Chương 4 KẾ HOẠCH CHIẾN LƯỢC
Khi đã có các yếu tố để nghiên cứu, xây dựng và hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược cơ bản, chúng tôi cùng Tổ trung tâm của Cục Tác chiến soát xét lại các bản dự thảo kế hoạch đã được anh em chuẩn bị từ trước. Vấn đề đấu tiên được đặt ra là nhìn vào khả năng chủ quan cho phép và tình hình khách quan đòi hỏi, chúng ta có thể dứt điểm vào lúc nào và làm sao tạo được yếu tố bất ngờ chiến lược, giành được thắng lợi lớn nhất?
Trong mấy năm qua, đã từng xảy ra những sự kiện trùng hợp: Cứ bốn năm một lần, vào dịp bầu tổng thống Mỹ, ta lại mở một cuộc tiến công chiến lược lớn trên toàn chiến trường miền Nam (1968, 1972), lần này có nên chọn năm 1976 không? Có ý kiến cho rằng không nên để sự kiện diễn ra như một quy luật như vậy, địch có thể đề phòng, chuẩn bị đối phó trước. Nhưng nếu làm sớm hơn, tức là vào năm 1975 liệu công tác chuẩn bị có kịp không và nếu làm chậm hơn, vào năm 1977, có muộn không? Vấn đề là ở chỗ tạo thời cơ chiến lược và nắm bắt thời cơ ấy xuất hiện vào lúc nào. Phải nắm vững tình hình khách quan và đẩy mạnh nỗ lực chủ quan của ta để thúc đẩy thời cơ chiến lược chín muồi.
Cuộc bàn bạc đang tiếp diễn thì ngày 20 tháng 7, Văn phòng Trung ương Đảng báo cho biết: Đồng chí Bí thư thứ nhất đang nghi ở Đồ Sơn, cho mời chúng tôi xuống để "bàn về tình hình và nhiệm vụ sắp tới; chú ý mang theo bản đồ". Chúng tôi hiểu đó là bàn kế hoạch chiến lược, một vấn đề mà các anh trong Bộ Chính trị đang suy nghĩ để chuẩn bị cho cuộc hội nghị tháng 9 sắp tới.
Chuyến đi dó có anh Lê Trọng Tấn và tôi. Cùng đi còn có đồng chí Võ Quang Hồ, Phó cục trưởng Tác chiến. Trong các cuộc hội nghị bàn về kế hoạch chiến lược của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương anh Hồ thường có nhiệm vụ làm thư ký ghi biên bản và sau đó dựa vào nghị quyết mà tham gia việc xây dựng kế hoạch.
Chúng tôi đi riêng mỗi người một xe, lúc đi cũng như khi đến vào thời điểm khác nhau để tránh những con mắt "tò mò" của địch. Vào những năm cuối của cuộc chiến tranh này, bọn gián điệp nước ngoài rất chú ý theo dõi mọi động tĩnh của cán bộ chủ trì trong cơ quan tham mưu chiến lược.
Trước khi chúng tôi lên đường, anh Văn đã cho thêm những ý kiến cần thiết để báo cáo với anh Ba.
Sáng ngày 21 tháng 7, chúng tôi xuống tới Đồ Sơn. Dọc đường 5, mặt trời hôm đó như mọc sớm hơn, rọi thẳng vào mũi xe.
Tới nơi, gặp anh Ba, chúng tôi biết rõ được ý định của anh.
Chúng tôi đã phán đoán đúng: Anh muốn gợi ý, trao đổi để cơ quan tham mưu suy nghĩ, giúp cho việc chuẩn bị và xây dựng kế hoạch chiến lược. Cách làm việc vẫn là nêu vấn đề, trao đổi ý kiến, làm sao để chúng tôi báo cáo đấy đủ tình hình và hiểu được chiến lược mà anh đã suy nghĩ, chuẩn bị đưa ra báo cáo hội nghị Bộ Chính trị sắp tới.
Anh đặt ra ba vấn đề lớn:
1. Đánh giá tình hình địch, ta vừa qua và hiện nay cả ở Việt Nam, Lào và Campuchia.
2. Phương hướng chiến lược của ta năm 1975 và vài năm sau đó ở miền Nam.
3. Vấn đề xây dựng và bảo vệ miền Bắc.
Dựa vào các vấn đề anh Ba nêu lên, chúng tôi báo cáo những công việc lớn đã và đang tiến hành, theo dõi, chỉ đạo. Cơ quan tham mưu vừa tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm về đánh phá bình định; đang nắm bước hai của đợt hoạt động trên chiến trường, trong đó có việc chuẩn bị cho trận Thượng Đức ở Khu 5 và đợt hai của chiến dịch vận chuyển chiến lược của Đoàn 559, sẽ kết thúc vào tháng 9 năm 1974. Chúng tôi cũng báo cáo công việc chuẩn bị chiến lược trên các mặt: làm đường chiến lược; xây dựng các căn cứ hậu cần ở Trị Thiên, Tây Nguyên, Khu 5 và Nam Bộ; kết quả tuyển quân, xây dựng lực lượng, huấn luyện quân sự đợt 1 và kết quả chi viện chiến trường trong nửa năm qua. Mọi công tác chuẩn bị đều hướng theo yêu cầu tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.
Trước khi báo cáo với anh Ba về cơ sở chính trị, phong trào ở đô thị và vùng ven, nhất là việc giành dân ở đồng bằng sông Cửu Long, về chiến dịch mùa Hè ở Khu 5 phối hợp với Mặt trận Tây Nguyên, chúng tôi báo cáo tổng quát tình hình, có bản đồ kèm theo chứng minh rõ kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch (mà Thiệu coi là nhiệm vụ trung tâm số 1 của chúng trong năm 1974) đang bị ta đánh bại từng bước trên các chiến trường, chứng minh quân và dân ta đã tạo được thế mới và lực mới ngày càng có lợi trên các mặt trận.
Chúng tôi báo cáo về phong trào đấu tranh chính trị trong thành phố Sài Gòn. Điểm mới là sự xuất hiện khối liên kết giữa 200 nghiệp đoàn các ngành, các giới trong "tổng liên đoàn lao động", đấu tranh chống sa thải, chống Mỹ hành hung. Tuy nhiên, do địch tăng cường bộ máy kìm kẹp nên tổ chức cơ sở chính trị trong nội đô và vùng ven phát triển còn chậm.
Trong khi đó ở đồng bằng sông Cửu Long, thế và lực của ta phát triển tốt. Ở Khu 8, tuy ta chưa giành lại hoàn chỉnh Vùng 4 Kiến Tường, nhưng đã đẩy lùi địch ở trung tâm Đồng Tháp Mười, mở nhiều lõm mới ở Mỹ Tho, Bến Tre, Sa Đéc, An Giang, đặc biệt là chuyển lên phá vùng di dân của địch ở Đồng Tháp, mở mảng lớn ở Chợ Gạo. Nổi lên vẫn là Khu 9.
Trong 6 tháng, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 4,1 vạn tên (rã 1,1 vạn), diệt 5 tiểu đoàn, 50 đại đội, 1 chiến đoàn, 1 giang đoàn; đánh thiệt hại 6 tiểu đoàn, 1 giang đoàn; phá 148 xe (83 xe M.113), đánh chìm 78 tàu, phá 59 pháo, diệt 228 vị trí, bức hàng 9 đồn, dùng ba mũi giáp công ở xã, ấp, có chủ lực hỗ trợ, bức rút 562 đồn, binh biến 8 đồn. Trong số 807 đồn ta gỡ, địch chỉ chiếm lại được 330 đồn. Ta giải phóng 312 ấp (7 xã giải phóng hoàn toàn) với 28 vạn dân, đưa số dân giải phóng và tranh chầp lên 1 triệu 11 vạn.
Từ thực tế đó, chúng tôi có cơ sở để báo cáo với anh Ba - điều mà chúng tôi nhất trí với kết luận của Trung ương Cục hồi tháng 6 vừa qua, địch đã thất bại trong âm mưu lấn chiếm vùng đông dân, củng cố vùng chúng kiểm soát, nhất là xung quanh Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long; ta vẫn giữ được các khu căn cứ, các lõm du kích ở miền Đông và quanh Sài Gòn, đã giành lại hầu hết vùng địch lấn chiếm sau Hiệp định, khôi phục lại trạng thái trước ngày 28-1-1973, đồng thời mở rộng thêm một số vùng giải phóng mới ở Gò Công, Chợ Gạo, Mỹ Tho, Bạc Liêu, Sóc Trăng; vùng trung tâm Đồng Tháp đã nối liền với vùng giải phóng nam, bắc đường 4, căn cứ U Minh và Năm Căn, đã nối liền với vùng ruột bốn tỉnh sông Hậu(1).
Một điều đã có thể khẳng định là qua mùa khô vừa rồi, ta đã giành thắng lợi và đang phát triển đi lên, địch đã bị thất bại và đang trên đà đi xuống. Trong mùa mưa này, ta có nhiều thuận lợi và có khả năng giành thắng lợi lớn hơn bất cứ mùa mưn nào trước đáy có thể hơn cả mùa khô vừa qua.
Dù thời tiết sắp tới có khó khăn hơn, ta cũng phải nỗ lực hơn nữa đẩy mạnh hoạt động về mọi mặt, tạo thêm thế mới, lực mới, cả điều kiện vật chất và tinh thần để bước vào mùa khô năm 1974-1975 với khí thế cao hơn và lực lượng mạnh hơn.
Chúng tôi cũng báo cáo tình hình các địa phương triển khai thực hiện Nghị quyết 21 của Trung ương và Nghị quyết tháng 3 năm 1974 của Quân uỷ được Bộ Chính trị thông qua: các cấp uỷ đảng và cán bộ chỉ huy đều rất tâm đắc và cho là các nghị quyết đó "rất trúng, rất kịp thời"; nghị quyết đã và đang "thấm" nhanh xuống từng địa phương, từng đơn vị.
Trong việc triển khai các nghị quyết trên, nổi lên là việc vận dụng phương châm, phương thức đấu tranh trong điều kiện cụ thể của từng vùng và vấn đề xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang địa phương. Bộ dội chủ lực vừa luân phiên xây dựng, huấn luyện, vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, kiên quyết tiến công và phản công địch, làm thất bại âm mưu bình định, lấn chiếm của chúng, giành dân và giữ dân, bảo vệ và mở rộng vùng giải phóng.
Trải qua mấy tháng hè, sức chiến đấu của bộ đội đã nâng lên một bước quan trọng so với đầu năm. Kết quả trên đây phản ánh một quá trình đấu tranh thắng lợi trong nhận thức, tư tưởng nội bộ ở một số địa phương, để đi đến nhất trí, giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhiệm vụ dánh địch bình định, lấn chiếm trước mắt và xây dựng lực lượng, thế trận cho cả trước mắt và lâu dài. Dựa vào kết quả đóng góp hết sức to lớn của nhân dân và sự chi viện tích cực của các ngành cơ quan Nhà nước, các cơ quan Bộ Quốc phòng và Đoàn 559 đã cố gắng thực hiện đúng kế hoạch vận chuyển chi viện cho chiến trường và kế hoạch làPl đường chiến lược, kể cả các đường chiến dịch đi sâu vào từng chiến trường. Hội nghị rút kinh nghiệm đánh phá bình định do Bộ Tổng Tham mưu triệu tập đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề chỉ đạo phương châm, phương thức, cách đánh của ta, nhất là cách kết hợp ba mũi giáp công ở xã, ấp.
Anh Ba gợi ý cần nghiên cứu cách đánh thế nào, để làm rã bộ máy hành chính của địch. Ở đồng bằng, nên dùng lực lượng lữ đoàn hay sư đoàn để đánh vỡ từng mảng, mở ra từng khu vực; Sài Gòn là nơi hiểm yếu của địch, cần tổ chức các lõm thế nào để lực lượng ta đứng chân được.
Sau một buổi nghe báo cáo, chiều ngày 21, anh Ba phát biểu những suy nghĩ của anh về những vấn đề có hên quan đến kế hoạch chiến lược, đến thời cơ chiến lược, nhất là tình hình thế giới và vùng Đông Nam châu Á, có liên quan đến cuộc kháng chiến của ta ở miền Nam.
Đại ý anh nói:
- Nhìn vấn đề Việt Nam phải nhìn chung cả Đông Dương và Đông Nam châu Á. Nếu như trước đây, ta cho rằng Mỹ đưa quân vào Nam Việt Nam chỉ nhằm tăng thêm một khâu trong mắt xích chiến lược bao vây phe ta ở Viễn Đông, thì ngày nay, vấn đề Việt Nam và Đông Dương càng nổi lên trong vùng Đông Nam châu Á, một vùng mà nhiều nước có ý đồ tranh giành ảnh hưởng.
Đã có lúc họ tưởng rằng Mỹ có thể dùng quân sự để làm chủ miền Nam Việt Nam. Nhưng nay Mỹ đã thua, đã phải rút quân; cuộc chiến tranh Việt Nam đã làm cho Mỹ yếu đi rõ rệt. Trong khi đó các nước khác có ý đồ đối với vùng Đông Nam châu Á đều chưa mạnh và chưa sẵn sàng. Họ rất sợ ba nước Đông Dương thắng lợi và mạnh lên. Vấn đề đặt ra với ta là làm sao tạo thời cơ để giành thắng lợi sớm hơn, thắng ngay trong lúc các nước đó chưa sẵn sàng can thiệp. Tuy không công khai nói ra, nhưng họ đã gặp nhau trong mưu đồ đen tối với Đông Nam châu Á. Vụ Hoàng Sa hồi tháng 1-1974 là một ví dụ. Cho nên, hiện nay khi các nước đó chưa đủ điều kiện để thực hiện ý đồ xấu xa của họ thì việc ta tạo thời cơ và chớp thời cơ giành thắng lợi hoàn toàn càng trở nên cấp thiết. Miền Nam được giải phóng, ta có 50 triệu dân của cả nước đã độc lập, thống nhất, thì các nước đó sẽ không còn điều kiện thực hiện được ý đồ như họ mong muốn, đối với Đông Dương nói riêng cũng như đối với Đông Nam châu Á nói chung.
Ta cần nghiên cứu cách đánh thắng thế nào, phải thắng to, thắng nhanh để nguỵ không kịp trở tay, các nước có ý đồ can thiệp không kịp can thiệp. Muốn vậy, phải chuẩn bị cho cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa, dứt điểm trong vòng 1-2 tháng khi có thời cơ chiến lược.
Muốn đánh lớn, đánh nhanh, thắng to, phải tạo sức mạnh mới, dùng từng quân đoàn tiêu diệt sư đoàn địch. Nhiều nước hiện nay cho rằng ta không có khả năng tổ chức lực lượng lớn và cơ động nhanh cũng tức là ta không có hoặc chưa có khả năng đánh lớn.
Ta cần suy nghĩ làm sao dứt điểm trong một thời gian ngắn. Như vậy sẽ tạo được bất ngờ không những đối với nguỵ, với Mỹ, mà cả đối với các nước khác đang có ý đồ xấu xa đối với Đông Dương và Đông Nam châu Á.
Nhân lúc anh dừng lại để uống nước và suy nghĩ thêm, chúng tôi tranh thủ báo cáo rõ hơn về khối chú lực dự bị chiến lược của ta đang được kiện toàn về hai trục đường chiến lược đã được mở rộng trên hai phía Đông và Tây Trường Sơn, về khả năng cơ động bằng cơ giới của những binh đoàn chiến lược v.v…
Anh Ba nói tiếp:
- Như vậy là tốt. Ta có cơ sở để nghiên cứu cách đánh tiêu diệt lớn về chiến dịch và chiến lược. Phải tổ chức lực lượng dự bị chiến lược thành những quân đoàn mạnh, cơ động nhanh, đánh diệt từng sư đoàn địch, kết hợp đánh tiêu diệt với làm tan rã lớn quân địch. Về tổ chức và sử dụng lực lượng, cần làm sao phát huy được sức mạnh tổng hợp. Đây là một bài toán, phải có đủ cơ sở thực tiễn và lý luận cao hơn nữa để tìm ra đáp số.
Riêng về bộ đội tập trung của các quân khu, phải tổ chức từng tiểu đoàn đủ số quân, trang bị mạnh, thành những mũi nhọn vận động rất nhanh(2) luồn sâu vào vùng sau lưng địch, đồng thời có những sư đoàn hoặc lữ đoàn trang bị pháo, cối nhẹ xuống đánh ở đồng bằng.
Nếu năm tới (1975) phong trào đô thị mạnh lên, ta lại nắm vững nông thôn, thì Mỹ sẽ buộc phải thay Thiệu để vớt vát lại một số điều khoản của Hiệp định còn có lợi cho chúng.
Các anh cần nghiên cứu, quán triệt tinh thần này một cách cặn kẽ, cần chuẩn bị thế nào để năm 1975 có thể nâng lên một khí thế mới, một sức mạnh mới.
Sau giờ nghỉ giải lao, anh Tấn báo cáo thêm về những ý định chính của Bộ Tổng Tham mưu đối với từng chiến trường như sau:
- Ở đồng bằng sông Cửu Long, cần cố gắng gỡ hơn một nghìn đồn trong năm 1974; sang năm 1975, gỡ thêm vài nghìn đồn nữa, sẽ tạo thành các mảng liên hoàn. Về giành dân thì đưa lên được ba triệu dân vùng giải phóng, hai triệu dân ở vùng tranh chấp.
Muốn thế, phải diệt từng chi khu cỡ tiểu đoàn và diệt viện 2-3 tiểu đoàn đến 1 chiến đoàn địch đi giải toả. Lúc đó, sẽ bảo đảm mở thông hành lang từ biên giới xuống Khu 8, Khu 9. Bộ Tổng Tham mưu trù tính tăng cường cho Bến Tre, Trà Vinh, mỗi nơi đủ một trung đoàn và tính chung trong năm 1974 tăng cho đồng bằng sông Cửu Long một vạn quân, tăng vũ khí đánh đồn, đánh thiết giáp, đánh tàu trên sông và bắn máy bay. Lực lượng vũ trang địa phương phải vừa hoạt động vừa huấn luyện, đánh được đồn, đánh được địch đi giải toả ứng cứu. Chúng tôi thấy cần tăng cường tổ chức chỉ huy các chiến dịch tổng hợp ở từng khu vực; tổ chức thêm nhiều đội đặc công, đánh mạnh hơn nữa vào các căn cứ kho tàng sâu trong vùng địch kiểm soát.
Trên chiến trường Khu 5, phải tiêu diệt địch, mở rộng vùng núi tây Quảng Nam. Bộ Tổng Tham mưu mới được báo cáo, ta vừa diệt cứ điểm Nông Sơn, diệt bốn tiểu đoàn địch trong đó có một tiểu đoàn biệt động quân. Cần tiếp tục tiêu diệt các điểm còn lại ở vùng núi. Sang năm 1975, phải mở rộng đồng bằng, từ Quảng Đà đến Bình Định, giải phóng thêm một triệu dân.
Ở Tây Nguyên cần giải quyết những cứ điểm lẻ, cả phía bắc và những điểm còn lại ở phía tây để làm chủ rừng núi và bảo đảm mở rộng vùng căn cứ và thông đường chiến lược một cách vững chắc, hình thành hành lang nối liền Nam Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ.
Chiến trường miền Đông cần mở rộng phía sau trên đường 14 nối thông xuống đường Biên Hoà và Khu 6 thành căn cứ liên hoàn. Giữ vững và mở rộng các vùng tranh chấp chung quanh Sài Gòn để tạo thế bao vây, áp sát và thâm nhập nội đô, đồng thời đánh cắt đường 1 đi Phan Thiết, đường 20 đi Đà Lạt.
Về lực lượng dự bị chiến lược, Bộ Tổng Tham mưu đang nghiên cứu khả năng cơ động quân đoàn, và từng bước tổ chức thêm các quân đoàn tại chỗ.
Về cách đánh, ngoài việc rút kinh nghiệm đánh phá bình định và nghiên cứu kinh nghiệm đánh chi khu quận lỵ, Bộ Tổng Tham mưu đã giao cho Viện khoa học quân sự kết hợp với Trường bổ túc quân sự cao cấp nghiên cứu nghệ thuật chiến dịch, đánh hiệp đồng binh chủng trên quy mô lớn trong điều kiện hiện nay. Việc huấn luyện bộ đội chủ lực trong năm 1974 cũng đã hướng theo yêu cầu đánh hiệp đồng binh chủng, đánh tiêu diệt lớn.
Tiếp lời anh Tấn, tôi phát biểu thêm:
- Từ nay đến cuối năm 1974, ta cố gắng diệt được 6-7 chi khu quận lỵ, 5-6 chiến đoàn, toàn miền Nam giành được 3,5 triệu dân vùng giải phóng và chừng 5 triệu dân ở vùng tranh chấp thì tình hình sẽ chuyển biến lớn và qua năm 1975, các chiến trường sẽ có nhiều khả năng phát triển, tạo thế mới, lực mới rất vững chắc.
Vấn đề đáng quan tâm hiện nay là phong trào đô thị, cơ sở chính trị còn yếu; cuộc vận động chính trị chưa phát triển mạnh.
Nhựng tin rằng thắng lợi quân sự sẽ tác động mạnh đến phong trào chính trị và năm 1975, nếu phong trào đô thị được dẩy lên thì chắc chắn năm 1976 tình hình sẽ biến chuyển rất lớn. Lúc đó, ta sẽ có thể tiến nhanh, dứt điểm trong vài ba tháng trở lại.
Anh Ba lại nói thêm:
- Cần chuẩn bị như thế nào để sang năm 1975 có thể đánh được quy mô vừa, cũng có thể đánh được quy mô lớn, diệt từng sư đoàn địch. Phải có cách đánh như thế nào để vừa tiêu diệt được địch, vừa làm tan rã lực lượng của chúng. Cần xem xét chỗ nào có điều kiện thắng lớn thì làm tới. Nhưng phải thấy vấn đề phức tạp chứ không đơn giản. Phải làm cho địch bất ngờ, làm cho chúng sớm yếu và mau tan rã. Muốn vậy, về thế trận phải chú ý chia cắt địch nhiều hơn nữa, phải mở phía sau lưng địch rộng hơn nữa. Về lực lượng, có thể đưa thêm lực lượng miền Bắc vào, vừa làm kinh tế làm đường, vừa làm lực lượng dự bị chiến lược.
Anh Ba dành thời gian còn lại của chiều hôm đó để nói thêm về công tác vận động chính trị. Anh cho rằng từ năm 1954 đến nay, chưa bao giờ địch ở Sài Gòn yếu như hiện nay, cả về chính trị, kinh tế, cả mâu thuẫn nội bộ. Hồi Diệm, địch mạnh vì lực lượng ta rút đi. Đến lúc ta mạnh lên, Diệm sụp đổ, Mỹ lại vào ngay, nên nó vẫn mạnh. Nay quân Mỹ ra rồi thì nguỵ chỉ có yếu đi Sài Gòn hiện nay không chỉ có lực lượng của ta mà còn có lực lượng thứ ba, có nhân sĩ tiến bộ. Nếu ta biết làm thì sẽ phát triển lực lượng, sẽ thúc đẩy được phong trào. Năm 1975, nhất định ta phải đưa phong trào đô thị lên mạnh. Tình hình nước Mỹ rất rối; Ních-xơn có thể đổ. Pho lên, ông ta sẽ tìm cách dàn xếp một bước với ta. Ta phải đưa phong trào đô thị lên mạnh để thêm thế mới, thêm lực mới. Trong phong trào đô thị hiện nay cần chú ý kết hợp cả hai hình thức hoạt động: bí mật và công khai; bí mật là điều kiện tồn tại của Đảng, công khai là điều kiện phát triển của phong trào.
Đồng ý với các anh, phong trào chính trị là do lực lượng quân sự của ta thường xuyên tác động, nhưng cũng còn do mâu thuẫn nội tại của địch tạo nên, tức là do tình hình khác quan thúc đẩy. Ví dụ Ních-xơn đổ, Pho lên, địch thay đổi tay sai, v.v. Một ngày làm việc liên tục trôi đi rất nhanh.
Điều lắng đọng sâu sắc trong tâm trí tôi sau một ngày bàn bạc và suy nghĩ, là ý kiến anh Ba về thời cơ chiến lược. Rõ ràng tình hình đòi hỏi phải khẩn trương hơn. Vài năm tới là thời điểm khẩn thiết và cũng là thời cơ thuận lợi nhất để giành thắng lợi quyết định. Càng để lâu, tình hình sẽ càng trở nên phức tạp. Cần có quyết tâm và kế hoạch đánh lớn, thắng nhanh để Mỹ-nguỵ không kịp trở tay, các nước có mưu đồ không kịp can thiệp.
Hôm sau, anh Ba nói nhiều về vấn đề xây dựng kinh tế ở miền Bắc: về quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, về cân đối giữa công nghiệp - nông nghiệp trên địa bàn huyện và trên phạm vi cả nước, về kết hợp quốc phòng với kinh tế kinh tế quốc phòng, về quân đội tham gia làm kinh tế, v.v.
Nhưng rồi, chỉ một lúc sau, anh lại trở về vấn đề cách mạng miền Nam. Thì ra vấn đề đó cấp bách quá, to lớn quá, luôn luôn thu hút luồng suy nghĩ của mỗi người có trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân và Tổ quốc.
Chúng tôi báo cáo thêm với anh Ba một vấn đề hiện vẫn chưa có cách giải quyết toàn diện, vững chắc: vấn đề đạn lớn.
Đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh vào thành phố, vào các căn cứ lớn của nguỵ, phải có đạn lớn mới đáp ứng yêu cầu tiêu diệt lớn. Hiện ta chỉ còn chừng 10 vạn viên. Đang cho thu hồi vỏ đạn để nhồi vào cải tiến sản xuất trong phạm vi có thể. Đề nghị Trung ương đặt vấn đề tranh thủ viện trợ của các nước anh em.
Đồng chí Bí thư thứ nhất nói:
- Ta phải xin rải ra các nước anh em. Cứ nghiên cứu nhồi đạn, cải tiến sản xuất và bàn thêm cách khắc phục thế nào nếu viện trợ khó khăn.
Giờ cuối cùng buổi sáng hôm đó (ngày 22 tháng 7) cuộc họp biến thành mạn đàm chung quanh vấn đề thời cơ dứt điểm. Dự kiến năm 1975 có thể xuất hiện cao trào, đồng thời cũng dự kiến một bước phát triển mới trong năm 1976 trước khi Mỹ bầu tống thống. Bằng "cú" quyết định năm 1976, có thể buộc địch phải chấp nhận chính phủ ba thành phần. Dự kiến trong mấy năm tới nhất định phải đạt tới thống nhất đất nước. Nhưng ta phải luôn luôn sẵn sàng; nếu xảy ra đột biến, tốc độ sẽ phát triển nhanh hơn. Anh Ba nói: "Giành được thắng lợi quyết định trong vài ba năm là giỏi lắm, giỏi lắm".
Chiều hôm đó trước khi chúng tôi trở về Hà Nội, bắt tay chúng tôi anh Ba lại dặn: phải xây dựng kế hoạch chiến lược sao cho tạo được thời cơ chiến lược và sẵn sàng chớp thời cơ chiến lược.
Khi xe vừa ra khỏi thành phố Hải Phòng, ra khỏi làn gió biển thì tâm trí tôi lại thu hút vào vấn đề số 1: Tìm cho ra những yếu tố cần thiết để cùng anh em trong cơ quan xây dựng và hoàn chỉnh hơn kế hoạch chiến lược. Tôi tập trung suy nghĩ về mấy ẩn số, phải tìm cho ra lời đáp.
Một là, khả năng can thiệp vào của Mỹ thế nào khi ta đánh lớn và nguỵ quân, nguỵ quyền đứng trước nguy cơ sụp đổ? Đã nhiều lần ta cho rằng Mỹ đã rút quân, nước Mỹ đang rối loạn cả về chính trị, kinh tế, xã hội, ít khi có khả năng can thiệp trở lại, nhất là bằng lục quân. Nhưng còn khả năng can thiệp bằng không quân và hải quân, ít nhất cũng dọc ven biển, thế nào? Điều rất đáng chú ý: khả năng can thiệp ở mức độ đó không có ý nghĩa quyết định, nhưng cũng không phải không gây cho ta khó khăn, nên ta không thể loại trừ.
Hai là, vấn dề nổi dậy của quần chúng phối hợp với cuộc tiến công của bộ đội chủ lực? Ta nói phát huy tác dụng của ba đòn chiến lược: chủ lực, nông thôn và đô thị phối hợp với nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Nhưng chủ lực đã mạnh và ngày càng có triển vọng mạnh thêm, còn phong trào chính trị thì trước mắt còn khó khăn. Ở nông thôn, địch đang quân sự hoá bộ máy kìm kẹp ở xã ấp; phải đẩy mạnh hoạt động quân sự thế nào, phát triển lực lượng chính trị thế nào để tạo điều kiện cho quần chúng bung ra. Giành dân để làm chủ, làm chủ để giành dân vốn là một điều mà các anh thường xuyên nhắc nhở, thường xuyên quan tâm.
Ở đô thị, lực lượng quần chúng lực lượng thứ ba chưa phải đã mạnh, làm sao phát triển được rộng rãi, chuẩn bị điều kiện để công nhân biết làm chủ xí nghiệp, người buôn bán biết làm chủ chợ, học sinh làm chủ trường học, công chức làm chủ công sở, sẵn sàng phối bợp khi chủ lực đánh lớn, khi quần chúng nông dân vùng đồng bằng bung ra, tạo thành sức mạnh lật đổ Thiệu. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, nên đặt vấn đề tổng công kích, tổng khởi nghĩa hay tổng tiến công và nổi dậy?
Ba là, cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và đạn pháo nói riêng? Đạn lớn rất cần cho đánh tiêu diệt lớn nhưng chúng ta chỉ còn rất ít. Nhồi lại chỉ là một cách chắp vá, lại không bảo đảm tính chuẩn xác về kỹ thuật, không bảo đảm số lượng trước yêu cầu đánh lớn. Sử dụng tiết kiệm cũng là một biện pháp; trong lúc đánh nhỏ và đánh vừa không vội tung ra nhiều đạn lớn mà phải dành dụm đạn lớn cho thời điểm quyết định; còn phải biết lấy súng đạn của địch để đánh địch. Nhưng như vậy đã đáp ứng yêu cầu đạn pháo cho đánh lớn chưa?
Ngoài mấy vấn đề trên, thời cơ giành thắng lợi quyết định là bao giờ? Như anh Ba nói, thời cơ phải là khi các "quá đấm" chủ lực đã sẵn sàng và lực lượng chính trị đã mạnh đủ sức làm chủ nông thôn, đô thị sẵn sàng nổi dậy phối hợp: Trong đề án dự thảo trước, chúng tôi trù tính giành thắng lợi quyết định vào năm 1976 và không loại trừ sang cả năm 1977. Bây giờ gợi ý của anh Ba là càng sớm càng tốt, càng để lâu tình hình càng phức tạp; phải đặt mục tiêu thắng lợi từng bước thế nào và sẵn sàng chớp thời cơ chiến lược thế nào cho phù hợp?
Sau khi anh Tấn truyền đạt lại những ý kiến chỉ đạo của anh Ba với các anh em trong Tổ trung tâm dự thảo kế hoạch, tôi đem tất cả những vấn đề suy nghĩ trên đây trao đổi với các anh và nhận thấy nhiều vấn đề trùng hợp với những suy nghĩ của các anh.
Chúng tôi bắt đầu rà xét lại bản dự thảo cũ, bổ sung điều chỉnh sao cho phù hợp với thực tế mới nhất của tình hình và những gợi ý của anh Ba.
Trong những ngày này, chúng tôi gần như đồng thời nhận được hai tin rất quan trọng: Ta đánh chiếm Nông Sơn, Thượng Đức và Ních-xơn từ chức, Pho lên thay. Hai tin trên giúp chúng tôi rút ra được những kết luận quan trọng có quan hệ tới việc bổ sung và hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược.
Mùa thu năm 1974 này, tập trung vào hai tháng 7 và 8, Khu 5 mở chiến dịch trên năm hướng Nông Sơn - Trung Phước, Quế Sơn (tây Quảng Nam), Thượng Đức (tây Quảng Đà), Minh Long - Giá Vụt (tây Quảng Ngãi), Đèo Nhông - Phù Mỹ (bắc Bình Định). Trong năm hướng đó, Bộ Tống Tham mưu đặc biệt quan tâm trặn tiến công chi khu Nông Sơn và chi khu quận lỵ Thượng Đức.
Binh lực địch ở Thượng Đức và vị trí hiểm yếu của quận lỵ này nói lên vai trò cửa ngõ của nó đối với căn cứ liên hợp Đà Nẵng.
Cùng với Nông Sơn, Tiên Phước và các hướng khác, việc quân ta tiêu diệt Thượng Đức và đánh bại các đợt phản kích của sư đoàn dù cơ động, xương sống của nguỵ, cho phép khẳng định: Lực lượng so sánh trên chiến trường đã thay đổi, quân ta có thể tiến công địch trong công sự kiên cố, diệt cụm cứ điểm quận lỵ địch và giữ được mục tiêu mới chiếm. Qua trận Thượng Đức, ta thấy quân nguỵ ngày càng suy yếu rõ rệt, phi pháo giảm sút, quân cơ động phải điều động chắp vá, nhỏ giọt, chủ yếu dựa vào đường bộ nên phản ứng chậm, cả quân chủ lực và địa phương tinh thần đều sa sút. Viên thiếu tá nguỵ bị bắt trong trận này đã thừa nhận: Quân đội Sài Gòn không có đủ máy bay để chở quân; quân chi viện không những thiếu mà còn phải hành quân bộ. Tóm lại, qua hai trận Nông Sơn, Thượng Đức, điều có thể khẳng định là chủ lực cơ động của ta đã hơn hẳn chủ lực cơ động của địch. Kết luận đó liên quan không nhỏ đến quyết tâm chiến lược của ta.
Nội bộ giới cầm quyền ở Oa-sinh-tơn, như ta đã dự kiến, ngày càng bị phân hoá, chia rẽ. Khi quân Mỹ rút về nước, làn sóng phản đối Ních-xơn về vụ Oa-tơ-ghết đã dịu đi một thời gian, đến nay lại bùng lên trong dư luận Mỹ. Từ việc quốc hội Mỹ bác bỏ viện trợ bổ sung cho nguỵ, việc Thiệu kêu gọi quân nguỵ "đánh theo kiểu con nhà nghèo", thực tế trên chiến trường là phi pháo và phương tiện cơ động của chúng đã bị giảm sút, đến việc Ních- xơn phải cay đắng ra khỏi Nhà Trắng. là một chuỗi sự kiện cho thấy rõ khả năng can thiệp của Mỹ ngày càng hạn chế. Tuy nhiên, cần tiếp tục theo dõi hành động của Pho. Lời tuyên bố gần đây nhất của viên tổng thống mới này cho thấy Nhà Trắng vẫn bám lấy học thuyết Ních-xơn không có Ních-xơn, cho thấy trước mắt Mỹ chưa từ bỏ Thiệu.
Trong quá trình rà xét lại bản dự thảo kế hoạch chiến lược, anh em trong Tổ trung tâm do anh Lê Trọng Tấn, sau đó anh Cao Văn Khánh chỉ đạo, đã nhanh chóng nhất trí về đánh giá địch, ta và tình hình quốc tế, nhưng thảo luận sôi nổi nhất xung quanh mấy vấn đề lớn, nhất là về ý định chiến lược chung và về các bước đi. Chúng tôi bàn cụ thể về mục đích, yêu cầu, nội dung và thời gian của từng bước, dự kiến tình hình phát triển và các khả năng xuất hiện trong quá trình diễn biến của từng bước, phương châm, phương pháp tiến hành.
Sau đó, chúng tôi đi sâu vào thảo luận kế hoạch cụ thể năm 1975 và phương hướng kế hoạch năm 1976.
Yêu cầu đặt ra cho năm 1975 là: Tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp, nhằm:
1. Đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch; giành đất, giành dân ở nông thôn đồng bằng;
2. Làm giảm tổng số quân của địch xuống một mức có ý nghĩa chiến lược;
3. Phá huỷ một bộ phận quan trọng dự trữ vật chất và đánh phá giao thông chiến lược của địch;
4. Củng cố hoàn chỉnh vùng giải phóng, căn cứ địa;
5. Xây dựng lực lượng của ta về mọỉ mặt;
6. Mở rộng hành lang chiến lược và mạng đường chiến dịch, xây dựng bàn đạp áp sát thành phố, thị xã và các căn cứ trọng yếu;
7. Đẩy cho được phong trào ở thành thị lên, nhất là ở Sài Gòn;
8. Hoàn thành về cơ bản mọi công tác chuẩn bị để có thể chủ động thực hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, nếu thời cơ chiến lược xuất hiện sớm.
Với mỗi yêu cầu trên đây, chúng tôi cùng anh em đề ra chỉ tiêu cụ thể trên từng địa bàn, mức độ cụ thể cần đạt được. Chúng tôi dự kiến năm 1975 sẽ chia làm ba đợt hoạt động, có chỉ tiêu cụ thể hướng chính và hướng phối hợp.
Quá trình diễn biến của ba đợt là quá trình xây dựng và phát triển lực lượng trong các đô thị (đặc biệt là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế), đẩy mạnh công tác binh vận, chuẩn bị lực lượng cơ động chiến lược, hoàn thành kế hoạch vận chuyển chi viện cho chiến trường, phát triển trục đường chiến lược vào tới miền Đông Nam Bộ và các đường chiến dịch.
Về phương hướng kế hoạch năm 1976, chúng tôi dự kiến ba tình huống và phương hướng phấn dấu trong từng tình huống làm cơ sở đặt kế hoạch cụ thể sau này. Kế hoạch đó phải căn cứ vào thắng lợi giành được trong năm 1975. Ba tình huống đó là:
1. Địch ngoan cố chiến tranh.
2. Địch chịu lùi một bước, chấp nhận thi hành Hiệp định.
3. Thời cơ khởi nghĩa ở thành thị xuất hiện sớm vào năm 1976.
Đến ngày 26-8-1974 bản dự thảo kế hoạch đã hoàn thành. Nếu tính từ ngày Tổ trung tâm(3) bắt đầu biên soạn sau khi có Nghị quyết tháng 3 năm 1974, thì đáy là bản dự thảo lấn thứ bảy. Tuy nhiên, anh em không dừng ở lại đây Bản dự thảo kế hoạch được gửi đến các đồng chí trong Bộ Chính trị và Thường trực Quân uỷ Trung ương để các anh nghiên cứu và cho ý kiến trước. Tháng 8, đồng chí Tổng Tham mưu trường đi nghỉ ở nước ngoài về. Sau khi nghe báo cáo, anh góp nhiều ý kiến trong quá trình hoàn chỉnh bản kế hoạch chiến lược. Tổ trung tâm tiếp tục theo dõi tình hình chiến trường và lắng nghe ý kiến bước đầu của các đồng chí lãnh đạo để bổ sung những điều cần thiết, sau khi đã cùng chúng tôi trao đổi thống nhất.
Cũng trong dịp này, vào hạ tuần tháng 9, Bộ Tổng Tham mưu nhận nhiều tin tức về địch, trong đó đáng chú ý là bản tường trình của bộ Tổng Tham mưu nguỵ gửi cho Thiệu về dự kiến năm 1975.
Theo tài liệu đó, nguỵ cho rằng nếu Mỹ viện trợ 1,4 tỷ đô la, chúng sẽ kiểm soát được toàn miền Nam; 1,1 tỷ đô-la sẽ mất một nửa quân khu 1 về phía bắc; nếu chỉ 900 triệu đô-la sẽ mất toàn bộ quân khu 1 và vài tỉnh quân khu 2, còn 750 triệu đô-la sẽ mất toàn bộ quân khu 1 và quân khu 2; nếu chỉ còn 600 triệu đô la, thì chỉ kiểm soát một nửa quân khu 3 từ Biên Hoà vào tới quân khu 4(4). Địch cũng thú nhận: đến tháng 9 năm 1974, đã có chừng 1.000 máy bay không hoạt động được vì thiếu nhiên liệu và phụ tùng.
Số quân địch, theo tài liệu trên, có chừng một triệu tên, trong đó có trên 15 vạn tên không chiến đấu (và có chừng 20 vạn tên thuộc "quân số ma"). Việc bắt lính ngày càng trở nên khó khăn, không đạt kế hoạch dự tính.
Do những khó khăn về binh lực, nên bộ Tổng Tham mưu nguỵ dự tính rút đi 25-30% số đồn bốt cô lập, tiếp tế khó khăn và không có khả năng đứng vững nếu ta tiến công.
Về chính trị, có tin Mỹ trù tính cùng một số nước lớn triệu tập cuộc họp với các nước liên quan để tìm giải pháp chính trị đối với miền Nam Việt Nam, trù tính đưa lực lượng thứ ba (do Mỹ sắp xếp) ra sân khấu chính trị Sài Gòn, trù tính thi hành thêm một số điều khoản quan trọng còn lại của Hiệp định Paris.
Chúng tôi cho xác minh lại những tin tức trên, mặt khác chúng tôi vẫn báo cáo trước hội nghị Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương để các anh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình thảo luận và thông qua bản kế hoạch chiến lược.
Trước ngày hội nghị khai mạc, Cục Tác chiến đã thể hiện tình hình chiến sự mới nhất lên các tấm bản đồ lớn treo trong phòng họp, trong đó có trận tiến công của ta tiêu diệt cứ điểm Nông Sơn, quận lỵ Thượng Đức và các đợt phản kích của các lữ dù địch.
Hội nghị Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương diễn ra từ ngày SO tháng 9 đến ngày 8 tháng 10, chia thành hai đợt: hai ngày đầu nghe báo cáo, sau đó họp tiếp từ ngày 5 tháng 10 để thảo luận và ra nghị quyết. Trong dịp này, anh Võ Chí Công đang ở ngoài Bắc, cũng tham dự hội nghị.
Tôi báo cáo tình hình 9 tháng qua, anh Tấn báo cáo dự thảo kế hoạch chiến lược hai năm và kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1975.
Về tình hình địch, ta và cục diện chiến trường, bản báo cáo của Bộ Tổng Tham mưu nêu rõ: đến nay số quân địch còn đông, hoả lực phi pháo tuy đã hạn chế nhưng vẫn còn mạnh, bộ máy kìm kẹp của chúng còn khống chế được nhân dân trong vùng chúng kiểm soát.
Trải qua 9 tháng giằng co quyết liệt giữa ta và địch, thực tế chiến trường đã chỉ rõ kế hoạch "Lý Thường Kiệt-74" của địch đang đứng trước nguy cơ phá sản. Từ tháng 4 năm 1974, chiến trường chuyển biến nhanh chóng. Địch không còn đủ sức đối phó với các cuộc tiến công và phản công của ta. Bằng những số liệu cụ thể, bản báo cáo chứng minh lực lượng địch bị tiêu diệt và tan rã một bộ phận quan trọng, số đồn bốt bị tiêu diệt, bức hàng, bức rút ngày càng lớn. Lực lượng địch bị căng kéo, lại bị động đối phó, không còn quân cơ động để hỗ trợ cho bình định, lấn chiếm.
Vùng giải phóng của ta mở ra nhanh và được củng cố thêm một bước, trên khắp các chiến trường, từ Trị Thiên, Khu 5 đến miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Mạng đường chiến lược cả đường chiến dịch của ta được phát triển ngày càng hoàn chỉnh, tạo nên thế chia cắt, trực tiếp uy hiếp vùng địch kiểm soát.
Những khó khăn về kinh tế, tài chính của nguỵ quyền Thiệu đã ảnh hưởng rõ rệt đến kế hoạch quân sự và tinh thần quân nguỵ. Mặt khác, do ảnh hưởng của hoạt động quân sự trên chiến trường, do chính sách mặt trận của ta đúng đắn và khôn khéo, do ta vận dụng linh hoạt các phương thức đấu tranh, lại do sự khủng bố, đàn áp trắng trợn của địch. nên thái độ bất bình và chống đối Mỹ-Thiệu của nhiều tầng lớp nhân dân ở đô thị đã dần dần phát triển. CIA âm mưu cài người vào để lái phong trào nhưng bọn này không phát huy được tác dụng như chúng mong muổn.
Về đánh giá khả năng của nguỵ, Bộ Tổng Tham mưu cho rằng không phải nguỵ "giữ sức" mà thực tế khả năng của chúng đã rất hạn chế. Chủng muốn tiếp tục đánh mạnh đường vận chuyển chiến lược của ta, mụốn giành lại những vùng đã mất, nhưng không còn đủ sức. Nếu Mỹ giảm viện trợ hơn nữa, nguỵ sẽ suy yếu càng nhanh hơn. Con số hơn một tỷ đô-la dự tính Mỹ viện trợ hiện nay được nguỵ coi là quá "eo hẹp" so với nhu cầu của hơn một triệu quân. Dù Mỹ có thêm vài trăm triệu đô-la cũng không giải quyết được vấn đề gì cơ bản.
Về khả năng can thiệp trở lại của Mỹ, trước đây, Bộ Chính trị từng nhận định: Mỹ không còn khả năng đưa quân trên bộ vào nhưng không loại trừ khả năng chúng dùng không quân, hải quân chi viện, can thiệp. Nhưng hành động can thiệp đó cũng không cứu vãn được nguỵ khỏi sụp đổ. Nhận định đớ hiện nay vẫn đúng.
Về phía ta, 9 tháng qua cho thấy cách đánh của bộ đội có tiến bộ nhiều nhưng chưa phải thật tốt. Phải nâng cao hơn trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, và khả năng đánh địch trong công sự. Trận Thượng Đức, tiến công vào một quận lỵ có nhiều công sự vững chắc, ta đánh tiêu diệt tương đối lớn nhưng chưa thật gọn.
Trong báo cáo, Bộ Tổng Tham mưu trình bày rõ kết quả chi viện về số quân và trang bị vật chất cho các chiến trường, vì đây là một vấn đề rất cần được đánh giá thật đầy đủ cả về kết quả vừa qua, khả năng sắp tới, để làm cơ sở cho việc đặt kế hoạch tác chiến chiến lược và các mục tiêu cần phấn đấu giành được trong mấy năm tới, nhất là năm 1975.
Về các bước đấu tranh sắp tới, Bộ Tổng Tham mưu trình bày dự kiến hai phương án phù hợp với hai khả năng. Một là, đánh đổ Thiệu, rồi thành lập chính phủ liên hiệp từng bước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Hai là, dùng lực lượng quân sự đánh một đòn quyết định, phát triển đi tới thắng lợi cuối cùng.
Việc xác định rõ nội dung các bước và sự phát triển từ bước nọ sang bước kia của mỗi phương án nói trên rất quan trọng vì nó là cơ sở để hạ quyết tâm chiến lược.
Về biện pháp chiến lược, Bộ Tổng Tham mưu đề nghị:
1. Tiếp tục phá bình định, mở mảng mở vùng, bằng các chiến dịch tổng hợp.
2. Mở những chiến dịch tiến công của chủ lực, diệt trung đoàn, sư đoàn địch, mở rộng vùng giải phóng.
3. Chia cắt địch về chiến lược, chiến dịch, bằng tác chiến và phá hoại giao thông, bao vây, binh vận, làm tan rã, ly khai.
4. Thúc đẩy phong trào đấu tranh ở đô thị lên cao, tạo điều kiện đưa lực lượng thứ ba ra công khai. Nếu Thiệu đổ thì tạo được liên minh với họ.
5. Vận dụng sách lược ngoại giao khôn khéo để lợi dụng mâu thuẫn nội bộ kẻ thù và hạn chế Mỹ về quân sự.
Cuối cùng, tôi báo cáo thêm kết quả cụ thể những nỗ lực của ta về chuẩn bị chiến lược trong 9 tháng qua trên các mặt trận: Xây dựng vùng giải phóng - căn cứ địa; mở rộng hệ thống đường chiến lược chiến dịch; khả năng vận chuyển chi viện chiến trường; xây dựng lực lượng vũ trang trên cả hai miền, đặc biệt là xây dựng và huấn luyện khối chủ lực cơ động chiến lược theo phương hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.
Để Bộ Chính trị có cơ sở xét duyệt dự kiến động viên tuyển quân sắp tới, tôi báo cáo tình hình số quân chung và số quân trên từng chiến trường, các lực lượng không trực tiếp chiến đấu (thương binh, bệnh binh, người do địch mới giao trả, số quân tham gia sản xuất và xây dựng kinh tế, lực lượng trên đường 559), số quân đang huấn luyện để bổ sung, v.v. Về khả năng tuyển quân sắp tới, báo cáo nêu rõ số dân miền Bắc hiện có 23,8 triệu, số thanh niên ở tuổi 17 đến 25 có 98,4 vạn. Để có lực lượng dự bị chiến lược, đề nghị Bộ Chính trị cho tuyển 15 vạn chiến sĩ mới vào cuối năm 1974 và 6 vạn vào đầu năm 1975.
Anh Tấn báo cáo tiếp nội dung cụ thể của bản đề án kế hoạch chiến lược hai năm và riêng kế hoạch chiến lược năm 1975 mà Bộ Tổng Tham mưu đã xây dựng. Trong khi báo cáo, anh nêu cả những ý kiến của các anh trong Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã phát biểu bước đầu về bản dự thảo kế hoạch chiến lược.
Về quyết tâm chiến lược, Bộ Tổng Tham mưu đề nghị: Hoàn thành giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976 (không loại trừ khả năng kéo dài sang đầu năm 1977).
Để thực hiện quyết tâm đó, kế hoạch chiến lược cơ bản gồm hai bước:
- Bước 1 (1975): Tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp, nhằm:
1. Đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng quân nguỵ (đánh tụt quân số địch xuống một bước có ý nghĩa chiến lược), giải phóng và làm chủ phần lớn nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, vùng ven Sài Gòn, đồng bằng Khu 5 và Trị Thiên.
2. Mở thông hành lang chiến lược từ Nam Tây Nguyên xuống miền Đông Nam Bộ và xuống ba tỉnh phía nam Khu 5; từ Tây Ninh xuống bắc Sài Gòn; từ Tây Ninh xuống Long An, xuống phía tây - nam Sài Gòn; từ Kiến Phong, Kiến Tường đến Mỹ Tho; mở căn cứ, bàn đạp, áp sát các thành phố, thị xã và các căn cứ trọng yếu.
3. Phá huỷ một bộ phận quan trọng phương tiện chiến tranh, tiềm lực kinh tế, cắt phá giao thông địch.
4. Thúc đẩy phong trào đô thị phát triển.
5. Xây dựng lực lượng, củng cố vùng giải phóng, chuẩn bị chiến trường, tạo điều kiện cho bước 2.
Bước 2 (1976): Thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Kế hoạch chiến lược năm 1975 được chia làm ba đợt:
Đợt 1: Từ tháng 12 năm 1974 đến tháng 2 năm 1975, là đợt tiến công có mức độ. Hoạt động chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ (các chiến trường khác đang trong mùa mưa).
Đợt 2, đợt chủ yếu: Từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1975, mở chiến dịch tiến công quy mô lớn trên chiến trường Nam Tây Nguyên và các chiến dịch phối hợp ở miền Đông Nam Bộ, Bắc Khu 5 và Trị Thiên. Ở đồng bằng sông Cửu Long, tiếp tục tiến công và nổi dậy, mở mảng, mở vùng, đánh phá bình định.
Đợt 3: Từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1975, là đợt phát trìển thắng lợi bằng đẩy mạnh hoạt động ở Trị Thiên và Khu 5, đồng thời tranh thủ thời gian củng cố lực lượng, sẵn sàng thực hiện phương án thời cơ.
Về phương hướng chiến lươc và nhiệm vụ của từng chiến trường, Bộ Tổng Tham mưu đề nghị như sau:
- Trị Thiên-Quảng Đà là chiến trường phối hợp, thu hút căng kéo chủ lực địch, cắt giao thông trên đường 1, đồng thời đánh phá bình định, mở mảng, mở vùng ở đồng bằng Trị Thiên và vùng ven Đà Nẵng.
Đồng bằng Khu 5 (chủ yếu ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định) là chiến trường đánh phá bình định, tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng đại bộ phận nông thôn, chia cắt chiến lược.
Tây Nguyên (trọng điểm Nam Tây Nguyên) là chiến trường chủ yếu của chủ lực, tiêu diệt lực lượng địch.
Nam Bộ: Đồng bằng sông Cửu Long và vùng ven Sài Gòn là chiến trường chủ yếu đánh phá bình định nhằm hình thành thế bao vây và cô lập Sài Gòn. Miền Đông là chiến trường của chủ lực, nhằm căng kéo, thu hút và tiêu diệt lực lượng địch, mở mảng, mở vùng, giành dân, mở hành lang Tây Ninh và phối hợp với Khu 8 mở hành lang Kiến Phong - Kiến Tường, tạo cơ sở bàn đạp áp sát Sài Gòn, Mỹ Tho, tạo điều kiện thúc đẩy phong trào đô thị.
Trong bản dự thảo, Bộ Tổng Tham mưu còn đề đạt mục tiêu cụ thể năm 1975, nhiệm vụ và phương án tác chiến của từng chiến trường, trong từng đợt.
Về thời cơ chiến lược, Bộ Tổng Tham mưu dự kiến có thể xuất hiện trong ba tình huống: 1. Khi ta đánh mạnh nhất, tức là trong đợt 2 của năm 1975; 2. Ngay trong mùa mưa ở Nam Bộ; 3. Những tháng cuối năm, khi nguỵ tổ chức bầu tổng thống.
Quá trình chỉ đạo hoạt động trong từng đợt cũng là quá trình theo dõi khả năng đối phó của. nguỵ và phản ứng của Mỹ, để kịp thời chớp thời cơ chiến lược, giành thắng lợi lớn nhất.
Sau khi nghe báo cáo của Bộ Tổng Tham mưu, hội nghị Bộ Chính trị đã phân tích hết sức sâu sắc và toàn diện khả năng can thiệp của Mỹ, chỗ mạnh chỗ yếu của nguỵ, kết quả chuẩn bị chiến lược, thế mới và lực mới của ta. làm cơ sở để hạ quyết tâm chiến lược.
Hội nghị nhận định rằng Mỹ đã thua trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đã phải rút quân, đó là một thất bại lớn về mặt quân sự và cũng là thất bại cơ bản của học thuyết Ních-xơn.
Chính quyền Mỹ đang đứng trước rất nhiều khó khăn, cả về chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính, cả trong nước và trên thế giới. Họ không ngờ vụ Oa-tơ-ghết đã dẫn đến Ních-xơn bị đổ, Pho lên, ngồi vào ghế tổng thống không qua tuyển cử. Những khó khăn về kinh tế tài chính của Mỹ cũng rất lớn. Lạm phát đã lên tới 12%. Đời sống nhân dân lao động vẫn bị đe doạ, khiến họ tiếp tục đấu tranh chống chính quyền trở lại dính líu vào Việt Nam.
Trên trường quốc tế, Mỹ đã thua kém Liên Xô về nhiều loại vũ khí chiến lược. Mâu thuẫn giữa Mỹ và các đồng minh của Mỹ ngày càng trở nên sâu sắc. Phong trào chống Mỹ tiếp tục phát triển ở nhiều nơi trên thế giới. Nước Mỹ đang đứng trước nguy cơ một cuộc tổng khủng hoảng mới.
Anh Trường Chinh cho rằng, đối với miền Nam Việt Nam, Mỹ đang đứng trước hai sự lựa chọn: Hoặc là thay Thiệu, đưa tên khác lên, dựa vào Hiệp định mà hạn chế thắng lợi của ta; hoặc là tiếp tục can thiệp ở mức nào đó để cứu vãn tình thế nguy ngập. Ta cần lợi dụng thời cơ Mỹ đang khó khăn bê bối về nhiều mặt mà tranh thủ giành lấy thắng lợi quyết định, châc chắn.
Anh Phạm Văn Đồng đưa ra một dẫn chứng về sự chấp nhận thất bại của Mỹ. Hồi năm 1973, gặp Kissinger, anh nói:
- Dân tộc Việt Nam đã ba lần đánh quân Nguyên. Đánh thắng rồi, chúng tôi cấp cho họ lương thực, lừa, ngựa để về. Còn các ông, liệu các ông đánh chúng tôi mấy lần?
Kissinger giơ lên một ngón tay. Anh Đồng nói:
- Tôi chưa tin các ông đâu!.
Kể xong chuyện gặp Kissinger, anh nói tiếp:
- Nói thế thôi. Nước Mỹ đang bê bối lắm. Nó không dám dúng vào Việt Nam nữa đâu. Cho kẹo, quân Mỹ cũng không dám trở lại Nam Việt Nam. Vào bằng lục quân đã khó, mà vào bằng không quân - làm đội quân cứu hoả - thì không quân đâu có quyết định được chiến trường.
Qua thảo luận, hội nghị nhất trí nhận định rằng Mỹ bị thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và đã bị suy yếu, nhưng đế quốc Mỹ chưa từ bỏ ý đồ đối với vùng Đông Nam châu Á và vẫn còn tiềm lực. Ta vẫn cần đề phòng thằng điên, "yếu nhưng điên" (như cách phân tích của anh Nguyễn Duy Trinh). Mỹ không còn đủ sức trở lại can thiệp trực tiếp bằng lục quân, nhưng ta vẫn cần có kế hoạch đề phòng khả năng chúng can thiệp bằng không quân và hải quân. Hội nghị khẳng định: Dù can thiệp ở mức độ nào, Mỹ cũng không đảo lộn được tình thế, không cứu được bọn tay sai khỏi nguy cơ sụp đổ.
Về tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu, hội nghị nhận định rằng chúng còn chỗ mạnh là quân đông, trang bị nhiều, còn kìm kẹp được dân, bắt được lính, giữ được thành phố, thị xã. Nhưng chúng có những mặt yếu rất cơ bản: bị cô lập về chính trị; tinh thần quân đội sa sút; hoàn toàn phụ thuộc Mỹ cả về kinh tế và quân sự, nếu viện trợ Mỹ giảm sẽ càng tác động mạnh đến khả năng chiến đấu và tinh thần quân nguỵ.
Chưa bao giờ ta mạnh, địch yếu rõ như hiện nay và xu thế phát triển tất yếu là ta ngày càng mạnh lên, địch ngày càng yếư đi.
Qua năm 1973 đến năm 1974, quân và dân ta trên khắp các chiến trường hoạt động đều, thương vong ít. Công tác chuẩn bị chiến lược của ta trên các mặt cả ở tiền tuyến, hậu phương và trên đường vận chuyển chiến lược đều đạt kết quả to lớn. Ta đã tạo được thế trận có lợi, đã xây dựng được lực lượng dự bị chiến lược hùng hậu, đã tạo được các yếu tố vật chất cần thiết để giành thắng lợi quyết định trong vài năm tới.
Sau khi phân tích tình hình mọi mặt, hội nghị nhất trí phê duyệt bản dự thảo kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm và kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1975, cùng chỉ tiêu tuyển quân do Bộ Tổng Tham mưu đề nghị. Chúng tôi hiểu rằng đây là Bộ Chính trị hạ quyết tâm bước đầu để Quân uỷ Trung ương và các ngành, các cấp, nhất là các cơ quan trong Bộ Quốc phòng kịp thời triển khai. Bộ Chính trị quyết định sẽ triệu tập hội nghị mở rộng vào tháng 12, có các đồng chí lãnh đạo các chiến trường về dự, sẽ bàn bạc thêm và hạ quyết tâm chính thức.
Tiếp đó, hội nghị phân tích thêm một số điểm cần chú ý trong việc chỉ đạo triển khai các kế hoạch chiến lược trên đây.
Hai năm 1975-1976 đều có vị trí rất quan trọng, nhưng năm 1975 là năm bản lề, tạo điều kiện để giành thắng lợi cuối cùng vào năm 1976. Năm 1975, ta bắt đầu bằng đòn tiến công Nam Tây Nguyên, kết hợp với mở ra ở đồng bằng, nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ. Phải thực hiện tốt kế hoạch chiến lược năm 1975 để đón năm 1976, đồng thời chú trọng tiếp tục công tác chuẩn bị chiến lược (xây dựng lực lượng; hoàn chỉnh mạng đường chiến lược, chiến dịch; chi viện chiến trường).
Phải tích cực, chủ động, kiên quyết, linh hoạt, tạo nên yếu tố bất ngờ, từ những bất ngờ về chiến lược có thể dẫn đến những bước phát triển nhảy vọt.
Cần nỗ lực hơn nữa và có biện pháp hiệu quả hơn nữa để khắc phục những mặt yếu hiện nay là cơ sở chính trị ở các thành phố chưa mạnh, lực lượng vũ trang tại chỗ phát triển chưa kịp, cách đánh tiêu diệt lớn của bộ độ chủ lực chưa thật gọn, phối hợp giữa các chiến trường chưa thật tốt, còn có nơi ba mũi giáp công chưa phối hợp chặt chẽ.
Đối với Mỹ, một mặt phải kết hợp quân sự mạnh với ngoại giao khéo để hạn chế đi đến loại trừ khả năng can thiệp của chúng: mặt khác, vẫn phải có kế hoạch đề phòng trường hợp chúng can thiệp bằng không quân và hải quân, nhất là khi bọn tay sai đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Cần có kế hoạch đón thời cơ, nhất là khi Thiệu đổ. Phải sẵn sàng mọi mặt để lợi dụng hết mức thời cơ này. Trong bất kỳ tình huống nào cũng không để lỡ thời cơ chiến lược.
Về phương hướng chiến lược, bộ đội chủ lực phải chuẩn bị trên cả hai hướng: Tây Nguyên - trọng điểm là Nam Tây Nguyên - là hướng chiến lược rất quan trọng và miền Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng. Phải đảm bảo bí mật, bất ngờ trong việc đưa lực lượng xuống đồng bằng sông Cửu Long cũng như trong việc chuẩn bị và thực hành đòn tiến công chiến lược ở Nam Tây Nguyên.
Muốn đánh tiêu diệt lớn và làm tan rã lớn quân địch, thì trong chuẩn bị bộ đội chủ lực phải kiện toàn tổ chức, bảo đảm số quân đủ biên chế, bảo đảm đội ngũ cán bộ đủ số lượng, có phẩm chất đạo đức có trình độ tổ chức và chỉ huy chiến đấu hiệp đồng binh chủng; trong sử đụng lực lượng, phải biết kết hợp giữa lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ, phải có lực lượng dự bị.
Về cách đánh chiến lược, chiến dịch, phải kết hợp 3 đòn mạnh (chủ lực, nông thôn, đô thị), kết hợp ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược; phải tổ chức những trận quyết chiến của chủ lực, đánh tiêu diệt lớn trên chiến trường rừng núi, các chiến dịch tổng hợp, diệt chi khu, quận lỵ, mở mảng, mở vùng ở đồng bằng sông Cửu Long và Khu 5; phải chia cắt chiến lược, cắt giao thông, bao vây địch vấn, tạo binh biến, ly khai.
Coi trọng việc động viên chính trị, tư tưởng, làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân quán triệt quyết tâm chiến lược, hiểu rõ ý nghĩa thời cơ chiến lược, hướng mọi suy nghĩ và hành động vào thắng lợi trong cuộc đọ sức cuối cùng, trên cơ sở đó, động viên tổ chức và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, toàn quân áp đảo kẻ địch cả về quân sự và chính trị, bồi dưỡng tinh thần chiến đấu liên tục của bộ đội, không ngừng xốc tới cho đến thắng lợi cuối cùng.
Sáng ngày 8 tháng 10, anh Ba kết luận đợt một Hội nghị Bộ Chính trị.
Anh chỉ thị cho Bộ Tổng Tham mưu ghi bản kết luận để sau đó điện cho một số anh ở chiến trường nghiên cứu, trước khi Bộ Chính trị họp tiếp.
Mở đầu bài kết luận, anh Ba nói: "Bộ Chính trị chúng ta đã nhất trí hạ quyết tâm hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đây là một sự kiện vô cùng trọng đại, một quyết định rất dũng cảm, có thể nói là táo bạo. Quyết định này là kết quả trí tuệ tập thể của Bộ Chính trị, là kết quả của những suy nghĩ đã nung nấu từ lâu, của sự cân nhắc chín chắn, xuất phát từ kinh nghiệm được tích luỹ qua mấy chục năm chiến