Chương II
Mồng một Tết. Không khí ngày tiếp quản đầy mùi Tết. Tôi mở tung cửa kho. Em Cốm vẫn ngủ, trên ổ rơm mê mệt. Lúc ấy 6 giờ sáng. Tôi trương cờ đỏ ngoài cổng. Cờ đỏ Cốm đã may sẵn, từ mấy hôm trước. Tôi lấy quần áo mới, đem vào kho. Cốm mở mắt, chơm chớp. Tôi vận quần áo cho Cốm. Cốm e thẹn, không nghe. Tôi cứ vận quần áo cho Cốm: đầu tiên là quần trắng, rồi áo len trắng, rồi giày muyn trắng. Tháng trước tôi đưa Cốm đi cắt tóc. Và chọn kiểu phidê ngắn nhất, mà Cốm không biết. Sáng mồng một Tết, tóc Cốm vẫn ngắn để lộ gáy, gáy Cốm rất trắng. Tôi nói: “Sáng nay vợ chồng mình ra phố, đón bộ đội. Và đi chơi. Và ăn hiệu”. Cốm nói: “Tóc tai em thế này, nom càn càn như con cao bồi. Đi đón bộ đội, em ngượng lắm”. Tôi nói: “Đông người, biết ai vào ai mà ngượng. Tóc Cốm đẹp lắm”. Sau đó, Cốm ra sân rửa mặt. Tôi lên nhà pha hai cốc càphê: một càphê đen, một càphê sữa. Từ trong nhà tôi nhìn Cốm ngoài sân, đang í tứ và rón rén, trong bộ áo mới. Khi lấy chồng, Cốm là gái làng Mọc. Còn chưa biết gì. 17 tuổi còn chưa bao giờ đi giày, huống hồ những cái hôn đầu lưỡi. Tôi dạy vỡ lòng cho Cốm từ chuyện ăn diện hời hợt, đến những trò sâu sắc khác. Nhiều ngày Cốm đóng cửa, tập đi giày cao gót trong buồng. Nhiều tối tôi giữ cho Cốm tập xe đạp, ngoài phố vắng. Tôi còn mua cả quần lót trong, cho Cốm. Lần nào cũng xilip ba màu, là màu xanh giống như màu của đêm, màu trắng của ngày, và một màu tím khó gọi của chiều muộn. 6 tháng cứ như thế. Có nhiều lúc tôi ép Cốm, chụp ảnh con lợn, bằng máy ảnh tự động, mượn của Tình Bốp. Thế là được cả một tập anbom con lợn. Sáng mồng một Tết hôm nay, hai đứa điểm tâm. Đến lượt tôi chọn quần áo. Tôi chọn, một cái sơmi không chim không cò, một cái áo len cụt tay, mũi to lờm xờm, màu bẹcgiê. Rồi cái quần gabaxđin, lớt phớt hạt dẻ, đôi tất nilông màu nâu nhạt, và sau cùng, đôi giày lấm chấm lỗ màu vàng. Tôi muốn Cốm vận quần áo cho tôi, nhưng Cốm thẹn, nhất định không chịu. Lát sau ra phố, thấy Hà Nội đỏ màu cờ. Đi bộ với Cốm. Được một lúc, tôi lại quay sang nhìn Cốm.
Trên cờ dưới cờ. Cũng là trời Tết. Nhân dân đứng đầy vườn hoa Canh Nông, đầy các vỉa hè, và ngã tư Cột Cờ. Người trèo giậu các biệt thự, người leo sân thượng, người trèo cành cây vườn hoa. Bộ đội vào phố. Bộ đội tiến đến đâu, Tây rút đến đấy. Hai bên cách nhau hai cột đèn. Nhân dân được một bữa khoái mắt, vài người rú lên vì thích thú. Em Cốm cũng vỗ tay, như trẻ con. Lúc cười má Cốm có hai núm đồng tiền. Tôi thì khác. Không iên ổn trong người. Dù sao, tôi cũng có 14 tháng thuộc về một chiến tuyến khác. Đứng trước bộ đội, cả người tôi là một hỗn hợp, những thẹn, tủi, cả những ghen linh tinh nữa. Cho nên, khi có một bàn tay mất dạy với em Cốm giữa đám đông, cúa một thằng mất dạy không quen, tôi nổi cáu. Tôi có tí diuđô. Thế mà tôi văng vào thằng mất dạy, một nắm đấm, không chút diuđô nào hết. Nó ngã khuỵu. Mọi người ồn ào. Tôi kéo Cốm đi. Tôi trách Cốm: “Cô không để í gì cả. Con gái con lứa”. Cốm nói: “Đông quá. Đàn ông các anh xấu”. Tôi nói: “Sao không tát cho nó một cái. Hay là cô thích?” Cốm nguýt tôi. Cốm nói: “Anh đểu vừa vừa chứ”, làm tôi khó chịu mất một lúc. Mặt trời hôm nay, một ngày tháng mười súng nhóe. Phố hôm nay rợp cờ đỏ. Cốm hôm nay vui. Mắt Cốm long lanh, miệng cười xinh. Mỗi lần cười lại làm đồng tiền lũm má. Cốm cười, làm tôi nguôi cơn giận. Tôi muốn quàng lưng Cốm. Cốm nói: “Đừng”. Cốm không quen lối Tây đầm, trong phố đông. Hôm nay đúng là ngày Tết: nam nữ đi lại đầy đường. Ở những phố Tây đã rút, các cửa hiệu lục tục mở. Ở một ngã tư có một bàn đổi tiền, ngay trên vỉa hè. Cốm chạy vào xếp hàng. Tôi không muốn Cốm đứng lẫn chỗ đông, tôi vào xếp hàng thay Cốm. Bàn đổi tiền này có hai cán bộ, một nam, một nữ. Người cán bộ nữ mặc áo pôpơlin ngắn, mà lằn vai coócxê. Quần cô không có tà áo dài che, nên hở cả hông: một đoạn trắng hồng mềm mại. Tôi nom phụ nữ ăn mặc thế này là lần đầu: sơ sài nhưng thơ mộng. Sau đó, có một cô gái khác vào xếp hàng, ngay sau tôi, rồi dòng người lộn xộn cứ thêm dài ra. Cô gái này nom được nhất ở chỗ ngực, chỗ mà tôi vừa vô í chạm vào. Thánh kinh nói, phàm làm việc gì phải khéo chân khéo tay, tôi liền khéo tay khéo chân được vài lần vô í. Đến lần thứ tư thì được một cái lườm của cô. May mà Cốm mải nhìn đám đông không để í. Cũng không ai đến, cho tôi một quả đấm mất dạy nào, nên tôi iên trí. Nhưng lúc đổi tiền ra, Cốm cốc tôi một cái đau đớn. Cốm nói: “Đàn ông các anh xấu”. Tôi nói lại: “Là tự đàn bà cả”.
Buổi chiều. Tôi không nhớ đã nhìn thấy ở đâu, một bức họa đường tuyến tính của thời gian, như thế này: hai đầu của đường tuyến tính, chạy cả về hai phía vô định, và biến mất. Hóa ra quá khứ và tương lai chiếm hết cả chiều dài thời gian, hiện tại chẳng là cái gì, chỉ là một cái chớp mắt, chỉ là một phần rất nhỏ, của cái chớp mắt. Tôi đã làm một thử nghiệm, tôi chớp mắt, thế là tôi đang ở thời hiện tại, chớp mắt cái nữa, hiện tại đã thành quá khứ. Tôi làm thêm một thử nghiệm nữa, tôi vẽ hiện tại, bằng một dấu chấm bé nhỏ, nhưng bên ngoài đường tuyến tính thời gian. Hiện tại của tôi thế là tồn tại vĩnh viễn, chẳng thuộc về đâu cả, chẳng phụ thuộc quá khứ lẫn tương lai. Chiều nay, một buổi chiều tháng mười nắng nhóe, tôi cùng Cốm đến thăm mẹ. Tôi nói: “Vợ chồng con đến chúc Tết mẹ”. Mẹ tôi cười, rồi nói: “À thế là mày trốn ngay ở nhà. Tao ngỡ mày ra Lai Thụ”. Mẹ tôi đem cam xã Đoài ra. Cốm bổ cam. Mẹ tôi nói: “Bây giờ con ở lại, phải làm ăn tu tỉnh”. Tôi vâng. Tôi ăn cam. Mẹ tôi bảo ở lại ăn cơm. Tôi rủ mẹ đi ăn tiệm. Mẹ tôi nói: “Phải hà tiện con ạ. Tiêu thế, tiền núi cũng hết”. Mẹ tôi cũng mắng Cốm: “Chồng là cái giỏ, vợ là cái hom. Kiếm được mười, hãy tiêu một, còn chín thì để dành. Hạng đàn bà, cứ nghễu nghện nay cao lâu, mai cao lầu, tôi không ưa”. Cốm nói: “Tại nhà con bảo, hôm nay là ngày Tết, nên mời mẹ đi ăn tiệm. Con bảo mua gà làm cơm mời mẹ, nhà con không nghe”. Mẹ tôi nói: “Thôi vợ chồng cô đừng thơ mộng. Còn 4 tháng nữa mới Tết. Vui là vui trong bụng, việc gì phải ra tiệm. Hóa ra tự đánh lừa, hóa ra đánh lừa Tết, để mà ăn à?” Tôi nói: “Sao mẹ hà tiện thế?” Mẹ tôi nói: “Khốn, nhưng tôi quen lam lũ tần tiện từ bé rồi”.
Tôi và Cốm ra phố. Thử nghiệm của tôi về thời gian, là xáo trộn lại các tờ lịch, để lúc nào tôi muốn mùa đông, là có mùa đông, để lúc nào cũng hiện tại. Lúc nào cũng không quá khứ, không cả ngày mai. Tôi và Cốm đi bộ, cho đến lúc thằng Đoành gọi to, giữa phố. Đoành gọi: “Dưỡng! Dưỡng!” và chạy đến nói: “Ông anh bà chị diện thế. Nom rùng rợn lắm. Mãi mới nhận ra”. Tôi nói: “Có đi chén với vợ chồng này thì đi”. Đoành nói: “Mời à?” Tôi nói: “Mời”. Đoành nói: “Ông anh cao thượng”. Thế là chúng tôi kéo nhau vào Mĩ Kinh. Tôi gọi các món biển. Đoành nói: “Thật rùng rợn”. Hai thằng uống. Tôi giao hẹn, hôm nay uống tử tế nhé. Vì sợ thằng Đoành say, say thì thế nào nó cũng trộn lẫn rượu với mắm tôm, với ớt cay, với nước mắt, với đủ mọi thứ trong đời, để làm món côctay. Bên cạnh, Cốm ăn rụt rè. Tôi hỏi Đoành: “Mày trốn ở đâu?” Đoành nói: “Ở nhà Lí Hà”. Tôi hỏi: “Lí Hà là nhân tình Bảo Đại à?” Đoành nói: “Chứ còn Lí Hà nào. Rùng rợn không ngờ nhé. Em ấy thắp nến, bốn đầu giường, ngay giữa ban ngày, rồi ngựa chạy ra chạy. Nhoong ếp là một thằng Hồng Kông, là một thằng Xicagô, là một oẳn thoằn loằn. Em ấy kể Bảo Đại trông thế mà thộn, chỉ được mỗi trò, là trò liếm”. Cốm không hiểu gì, nên cau mày. Tôi rót thêm rượu. Tôi hỏi: “Mày biết Tình Bốp rúc đâu không?” Đoành nói: “Nó rúc với tao”. Tôi hỏi: “Ở nhà Lí Hà à?” Nó đáp: “Không, nhà Macxen”. Tôi hỏi: “Thế là thế nào?” Nó nói: “Còn thế nào nữa. Lúc ấy tao đang bí chỗ rúc. Tao ra phố 8 giờ tối, đi cầu may, không ngờ gặp Tình Bốp. Nó kéo luôn tao vào nhà Macxen. Tao mới vừa ở đấy ra xong”. Tôi hỏi: “Thế Tình Bốp đâu?” Đoành nói: “Không biết. Khi tỉnh dậy, đã không thấy nó. Nhà cửa tanh bành. Tất cả cuốn gói từ lúc nào. Tao say quá. Tao đi khắp buồng này qua buồng khác. Cả nhà lạnh tanh. Tao sợ tao cũng chuồn luôn”. Tôi lại hỏi: “Thế sao mày bảo, mày rúc ở nhà Lí Hà?” Nó nói: “Tại tao cứ ao ước thế nên mới phát ra đằng mồm”. Tôi cười và uống thêm nữa. Cốm không hiểu gì, nên cau mày. I như trong thánh kinh: xung quanh bàn, là những cái mồm, cử động bóng mỡ. I như trong thánh kinh: kẻ hạnh phúc vốn thích ăn uống, cho nên tôi ngắm các cô gái, đang hạnh phúc bên bàn. Và cũng i như trong thánh kinh: các cô có những cái mồm, của loài mèo, của hoa nhài, của huê nhài. Cốm bên cạnh, có hai cái môi chậm chạp, nên mồm cứ như một nụ hoa. Đoành nói: “Suốt tuần qua tao rợn quá. Chỗ tao rúc quả thần tiên, không tổ quỉ nào bằng. Tranh cổ điển vẽ sai cả. Đáng lí quỉ phải vẽ là tiên, tiên ngược lại là quỉ. Thế mới phải cái lí ở đời”. Tôi nói: “Nhà Macxen mà”. Đoành tròn mắt hỏi: “Nhà Macxen nào? Mày tưởng tao ở nhà thằng Macxen thật à? Mày ngây thơ thật. Sống trên thế giới dối trá, toàn dối trá, mà mày vẫn ngây thơ. Tao không rúc nhà Lí Hà. Cũng không ở nhà Tình Bốp. Không ở nhà Macxen. Mày biết ở đâu không nhỉ?” Rồi nó nói dối: “Rúc ở một hầm rượu to, quanh co lắm. Không cần mặc quần áo, 3 ngày, liền 3 đêm. Tỉnh thì uống, cho say. Say thì uống, cho tỉnh”. Tôi nhìn mồm nó, chỉ mình tôi nhìn thôi, vì Cốm hoàn toàn đứng ngoài câu chuyện. Cốm không hiểu gì, nên cau mày, và đôi má ửng hồng vì thẹn. Tôi nhìn Cốm. Thấy Cốm đẹp. Vì tóc ngắn cỡn, để lộ toàn bộ cổ và gáy, toàn bộ đôi tai không đeo khuyên tai, để lộ luôn toàn bộ khuôn mặt tòn tõn, kiểu gái quê ra phố. Cốm kín đáo nháy mắt, tỏ í muốn về. Tôi cũng muốn về, vì có một dự định, cho tối nay. Thế là, tôi và Cốm đi xe đôi về. Trên xiclô tôi rất nghiêm túc. Khi nào tôi nghiêm túc, là trong sọ có một dự định không nghiêm túc. Mặt mũi nghiêm túc, để không bị người đi phố bắt quả tang, giữa một í nghĩ hủi. Trên xiclô tôi tự nhủ lát nữa, khi về đến nhà, sẽ chụp ảnh miêu tả chân thực Cốm, mấy pô.
⚝ ⚝ ⚝
Tháng bảy 1965. Chị Trinh kể: tên em là Trinh. Em là vợ anh Dưỡng, nhưng nhà em cứ gọi em là Cốm. Dạo lấy chồng, em mới 17, mọi người gọi đùa, là cô dâu Cốm chanh, nhân đó có cái tên Cốm. Nhà em tính tếu nhưng cũng đứng đắn, không phải là người không biết nghĩ. Nhà em bị ảnh hưởng truyện trinh thám, ảnh hưởng quân đội đế quốc, và lối sống cao bồi Mĩ, nhất là trong 14 tháng đi lính tàu bò. Trước ngày tiếp quản, nhà em lo không đi Nam mà ở lại, thì chính phủ bắt tội. Chị Hòa bày cách cho em, để thuyết phục nhà em, ra nộp súng đầu thú. Ở xóm em thân nhất với chị Hòa, có điều gì trong gia đình, không than thở được với ai, em đều kể hết với chị.
⚝ ⚝ ⚝
Tháng bảy 1965. Chị Hòa kể: tôi là nhân viên, ban bảo vệ khu phố. Hôm ấy chính xác một ngày tháng mười, năm 1954. Tôi đang nấu cám lợn, 5 phút trước khi nồi cám sôi, cô Trinh chạy sang, hai mắt đỏ hoe. Cô xuống bếp ngồi, với tôi. Tôi hỏi: “Vợ chồng cãi nhau à?” Cô Trinh nói: “Không”. Biểu hiện này không bình thường, tôi mới gặng thêm: “Thế thì tại sao? Mắt đỏ hoe chứng tỏ vừa mới khóc, đấy thôi?” Cô Trinh nói: “Nhà em chụp ảnh em”. Tôi hỏi thật thà: “Cô này trẻ con. Chụp ảnh thì việc gì phải khóc”. Cô Trinh nói: “Chụp ấy cơ… nhà em chụp ảnh… quân đế quốc”. Tôi nghĩ, Dưỡng chụp ảnh Tây rút chạy nên bị rầy rà, nhưng không phải. Tôi gặng mãi cô Trinh mới kể, chính xác hơn: “Nhà em say rượu, đè em ra, lột hết quần áo… bắt chụp ảnh. Em không chịu, nhà em trói em lại, và nhét mùi soa vào mồm”. Cô làm tôi xấu hổ đỏ cả mặt. Tôi được khu phố phân, làm công tác tề ngụy, cho nên dù câu chuyện của họ phức tạp, dù nhiều chi tiết làm tôi xấu hổ, tôi vẫn phải đi sâu. Sau đó, nhận xét của tôi là: cô Trinh xinh xắn ngoan nết, dớ phải thằng chồng tàu bò quá tệ. Sau đó, cô Trinh kể lại hết mọi chuyện ngày hôm ấy: buổi sáng Dưỡng đánh người ngoài phố, buổi chiều hai vợ chồng lên thăm mẹ, buổi tối hai vợ chồng gặp thằng Đoành, rồi cả ba kéo nhau vào Mĩ Kinh, buổi đêm hai vợ chồng đi xe đôi về. Lắm lúc, cô Trinh ngập ngừng kể, để tôi phải khuyên khích, nhẹ nhàng: “Trinh cứ kể đi, kể cho đúng. Ở đây chỉ có hai chị em mình, thân tình với nhau thôi mà”. Thế là cô Trinh thuật lại tí mỉ chuyện bữa ăn: Đoành nói dối 5 lần, Đoành nói thật 2 lần. Dưỡng uống 5 cốc rượu, cô Trinh cau mày 3 lần, cô Trinh nháy mắt kín đáo 1 lần. Tôi chú í một điểm: là thằng Tình Bốp kéo Đoành đi trốn. Thằng Macxen là trùm Phòng Nhì Pháp, tại sao lại đến trốn lính Pháp ở nhà nó? Tôi nói, chính xác thế này: “Thấy chưa, cô phải chú í hơn. 35 ngày trước Tình Bốp đã rủ chồng cô đến trốn tại nhà thằng Macxen, chồng cô không nghe. Sau đó nó rủ cậu Đoành. Tôi thấy lởn vởn bóng thằng Macxen, trong câu chuyện của mấy cậu này, như thế không phải là điềm lành đâu cô ạ. Cô phải chú í. Bọn địch tìm tay chân trong đám bất hảo, và ngụy quân ngụy quyền. Cô cảnh giác, là để giữ chồng cô khỏi sa vào bẫy của chúng”. Cô Trinh nói: “Hễ có gì khác í, em sẽ tìm chị ngay”. Tôi bèn bày cách cho cô, bí mật như thế nào: dù có tình nghi, vẫn phải cười nói vui vẻ, bề ngoài làm vẻ ngờ nghệch, nhưng không để bất cứ việc gì lọt qua mắt được. Phải để í cả những chi tiết nhỏ nhất. Có khi chỉ từ một câu nói, một thái độ khác thường, hoặc một cái gì rất tầm thường, mà có thể tìm ra manh mối thằng địch. Như vậy là, hành động vừa bảo vệ miền Bắc, vừa bảo vệ hạnh phúc gia đình.
⚝ ⚝ ⚝
Buổi tối. Nhật kí tiếp tục: tôi tỉnh rượu, người rã rời và miệng đắng. Tôi tự pha cho mình một cốc nước chanh vại. Em Cốm đang làm cơm dưới bếp. Tôi nhớ tới những pô ảnh chụp Cốm, khỏa thân lúc nãy, liền quây một góc buồng ngủ, làm buồng tôi. Tôi bắt buộc phải chơi ảnh tại gia, vì nếu không rửa lấy, chụp lấy, không thể có được những pô ảnh thật sự hủi, như tôi thích. Tôi làm ảnh trong buồng tối một lúc, thì Cốm gọi tôi ra ăn cơm. Ngó ra thấy mặt Cốm sưng sỉa, tôi nói: “Để cơm đấy đã. Người văn minh gọi ảnh này là ảnh nghệ thuật đấy”. Cốm nói: “Này, tôi đã mách chị Hòa rồi. Bận sau mà còn giở trò, anh đừng có trách”. Tôi cười: chị Hòa thế nào cũng xấu hổ đỏ mặt. Tôi nói: “Thế chị Hòa có muốn xem ảnh nghệ thuật không?” Cốm xông đến đấm vào ngực tôi. Cốm nói: “Đểu. Đểu vừa chứ”. Tôi nắm lấy tay Cốm. Tay nhỏ, như nõn hoa huệ. Tôi tự nhủ, làm thế nào để lúc nào cũng hiện tại, như thế này, ngày nào cũng mồng một Tết, như thế này. Hiện tại, như cái kim đồng hồ, muốn vặn đâu, kim theo đấy. Gỡ ruột đồng hồ ra, kim dừng lại, như thế này. Dấu chấm, nằm ngoài đường tuyến tính của thời gian, làm thế nào để cứ một mình mãi.
Buổi sáng. 10 giờ đêm qua, ngõ trên có đám cháy. Bà con túa cả ra ngoài. Em Cốm cũng chạy đi chữa cháy. Tôi không đi. Lởn vởn những nơi hữu sự, bà con lại nghi cho, thì bỏ mẹ. Giá chị Hòa qua đây gọi, tôi sẽ đi ngay. Đám cháy được dập tắt, nhanh chóng, nhưng Cốm lâu lắm mới về. Cốm nói: “Bà con nghi có địch”. Tôi không nói gì. Có lẽ tôi bắt đầu có vấn đề với chữ địch. Đêm ấy thật lạ. Đất đá ném lộp bộp, suốt đêm, trong ngõ, và ngoài phố. Tôi đoán là tụi biệt kích cài lại phá rối. Buổi sáng gạch đá còn lại hàng rổ, trong xóm. Lúc 8 giờ Cốm đi chợ về, mặt như bông hoa héo. Tôi cũng đoán được là chuyện gì. Nhưng không hỏi. Tôi ra ngã tư tìm mua một bao Côtab, thấy phô vẫn đỏ màu cờ, vẫn thơm mùi vị Tết. Cứ như thể hôm qua mồng một. Hôm nay là mồng hai. Tôi vừa mua thuốc lá xong, bị một bãi nước bọt tòe toẹt rơi ngay sát mũi giày. Một ông thợ đồng hồ, đứng trong hiệu nhổ nước bọt ra. Ông này tôi biết, tên là Trung trố. Ông này hỏi xỏ: “Anh mà cũng ở lại à?” Tôi định độp lại, cũng bằng câu hỏi ấy. Nhưng tôi không nói gì, chỉ nhún vai, quay đi. Ông này còn tiếp tục làu bàu những cái gì, sau lưng tôi một lúc lâu. Chắc chắn không hề ngọt ngào. Mấy bà đầu ngõ cũng chửi đổng. Mấy bà nói rất to: “Quân hại nước hại nòi. Cứ đem tất ra mà đấu”. Không biết mấy bà chửi ai. Tôi đi qua mấy bà, không nhìn bà nào. Nhưng tôi biết, mấy bà đang nhìn tôi. Về đến nhà, tôi ngồi, tôi đốt thuốc liên tục. Thuốc làm ngột ngạt, có lẽ vậy. Rồi tôi lại thấy, hết ngột ngạt, có lẽ tại thuốc. Tôi đến cạnh Cốm. Cốm nói: “Em mua con cá, định về đánh giấm. Bà ta mua, em cũng mua. Em đợi bà ta mua xong, mới chọn. Em mua xong xuôi, bỏ vào rổ, bà ta lại đòi mua con cá của em, lại còn chửi đồ mua tranh bán cướp, bỏ cái thói vợ ngụy ỉ thế chồng. May mà có người can, không thì bà ấy đánh xé em giữa chợ. Em nhục quá”. Tôi nói: “Thế mới gọi là khoan hồng. Chính Cốm khuyên anh ở lại. Còn muốn gì hơn? Anh đã biết trước”. Cốm nói: “Rồi về sau khác đi chứ. Mình làm ăn tử tế, đối xử nhũn nhặn. Chẳng nhẽ bà con xử tệ với mình mãi à? Biết thế này, chẳng kể với anh nữa”. Tôi gắt: “Thôi cô đi làm cơm. Còn 300 ngày tênh tênh. Tôi mà ức lên, tôi tếch thẳng. Cô không đi theo, tôi tếch một mình”. Nói rồi, tôi chớp mắt, rồi lại chớp mắt, rồi lại chớp mắt nữa, để mỗi lần, cái hiện tại hủi này lùi ra xa. Tôi chớp mắt mãi, mà không xong.
Buổi chiều. Lúc Cốm làm cơm dưới bếp, thì thằng Ngỡi vào, mũi nghếch như mõm chuột. Chỉ có mình tôi mà Ngỡi vẫn thì thầm, sợ ai nghe thấy. Nó nói: “Lợn sữa quay, đàn anh ạ. Tình Bốp sai em mời anh đến ngay”. Tôi ngạc nhiên thấy tháng trước, nó xưng ông với tôi, bây giờ lại xưng em, dù nó già hơn 12 tuổi. Cả khu phố đã bảo nhau: từ ngày đi trốn nó xưng em với tất cả mọi người, nhưng tôi vẫn ngạc nhiên. Tôi nhìn đồng hồ dạ quang, là 5 giờ chiều. Tôi hỏi: “Tình Bốp mới về à?” Ngỡi nói: “Về từ 2 giờ chiều. Tình Bốp đến em, để hỏi tin tức mọi người”. Tôi hỏi: “Sao có lợn sữa?” Ngỡi nói: “Thế mấy tài. Em trốn vào Hà Đông. Em bảo Tình Bốp, ở đấy có lợn sữa Hoa Bắc. Trước khi đi Tình Bốp đưa tiền, và dọa nếu không tìm được hai đôi lợn sữa, thì đừng có về”. Tôi hỏi: “Tiệc có những ai?” Ngỡi nói: “Đủ cả bốn đàn anh, với em, là năm. Hai đôi lợn sữa quay, nóng sốt, là bảy. Tươm lắm anh ạ”.
Dĩ nhiên ăn thì bao giờ cũng tươm. Thế là năm thằng chạm chén, loanh quanh một chiếc chiếu trải, trên sàn gác. Khắp nơi có chai, và vỏ chai la liệt. Đèn bật sớm làm trắng bệch, cả buổi chiều. Giữa chiếu là hai con lợn quay, rất kĩ thuật, bởi vì da cháy vàng, nhưng trong suốt. Được thằng Ngỡi thái, thành từng miếng vuông vức trên đĩa, bên cạnh là một bát hành xanh, một bát ớt tươi, một bát tương Tầu, và một cốc đường trắng. Thằng Ngỡi nói: “Em tìm mãi, mới được hai con lợn sữa Hoa Bắc, chúng được nuôi bằng gạo nếp, chứ không bằng gạo tẻ, và gạo tấm, cũng không bằng bột cám, cho nên thịt chắc và mềm như thế này, bì giòn và thơm như thế kia, nhai được cả xương”. Tuyệt vời thế mà cả năm thằng đều ngơ ngác buồn, nhất là thằng Chắt. Nó buồn nhất cũng phải. Nó hôm nọ lái chiếc xe Jeep, cùng với đài, và dây moóc, ra hậu phương lập công. Nó nộp, cho một anh cán bộ mặc quân phục xanh, rồi anh này đi đâu mất. Không hiểu anh cán bộ tên gì, ở đơn vị gì. Anh này cũng chẳng đưa cho cái biên nhận nào. Thế là thằng Chắt lại lóc cóc đi về, tự nhủ bao nhiêu công lao bị ăn hớt cả. Tự mắng là thằng ngu, có tí công lại để buột mất. Nhưng cũng tức giận, nói bộ đội làm ăn thế này, không phục. Nó lại còn nghi là, anh cán bộ áo xanh ăn chặn công lao người khác, để được lên chức. Sau cùng, nó kết luận và chửi thề tiên sư thằng Chắt, sẽ không bao giờ lập công nữa. Chiều nay nó vừa ăn, vừa ngơ ngác buồn.
Đoành nói: “Tại mày không may thôi”. Tình Bốp nói: “Tại mày tốt nhịn. Hận to thế, mà mày không làm vung lên. Phải thằng khác, nó kiện, nó tóm cổ làm lôi thôi thằng thủ phạm”. Chắt nói: “Tao về đây, mới thấy chán. Nhà cháy lại thấy gạch đá ném, suốt đêm. Người ta nghi ngờ, nhưng tao làm gì, mà nghi. Thôôôi, tao sửa soạn cần vợt tao đi câu con nhái, cho nhẹ nhàng cái ngày mai”. Tình Bốp nói: “Mở đầu là chiếc xe Jeep, to như con voi, để kết luận, thành con nhái be bé”. Tôi nói: “Mai tao cũng đi câu”. Có vẻ không thằng nào nghe thấy. Tình Bốp lại nói: “Tình hình lúc này, lưu manh, trộm cắp và ngụy quân, như tụi mình, đứa nào cũng bị nghi tất”. Ngỡi gật đầu và lại xưng em, với tất cả mọi người. Ngỡi nói: “Đàn anh nói phải. Người ta đòi đem lính ngụy ra đấu ráo một lượt. Em cũng lo lắm. Em đàn đúm thế này với các anh, nhưng thú thực, em một vợ sáu con, bụng dạ em như có lửa đốt”.
Có vẻ Ngỡi lo sợ thật. Những ngày sột soạt giữa hai chế độ, đã đưa nó xuống tầng dưới, của quan hệ xã hội. Có ba giả thiết cho sự thay đổi này. Thứ nhất, lối xưng hô mới của nó, dù vô tình hay cố tình, cũng là động tác rút lui khỏi tình bạn, mà không cần tuyên bố, và không làm ai mếch lòng. Thứ hai, nó đã đánh hơi thấy những gì sẽ phải xảy đến (cho tình bạn, tình hàng xóm, cho tình người nói chung) và lối xưng hô mới này, sẽ là vỏ bọc bào vệ an toàn cho nó. Thứ ba, những thay đổi bên ngoài, đã xáo động ghê gớm tâm hồn iếu ớt của nó, và sau đó tâm hồn tác động lên ngôn ngữ. Giả thiết thứ ba có vẻ kém xác thực hơn.
Lối xưng em của Ngỡi hình như lây lan sang cả đám bạn tôi. Tình Bốp rót thêm rượu, cho cả năm đứa. Tình Bốp nói: “Khoan. Bàn đi rồi, phải bàn lại. Đàn anh Dưỡng đọc vài ngàn cuốn sách (trinh thám), có học thức như vậy, mà có kêu khổ đâu. Chúng mày chưa gì đã nháo nhác. Thế là hỗn, với anh Dưỡng”. Tôi chưa hiểu vì sao, tôi được lên chức đàn anh, cho cả nhóm, Tình Bốp đã tiếp tục. Nó nói: “Tất nhiên tình hình tối đen, như mực. Nhưng đàn anh Dưỡng thử chỉ ra những điểm sáng sủa, để bọn em này có chỗ mà trông vào”. Quay sang thằng Đoành. Nó nói: “Cả thằng ca sĩ rởm này nữa. Cũng tổ sư sách (trinh thám) đấy. Xem có mẹo gì không?” Tôi đang còn bàng hoàng, chưa lấy được gì, từ đống kinh nghiệm trinh thám, thì thằng Đoành đã nhanh nhẹn trả lời. Nó nói: “Mẹo à. Thiếu gì mẹo hủi. Chỉ có đớp và hít là không ai cấm. Việc quái gì mà sợ”. Tôi cũng nói theo: “Minh nhìn lặt vặt, đâm ra sợ hãi lặt vặt. Đúng đấy. Nhin chung, tao rất iên tâm”. Tôi thế là trở thành anh cả của mâm rượu, để tuyên bố những điểm sáng sủa, cho bọn em tôi, đang im lặng ngồi chờ. Tôi nói, vòng vo: “Đây nhé. Miền Bắc là cộng sản. Miền Nam là ngụy. Hai miền húc nhau. Năm thằng mình, là năm con ruồi ở giữa… Nhưng mà năm thằng không được chết. 300 ngày này, và điều khoản 14C này, cả hai miền đều dành cho năm thằng một khoản. Dù sao cũng bị nhọ rồi, năm thằng càng phải giữ: tránh giao du những địa chỉ nhọ, cứ tìm những nơi minh bạch sạch sẽ, mà đớp hít. Cứ thế phải sống lâu trăm tuổi”. Đoành nói: “Tao tán thưởng”. Tình Bốp nói: “Tao chẳng thấy rõ ràng tí nào. Mù tịt bỏ mẹ. Ngay bài diễn văn của mày, đến tai cán bộ, nó sẽ bảo ngay là mày gieo rắc hoang mang, nghi hoặc trong lòng người”. Đoành nói: “Dưỡng nó nói chí lí”. Tình Bốp lườm cho nó một cái. Chắt cũng nói: “Thằng Dưỡng nói được. Tao thấy rõ. Phải tránh chỗ rậm chỗ tối. Bây giờ 9 giờ hãy còn sớm, nhưng về là vừa cho minh bạch, đúng như thằng Dưỡng nói. Thôi tao về”. Nói xong nó đứng dậy, phủi đũng quần, rồi cút thẳng. Theo sau là Đoành. Thằng Ngỡi nấn ná, thu dọn chỗ thịt còn lại, im lặng gói một gói đem về. Còn lại mỗi tôi, với Tình Bốp. Đến 9 giờ 30 Tình Bốp đứng dậy, pha càphê. Nó lấy trong tủ bicphê ra bánh ngọt, kẹo nuga và súccùlà. Tôi hỏi: “Lily đâu?” Nó nói: “Xuống Hải Phòng”. Tôi nói: “Xéo à?” Nó nói: “Không. Lily tiễn Macxen đi. Lily ở lại”.
Tôi hỏi: “Lily ở lại thế nào được?” Tình Bốp nói: “Chỉ có đớp hít không thôi, như mày nói lúc nãy, thì có gì mà sợ”. Tôi im. Lát sau, Tình Bốp giải thích: “Lúc nãy đông người, tao pha trò cho vui. Trong bụng tao thấy mày có lí. Là cái kế của mày, kế đứng giữa. Học thức đọc sách của mày, quả là thâm. Cái kế đứng giữa bất-hợp-tác-cộng-sản của mày tài thật”. Nó rộng lòng khen tôi, và cũng rộng lòng lấy rất nhiều bánh ngọt, cho vào đĩa tôi. Tôi ăn bánh. Tôi ngắm hai phin càphê, đang nhỏ những giọt rất đen. Tình Bốp không nhìn tôi. Tôi cũng không nhìn nó. Nó nói: “Họ ghét nhất những thằng đứng giữa. Họ còn thù thằng-đứng-giữa hơn cả đế quốc. Mày cẩn thận đừng để lộ. Tao hiểu mày. Không có khoan hồng nào cả. Mày biết. Tao có nói gì với mày, cũng thừa”. Nó nói lúc to lúc nhỏ, tôi nghe lúc được lúc không. Có thẻ vì tôi đã uống quá sức. Nó nói, vẫn không nhìn tôi: “Hãy sử dụng chân lí đớp hít, vì thiên hạ đánh lẫn nhau, cũng chỉ vì đớp với hít. Hai miền húc nhau như mày nói, là húc ngầm cả. Mày bất hợp tác, tức là mày… phá ngầm. Tao chịu mày rồi”. Tôi nói: “Cái gì?” vì thấy khác í của tôi quá. Tình Bốp bây giờ mới nhìn vào mặt tôi, không rõ say hay tỉnh. Nó nói: “Khà. Hôm nay ăn mừng cộng sản. Lí thú ra trò. Anh em mình từ mai sẽ làm ăn tử tế. Tao sẽ mở quán càphê. Ngay trong ngõ nhà tao. Tao sẽ bán nốt bọn bẹcgiê, để giải nghệ đi theo kế của mày. Đớp hít. Đứng giữa. Bất hợp tác. Lánh ra xa tất cả. Mày kém tao hai tuổi, nhưng mày có học thức đọc sách. Tao với mày là anh em”.
Buổi đêm. Trên đường về tôi nhớ lại trò mách lẻo của thằng Ngỡi. Nó kể chuyện thằng Hoóng quan hai biệt kích, không di tản mà ở lại Hà Nội. Dân phố nghi thằng này đã cho đồng bọn đốt nhà, và ném gạch vào các buổi đêm. Nó cặp kè với một phụ nữ, rồi cặp luôn với cô con gái. Nó cưới cô con, nhưng vẫn tiếp tục đi lại với cô mẹ. Thế là hai mẹ con đánh ghen nhau, để chia nhau cái tuổi 26 của nó. Cô con đi xiclô rình cô mẹ. Cô con thuê du côn, toàn bộ giới tính nữ, để đánh xé cô mẹ, cho tan tành luôn góc phố Hàng Đào. Nhưng cô mẹ cũng cao tay: mỗi lần thằng Hoóng được thả về cho cô con, thì nó đã bị cô mẹ rút hết tủy rồi. Phải hàng tuần sau, cô con mới vỗ cho thằng Hoóng ngóc ngách được một tị. Cô mẹ lại tìm cách bắt cóc thằng Hoóng đi. Cô con trẻ hơn xinh hơn, nhưng lại kém nghề hơn cô mẹ. Hai mẹ con cô mà đi với nhau, thì cứ hồn nhiên như hai chị em.
Buổi đêm. Chưa biết, tôi có bất hợp tác với cộng sản không, vừa về đến nhà 11 giờ, đã bị luôn em Cốm bất hợp tác. Cốm nằm im lặng, mặt quay vào tường. Tôi lật người Cốm lại. Cốm hất tay ra, rồi lại quay vào tường. Đít chổng vào mặt tôi, căng tròn như cái bệ nảy. Tôi vỗ một cái mạnh, thấy bệ nảy ra bệ nảy. Cốm quay phắt ra, nói: “Anh đàn đúm rượu chè, đang lúc thế này, anh không giữ gìn gì cả. Anh đi từ 5 giờ chiều, bây giờ 11 giờ mới về”. Không nói gì, tôi ngồi xuống giường. Cốm tiếp tục rầy la. Tôi phớt lờ. Tôi vuốt ve Cốm, theo kiểu làm lành. Thoạt đầu là vuốt tóc, sau đó là vuốt vai, sau đó là tay, và những bộ phận lịch sự của Cốm. Rồi cứ như bị nhỡ tay, tôi sang những bộ phận khác, lịch-sự-vừa-vừa và sau đó, ở những chỗ không-lịch-sự-chút-nào. Cốm gạt tay tôi. Cốm nói: “Tôi lấy làm lạ cho anh. Mẹ dặn thế nào. Tôi lên mách mẹ, cho xem. Anh có định làm ăn tu tỉnh không? Từ tối đến giờ, gạch đá lại ném lộp bộp, trong xóm. Người ta nghi ngờ, mà các anh tụ tập nhau đánh chén”. Tôi nói: “Iên trí. Mình không làm gì ám muội. Ai nghi mặc họ. Vả lại anh đã kiếm được việc làm rồi”. Cốm vội hỏi: “Anh tìm được việc gì, mà nhanh thế?” Tôi nói: “Chơi mấy hôm cho chán. Rồi anh đi câu nhái”. Cốm tức thì tru tréo: “Ôi dào. Tưởng gì. Hóa ra đi câu ếch câu nhái. Trai trẻ như anh, biết lái tàu bò, thì phải biết lái ôtô, sao anh không xin đi lái ôtô? Có phải có cái nghề tử tế, vợ con mát mặt, mà anh cũng được tiếng tốt. Anh lên khu phố xin việc, làm gì chẳng được. Đi câu nhái, phố xóm còn coi anh ra gì?” Tôi cáu. Tôi gắt: “Ngủ mơ đây à? Hủi như tôi, ai cho việc mà xin. Đừng làm tôi cáu. Khu phố của cô to nhỉ. Cô có ngủ mơ, thì cứ mơ, đừng bắt tôi mơ ngủ theo”. Cốm nói: “Tối nay anh trốn đi họp. Anh chưa biết, nên tôi thông báo lại”. Tôi nói: “Không cần”. Nói rồi, tôi chớp mắt mấy chục cái liền, để bao nhiêu hiện tại, theo nhau rơi hết vào quá khứ. Tôi chóp mắt mãi, mà chưa xong. Thế là lại một thử nghiệm dang dở về thời gian.
Buổi sáng. Hôm nay là mồng ba tiếp quản. Chắt đến rủ đi câu nhái. Nhìn sân và ngõ còn ngậm sương, tôi khất nó vài ngày nữa. Vả lại tôi chưa kịp sắm đồ câu. Chắt tự đi một mình. Tôi hút thuốc và pha càphê, như thường lệ. Sau khi ăn sáng, tôi đọc sách trinh thám. Đọc chán tôi ra phố, cũng như thường lệ. Rồi đi sắm đồ câu nhái. Tôi mua cần dài, để câu ếch, cần ngắn, để câu nhái. Tôi mua giỏ, vợt, chì, và dây. Về nhà, xếp tất cả vào một chỗ, rồi huýt sáo một bài nhạc vui. Huýt sáo xong, tôi xem anbom con lợn. Rồi dán thêm vào anbom, mấy pô tả chân em Cốm, tôi chụp hôm qua. Ảnh hơi nhòe vì động, nhưng càng lung linh. Xem xong ảnh tôi ngồi, nhìn ra ngoài vườn. Sau đó, cất anbom vào tủ. Tôi nằm khườn đọc sách trinh thám.
Cuốn truyện rùng rợn tôi đọc, cả buổi chiều. Cả buổi chiều ít nắng, và rét, tôi đắp chăn, nằm cạnh cửa sổ. Thỉnh thoảng tôi ngừng đọc, để nhòm ra ngoài. Vườn trút lá từng chặp. Qua vườn là xóm trong. Có nhiều bóng người, đi lại thấp thoáng. Thỉnh thoảng tôi để sách một bên, nhưng không nhòm ra ngoài, mà chỉ muốn nghe tiếng chân, tiếng ngưòi léo xéo, của phố xóm, xa xa vọng đến. Cuốn sách trinh thám, chương nào cũng có người chết. Có gián điệp cài bẫy gián điệp. Có cái cửa sổ, trông ra phong cảnh, hệt như cửa sổ buồng tôi. Có Phòng Nhì Pháp, có Giettapô Đức, có Anhtenlidang xecvit Anh, có Guypêu Nga, FBI của Mĩ, trộn vào nhau, thành một thế giới đẫm máu, dối trá và mưu mẹo suốt ngày đêm. Thế giới này di chuyển, từ hòa bình sang chiến tranh, rồi lại quay về hòa bình. Nhưng không bao giờ iên ổn. Con người trên mặt trận bí mật này, không ngưng chuẩn bị rút súng.
Tôi không rõ cuộc chiến trong sách, và cuộc chiến tôi vừa trải qua, có gì khác nhau. Và hòa bình nữa, hòa bình trên thế giới, và hòa bình ở nước tôi, có gì giống nhau. Tôi nghĩ, tới Macxen, và nhất là tới cô chị Lily đi tiễn nhân tình xuống Hải Phòng. Tôi nghĩ, ngày hôm qua và ngày hôm nay, là chiến tranh chuyển sang hòa bình. Chỉ vài tiếng đồng hồ, mà số phận và nhiệm vụ của hàng triệu con người thay đổi hẳn. Tôi nghĩ tới một cuộc chiến, có lẽ đang bắt đầu, bên trong hòa bình tuổi mới 3 ngày, bên trong những tiếng động, của một buổi chiều bình thường, như thế này. Chiến tranh và hòa bình, nằm kề nhau như đêm nằm sát ngày. Ban ngày khu phố vẫn yên bình. Nhưng buổi đêm, nhà cháy, đá ném vung vãi, khắp nơi, và khẩu hiệu viết tràn ngập các hố xí công cộng. Hòa bình và chiến tranh là như thế, nhưng cả hai đều mới chỉ bắt đầu. Tôi đợi, một cơn bão chưa lên.
Buổi tối. Tôi lại rúc mắt vào cuốn truyện. Khí lạnh mùa đông lọt vào buồng. Ngọn đèn đầu giường chụp nilông đen, thả vừa đủ cho trang sách, còn tường và trần nhà tất cả đều lờ mờ. Không nhìn thấy gì, ngoài cửa sổ nữa. Phố, xóm, ngõ, toàn bộ tối đen. Cái gì cũng như cố tình, cho câu chuyện thêm thú vị. Tôi đọc đến đoạn một nữ Giettapô trẻ xinh, đang quyến rũ lên giường một anh lính thủy Mĩ, được miêu tả 100% chân thực. Phải nói là rất xúc động. Vậy mà cuối chương, hóa ra là không phải như thế: chỉ là một buổi diễn tập của trường đào tạo gián điệp. Vậy mà cô nữ Giettapô đã phải làm đầy đủ mọi động tác, xâm chiếm thân thể anh lính thủy. Từ bộ phận này, đến bộ phận khác. Từ màn dạo đầu. Đến khúc cuối cùng. Từ buồng máy. Đến buồng ngủ. Từ lúc cả hai còn nguyên vẹn quần áo. Đến khi chẳng còn tí vải nào trên người. Hoàn toàn lõa lồ, và cuồng nhiệt. Hoàn toàn công khai. Kể cả những rên rỉ, nằm sâu trong cổ họng, vì khoái lạc. Trước các nữ sinh, và bà giám đốc đào tạo. Đồng hồ dạ quang của tôi chỉ 7 giờ kém 5, là lúc tôi rạo rực đậy tìm Cốm. Cốm đã rửa bát xong, đang tắm. Tôi xuống buồng tắm. Ánh điện bên trong lọt ra, lẫn khói nước nóng. Tôi ẩy cửa. Em Cốm giãy nảy. Tôi thò tay qua kẽ hở, đẩy cái then cài. I như trong thánh kinh: tôi đột nhập buồng tắm.
⚝ ⚝ ⚝
Tháng bảy 1965. Chị Hòa kể: tôi là nhân viên, ban bảo vệ khu phố, từ 11 năm nay, cho nên chuyện gì tôi cũng phải nhớ. Một tối chính xác, cuối mùa thu năm 1954, tôi đang băm bèo lợn, còn 5 phút nữa xong, thì nghe đoàng một cái. Mẹ chồng tôi trong bếp, chạy ra hỏi: “Con có nghe thấy gì không? Mẹ nghe như tiếng súng”. Tôi nói: “Pháo nổ đấy mẹ ạ”. Mẹ tôi nói: “Súng nổ, ở phía vườn nhà thằng Dưỡng tàu bò. Con chạy ra xem sao”. Tôi nghe nhời mẹ chồng, vội rửa tay, không kịp sửa tóc, cứ thế chạy ra ngõ. Tôi chạy về tiếng nổ bất thường. Ngõ tối, không một bóng người. Được 300 bước, chính xác chỗ vườn nhà cậu Dưỡng, tôi vấp phải chiếc xe đạp, nằm coòng queo giữa ngõ. Trong nhà cậu Dưỡng có tiếng đàn ông lao xao. Tôi liền đi tắt qua vườn vào sân, ngắn hơn được 30 bước, nếu vòng qua cổng. Bác Mẫn và ông Trung trố đang đứng cạnh bể nước. Ông Trung trố quát to: “Trong nhà có ai không? Đi đâu cả rồi? Vợ chồng Dưỡng đâu rồi?” Không có tiếng trả lời, nhà trên điện sáng, cửa mở tanh bành, nhưng không một bóng người. Dưới nhà
tắm có ánh đèn, và hơi khói bốc ra, trong có tiếng lục sục một chút. Bác Mẫn tức thì xông đến, ẩy cửa nhà tắm thình lình. Có tiếng rú trong nhà tắm, tôi nhận ra tiếng cô Trinh. Cửa nhà tắm mở ra, để lộ hai thân thể lõa lồ, là hai vợ chồng cậu Dưỡng, tắm chung trong ấy. “Nỡm!” Bác Mẫn thốt ra một tiếng, đóng ập cửa nhà tắm lại, và đứng ngoài quát: “Mau, ra ngay! Ra ngay! Có tiếng súng nổ từ nhà này. Ra ngay! Mau!” Chỉ trong 5 giây ngắn gọn, tôi vô tình nhìn thấy toàn bộ hai thân thể hồng hào của hai vợ chồng, họ có vẻ cao lớn hơn lúc mặc quần áo, nên tôi xấu hổ quá, đỏ hết cả mặt, may mà tối trời chẳng ai để í. Vừa lúc ấy có tiếng chân chạy xộc từ vườn sau ra sân trước. Ba chúng tôi cùng quay lại, thấy một anh bộ đội bốn túi. Ông Trung trố hỏi: “Anh là ai?” Anh bộ đội hỏi lại: “Ông là ai?” và quay sang tôi anh hỏi: “Chị là ai?” Tôi nói: “Chúng tôi là bảo vệ khu phố. Đây là bác Mẫn trưởng ban. Đây là ông Trung tr… (suýt nữa thì tôi nói thành ông Trung trố) là phó ban. Thế anh là ai?” Anh bộ đội nói: “Tôi cần gặp chính quyền khu phố. Tôi bị kẻ gian ám sát trượt. Tôi đang tìm đến nhà chị Hòa. Tôi vào nhầm ba bốn ngõ. Vừa đến chỗ kia tôi bị một phát súng, từ vườn này bắn ra. Nhưng bắn trượt. Tôi liền vứt xe lại, xông ngay vào vườn. Tôi còn thấy một bóng đen lao qua các gốc cây. Nó có vẻ thông thuộc đường lối: nó chạy mà không hề bị vấp. Tôi lúng túng mãi mới ra khỏi vườn, vì bị vướng cây. Ra đến ngoài, nó đã biến mất. Tôi tìm loanh quanh một lúc, tức quá. Tiếc là không mang súng theo, để nó chạy thoát.” Vừa lúc ấy, vợ chồng cậu Dưỡng lóp ngóp ở nhà tắm ra. Anh chồng đi trước mặt phớt lạnh. Cô vợ theo sau bẽn lẽn. Tôi không dám nhìn mặt họ, vì xấu hổ quá. Nhưng tôi vẫn nhớ, chính xác thế này: ông Trung trố đi theo hai vợ chồng cậu Dưỡng, bác Mẫn làm việc với anh bộ đội ngay tại góc sân. Đúng 10 phút sau, anh bộ đội bước đến gần tôi và nói: “Vậy chị là chị Hòa nhỉ. Tôi với chồng chị cùng nằm bệnh viện nên quen nhau. Ngày tôi ra viện, anh nhờ tôi chuyển thư cho chị. Hôm nay tôi vào tìm chị, nhưng bây giờ muộn quá rồi. Đáng lí tôi phải giải thích… để chị rõ. Bây giờ tôi xin phép, phải đi ngay. Chủ nhật, sáng chủ nhật chị có nhà không? Tôi sẽ đến nói chuyện với chị”. Tôi cầm bức thư trong tay, bàng hoàng biết có chuyện gì không hay, quên cả chào anh bộ đội lúc đó đã đi xa. Ngoài cổng, người lớn và trẻ con bắt đầu kéo đến, họ đứng ngập cổng nhà Dưỡng. Cất vội lá thư vào túi áo, và ra cổng giữ trật tự. Tôi nói bà con nên giải tán về nhà, nhưng vô ích. Mấy lần tôi phải kể lại đầu đuôi sự việc, và trả lời những câu hỏi khó trả lời. Ngõ tối và rét. Lúc nào chợt nhớ, đến hai thân thể lõa lồ trong buồng tắm, tôi lại xấu hổ. Lúc nào chợt nhớ, đến lá thư chồng chưa kịp đọc, còn trong túi áo, tôi lại thấy có cái gì, nhoi nhói trong lòng.