả chiến trường Khu 5, Tây Nguyên và Nam Bộ. Nhiều nơi còn mở thêm được nhiều mảng, nhiều vùng, giải phóng thêm hàng chục vạn dân. Đặc biệt chiến trường miền Tây Nam Bộ, chỉ trong 3 tháng (từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1974), quân và dân Khu 9 đã tiêu diệt và bức rút gần 600 đồn.

Mặc dù phong trào đấu tranh chính trị ở các thành thị chưa đủ mạnh, chưa phối hợp đúng mức với hoạt động quân sự, chiến tranh du kích sâu trong vùng địch kiểm soát còn yếu, việc phát triển lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương còn chậm so với yêu cầu. Nhưng nhìn chung cục diện chiến trường, đến giữa năm 1974, đã chuyển biến ngày càng có lợi cho ta. Về cơ bản, ta đã giành được thế chủ động chiến lược, đã chiếm lĩnh và mở rộng bàn đạp tiến công trên các hướng chiến lược quan trọng.

Vùng giải phóng được mở rộng, đời sống nhân dân ngày càng ổn định, an ninh trật tự bảo đảm. Số dân cũ vùng giải phóng và số dân mới bung về đã yên tâm sản xuất, bảo đảm lương thực, kể cả ở những nai địch ra sức cướp phá thóc lúa và phong toả kinh tế (như ở nhiều vùng thuộc đồng bằng sông Cửu Long); diện tích canh tác trong vùng ta làm chủ so với năm 1973 vẫn tăng (riêng ở Khu 8, sáu tháng đầu năm 1974 tăng 1,3 vạn héc-ta). Tuy nhiên, việc thu mua lương thực còn chậm, mới đạt 40% kế hoạch.

Việc xây dựng lực lượng vũ trang trên cả hai miền đã đạt kết quả quan trọng, nhất là việc kiện toàn khối dự bị chiến lược. Tiếp theo việc thành lập Quân đoàn 1 (tháng 10 năm 1973), thêm hai quân đoàn lần lượt ra đời (Quân đoàn 2 ở Trị Thiên, tháng 5 năm 1974 và Quân đoàn 4 ở Nam Bộ, tháng 7-1974), với đủ các thành phần binh chủng kỹ thuật. Ta đã có thêm những quả đấm chiến lược mạnh, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu đánh tiêu diệt lớn có ý nghĩa quyết định khi thời cơ chiến lược lớn xuất hiện. Điều khiến Bộ Tổng Tham mưu tiếp tục suy nghĩ tìm biện pháp khắc phục là việc tuyển quân và phát triển lực lượng vũ trang địa phương tại chỗ ở miền Nam vẫn chưa đạt chỉ tiêu đề ra.

Nói đến những binh đoàn chủ lực lớn mạnh của ta vào mùa hè năm 1974 này, tôi nhớ lại những ngày gian khổ khi xây dựng các đơn vị chủ lực đầu tiên ở miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ; nhớ đến anh Nguyễn Chí Thanh, uỷ viên Bộ Chính trị một trong những đồng chí lãnh đạo đã dành nhiều tâm lực vào việc xây dựng lực lượng vũ trang ở miền Nam.

Anh Thanh được Bác Hồ và Trung ương Đảng cử vào chiến trường giữa năm 1964, cách đây dúng 10 năm. Tuy chỉ hoạt động trên chiến trường miền Nam chừng ba năm, song anh đã để lại cho cán bộ các cấp những ấn tượng sâu sắc về một cán bộ lãnh đạo có nhiệt tình cách mạng sôi nổi và tầm nhìn chiến lược xa, rộng.

Anh được cử vào Nam khi mà cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đang chuyển từ chiến lược "chiến tranh đặc biệt" sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", với những đơn vị viễn chinh đầu tiên của Mỹ đã có mặt trên chiến trường. Cuộc kháng chiến đang trên xu thế ngày càng phát triển. Điều đó giải thích vì sao, trên cơ sở tiếp thụ ý kiến chỉ đạo của Bác Hồ và Trung ương Đảng, trong suy nghĩ của mình anh Thanh đã sớm hình thành một nhận thức có tầm chiến lược lớn: phải xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam thành những đơn vị mạnh, nhằm đáp ứng yêu cầu tác chiến tập trung ngày càng lớn, bên cạnh sự phát triển ngày càng cao của chiến tranh du kích. Điều đó cũng giải thích vì sao cùng với anh Thanh, hồi đó Đảng còn cử những cán bộ chỉ huy đã được thứ thách nhiều trong tác chiến tập trung, như các anh Lê Trọng Tấn, Hoàng Cầm, Nguyễn Hoà.

Những người làm việc gần gũi anh Thanh