← Quay lại trang sách

Chương V

Năm nay tôi 23 tuổi, đủ thời gian để tôi đã kịp iêu mấy vụ mà thất bại, đã kịp hối hận mấy lần, nhưng tôi rất chóng quên. Những lần đi nhà thổ và vườn hoa về, tôi lại thấy khó quên hơn. Có lẽ bởi vì, bao giờ cũng vậy, bao giờ tôi cũng chỉ về nhà, sau 3 giờ sáng, và bao giờ người cũng rã rời, sau những xúc động quá mức. Nhưng chính xác hơn, cái khó quên hơn, có lẽ là quãng chuyển giao, giữa đêm và ngày, là quãng đường từ chiếc giường không quen, về cổng nhà tôi. Khoảnh khắc ấy, đoạn đường ấy, là Hà Nội đêm. Một mình, trong đầu rỗng tuếch mà đi bộ ngoài phố đêm, thế nào cũng khó quên. Giỗng hệt như một đêm 6 năm trước, tôi đi đi ngoài phố đến 5 giờ sáng, mồm đắng, toàn thân rã rời hình như sau một vụ tỏ tình thất vọng. Phố lúc ấy tinh mơ. Mặt trời đang mọc trên vườn hoa. Tự dưng thấy tuổi 17 của tôi sao mà hư vinh, thấy cả 36 vẻ phù hoa, của kiếp sống. Tôi vào hiệu cạo trọc sọ. Trong túi vẫn còn bức thư tình bị trả lại, sau khi bị chữa be bét bằng mực đỏ. 3 ngày trước tôi đã gửi nó, cho một con bé 17 tuổi, để con bé chẳng khó khăn gì mà tìm được vô số lỗi chính tả, lỗi hành văn. Con bé bĩu môi, lấy bút đỏ gạch xóa, và đi bộ ra tận bưu điện, để gửi trả tôi bức thư, và chấm hết cuốn tiểu thuyết ba xu. Tất nhiên tôi đã quên mất, cả giọng nói lẫn chiều cao của nó. Nhưng tôi còn nhớ đã đi xe đạp trên đường vắng, để đón đầu con bé, cũng vào đúng một buổi chiều. Tôi ghếch xe đạp lên vỉa hè, tôi nói cho xin tí hôn. Nói sao tôi làm vậy, để được nghe con bé chửi thằng cao bồi, đồ mất dạy, và để chấm dứt luôn cuốn tiểu thuyết rẻ tiền. 6 năm sau, tất nhiên, tôi đã quên đi toàn bộ câu chuyện dấm dớ. Nhưng anh chàng thất tình đi bộ, đêm ấy trên phố, thì tôi vẫn nhớ. Suốt 6 năm, tôi không gửi thư, kể cả thư tình đi bất cứ đâu. Dạo ấy tôi chưa viết nhật kí, nếu có nhật kí, biết đâu hôm nay lấy ra, xem lại tên con bé dớ dẩn ấy, biết đâu được một ngày bú dù. Sáng hôm nay, sau một đêm khó khăn ngoài sân ga, và một đêm khó quên trên phố, tôi dậy muộn. Em Cốm đã đi làm. Tôi lại nhớ đến Lily. Tôi nằm nghe, tiếng tàu điện lanh canh, ngoài phố xa. Phố đang tấp nập. Tôi biết lúc này, mặt trời đã sáng nhóe. Tôi nghĩ đến bản đồ đi lại, ăn uống và làm lụng nội thành, có lẽ không còn mang tên tôi. Từ 3 hôm nay, tôi như thằng mất sọ. Từ 3 hôm nay, tôi chỉ là cái xác dằn di, đi lại như con rối bị rút ruột. Biết vậy nhưng tôi có thể làm gì hơn. 3 ngày dù sao cũng còn lại chiếc mùi soa trắng í nghĩa hơn cả, tôi vẫn giữ trong túi quần. Nằm mãi, tôi dậy, đun nước bếp điện. Tôi lèn phin càphê thật chặt. Rồi, ngồi đợi caphê tôi hút điếu Côtab nóng. Ngần ấy động tác, lặp lại ngần ấy buổi sáng, nhưng không chán, cho nên sáng nay tôi hút thuốc hai điếu liền, pha càphê hai lần. Nhưng rồi buổi sáng vẫn còn dài, tôi bèn pha thêm tách càphê thứ ba, còn thuốc Côtab thì không đếm nữa. Tôi lấy nhật kí ra, định ghi lại 3 ngày với Lily, mà chả biết bắt đầu thế nào. Tôi lại trả nhật kí vào chỗ cũ, tự nhủ Lily đi có lẽ lại tốt cho tôi. Không có Lily, ngày của tôi sẽ dài hơn, êm đềm hơn. Uống xong tách càphê thứ ba, tôi đi bộ ra phố.

⚝ ⚝ ⚝

Buổi sáng. Phố không đông, cũng không vắng người. Tôi đi bước một. Không phải bước một theo kiểu thi sĩ, triết gia. Mà là kiểu chữ bát. Tôi tạt qua nhà Tình Bốp, để lấy cái Stecling. Tình Bốp hẹn tôi, 2 giờ nữa quay lại ăn nem Phùng. Nhìn phố sáng nhóa mặt trời, tôi đến nhà thằng Đoành, định rủ nó lượn quanh vài vòng. Nhà thằng Đoành chỉ cách có vài bánh xe. Trước cửa nhà Đoành, là cửa hàng bán lặt vặt, tí hàng xén, tí mỡ lợn, tí dầu hỏa, cho người cơ nhỡ. Ngoài cửa hàng sáng, bên trong tối om, nhìn mãi mới thấy song thân phụ mẫu của nó, lúc nào cũng ngồi đối diện nhau, theo kiểu tướng ông tướng bà trong bộ tam cúc. Hai cụ ngồi trông cửa hàng cho cô chị thằng Đoành. Cô này chỉ lo những chuyện phía sau bức mành: cô đi lấy hàng, cô nấu cơm, cô giặt quần áo. Cô năm nay 30 tuổi, không chồng, rất điệu, lưng thẳng như khúc gồ. Cô mà đi phố thì rất mất thời gian, vì hễ thấy đàn ông, cô lại dừng chân từ xa và cúi mặt nhìn xuống đất. Cũng may là thằng Đoành ở một phòng riêng biệt trên gác, qua một cái sân trong. Muốn vào thì đi vòng, qua cái ngõ nhỏ bên cạnh, đỡ phải chào hỏi hai cụ thân mẫu ít nói, và cô chị ế chồng của nó. Tôi dắt xe qua ngõ, vào đến sân trong, nhìn lên phòng thằng Đoành, thấy rất lạ. Tôi thấy cô chị nó, đang dòm qua lỗ khóa. Cô mải dòm quá, cho nên tôi leo cầu thang đến ngay bên cạnh, mà cô không hề biết. Tôi nói: “Xinê à?” Cô giật nảy người, đứng thẳng lên, mặt đỏ dừ. Chắc lần đầu đứng gần đàn ông như thế này. Cô chửi để chữa thẹn: “Khốn kiếp”. Tôi nói: “Phim ban ngày à?” Cô càng đỏ mặt. Nhìn vào mặt tôi, chắc cũng là lần đầu cô nhìn mặt đàn ông gần như thế này, bởi vì cô nói: “Khốn nạn”. Phê bình tôi xong, cô ù té chạy xuống cầu thang. Nom cô đằng sau, với bím tóc gọn ghẽ trên gáy, tôi nghĩ đến khúc củi khô. Tôi đâm thương hại cho cô. Đạo đức của cô phiền toái quá. Tôi đấm cửa, ba hồi ba tiếng một, là mật hiệu tôi đến. Thằng Đoành nói từ bên trong: “Đợi tí”. Một tí của nó là 13 phút của tôi, cho nên đến phút thứ 13 nó mới ra mở cửa. Sau lưng nó, một người, chắc là nữ giới, tôi đoán thế, vì người này trùm chăn ô vuông đen trắng, kín mít, cho đến tận chân. Đoành kéo tôi vào, và đứng chắn ở giữa, để cô nữ trùm chăn vòng phía sau, mà đi ra ngoài. Đoành đóng cửa, rồi chỉ để hé, đúng một đoạn nhỏ, để cô nữ tuồn cái chăn vào trả lại. Sau đó thằng Đoành vẫn đứng chặn cửa, để cô nữ đi xa hẳn, không cho tôi ngó ra xem mặt. Sau đó, nó giải thích: “Nữ văn công tổng cục chính trị”. Tôi nói: “Có chồng chưa?” Đoành nói: “Còn giãy đành đạch. Tôm tươi, hoàn toàn chưa bóc tem”. Đoành nói thêm: “Không được nói với ai, ngay cả với Tình Bốp. Em này phải có danh dự tốt, mới công tác được. Em này ngây thơ lần đầu tiên. Cho nên lúc mày đấm cửa, em khóc lo lắng lắm”. Tôi nói: “Mày hỏng. Cái gì trong trắng không nên vọc. Thiếu gì chỗ để vọc. Mày làm nhọ đời người ta. Dầu tao không nói, người khác cũng sẽ biết. Tao lạ gì mày. Mồm mày không có nắp. Chính mày sẽ đi khoe, lung tung”. Đoành nói: “Tao thề không khoe ai cả. Thôi đừng mắng tao. Kẻo cơn hối hận nổi lên bây giờ”. Nói rồi nó đem ra một chai cônhăc, để uống mừng nó, và mối tình cô văn công dại trai. Vừa mới nhắp được một ngụm, đã thấy một bà đứng tuổi, mở cửa hết sức thô bạo, xồng xộc bước vào. Bà này áo trắng quần đen, đi chân đất, tóc vấn trần có tí đuôi gà, cài thêm cái lược nhựa. Nhìn biết ngay loại đàn bà vườn hoa. Bà này ném vào mặt Đoành một cái phong bì hồng, rồi đứng chống nạnh. Từ phong bì rơi ra vài cái ảnh cởi truồng. Tôi chẳng hiểu sao cả. Bà này không đợi tôi hỏi, thản nhiên tru tréo. Bà nói: “Hốc quịt à? Trông thế kia mà hốc quịt. Đây làm ầm lên bây giờ. Đây chẳng sợ xấu. Bán trôn nuôi miệng, còn gì mà xấu. Xấu là những đứa hốc đầy mồm, hốc no nê, bây giờ quịt. Thanh niên chế độ này thế à? Đi. Lên đồn công an”. Thằng Đoành cuống cuồng bảo im. Hóa ra bà đứng tuổi chính là cô văn công tổng cục chính trị, trùm chăn hay khóc. Thằng Đoành rối rít nói: “Tôi lầm. Im nào. Tôi lầm thôi làm gì phải mồm to”. Nó lấy ngăn kéo bàn ra một cái phong bì khác, cũng màu  hồng. Bà này xé ngay phong bì, để kiểm soát bên trong có gì. Hóa ra là một tập toàn giấy 20 đồng (ăn hai hào bây giờ). Đếm xong, bà này nói: “Thiếu đây này. Đừng hòng ăn bớt. Đã mặc cả tử tế rồi. Lúc nãy hốc thì có bớt chút nào không?” Tôi móc túi, còn mấy hào lẻ, tôi dúi cho bà rồi tống ra cửa. Thằng Đoành cười sằng sặc, lại còn mắng tôi sa sả. Nó nói: “Mày ngu thế. Văn công tổng cục chính trị lấy đâu ra. Tao nói láo mà mày cũng tin. Quả là ngu như lợn”. Tôi đúng là ngu, thật như lợn. Tôi nói: “Đã thế ông uống hết rượu của mày”. Đoành nói: “Cứ việc uống. Vì tao phải đi đây, có tí việc mừng. Tao đi có hẹn 9 giờ”. Tôi nói: “Lại cô văn công nữa?” Nó tròn con mắt: “Sao mày biết?” Tôi nói: “Văn công chèo, tuồng, hay múa rối?” Nó bảo: “Mày cứ tưởng cái gì cũng biết. Tao đi gặp bà Hòa”. Tôi giật mình: “Hòa nào?” Nó nói: “Hòa bảo vệ khu phố. Chuyện đứng đắn đấy. Bà Hòa xin việc cho tao, hình như được rồi thì phải. Mày uống nốt đi. Đừng há hốc mồm nữa. Tao mặc quần áo, đi là vừa”.

⚝ ⚝ ⚝

Buổi chiều. Tôi nói với Tình Bốp: “Nguy to”, khi hai thằng ngồi đối diện nhau, để bắt đầu 3 giờ chuyên đề nem Phùng. Nhưng cũng có một chút không chuyên đề ghé thêm vào, là tí ngỗng Hàng Buồm, nửa con và hai chai rượu quê, Tình Bốp đặt mua tận Đồ Xá. Hôm nay tôi được mời toàn bộ, không phải trả một nửa tiền, cũng không phải ghi sổ nợ. Hai thằng đóng cửa, tạc thù trên gác. Tình Bốp liên tục rót rượu vào chén tôi, nó có vẻ đang nhu cầu nói chuyện. Một mình nó một ngôi nhà mênh mông, một cửa hàng càphê, một cái cổng sắt sơn xanh đẹp đẽ. Nhưng cửa sổ không mở nữa, ngay giữa mùa hè. Không cả tiếng cười phụ nữ rất kĩ thuật, cho năm mươi số nhà quét vôi vàng cùng nghe thấy. Mới có một ngày, mà phố đã thay đổi. Phố im ắng, đám đàn ông mượn cớ mỏi chân, đứng lởn vởn dưới những cửa sổ, cũng biến mất. Lúc nãy, tôi đã vào xem buồng tắm, cứ ngỡ thế nào Lily cũng bước ra, từ sau làn hơi nước, như thường lệ. Nhưng buồng tắm vắng người và khô ráo.

Tôi uống chén thứ nhất. Tôi nói với Tình Bốp: “Nguy to. Còn trơ lại tao và mày. Năm thằng, còn hai”. Tình Bốp trả lời: “Tao biết trước cả”. Tôi nói: “CÁ theo tao ráo riết, từ 3 hôm nay. Lúc ở nhà thằng Đoành ra, tao đạp xe loanh quanh, lại thấy thằng nhọn cằm”. Tình Bốp nói: “Uống đi. Mọi sự do thằng Thái cả. Nó làm kiểu bẻ đũa, bẻ từng cái một”. Tôi trả lời: “Ừ, thằng Thái có tướng lắm”. Tình Bốp uống chén thứ 2. Tình Bốp nói: “Trong năm thằng, có mày đối địch, có tao du côn, thì họ mới phải tranh thủ ba thằng khác, còn lại tao và mày cô lập. Ba thằng kia ăn lộc của họ, phải cảm ơn mày mới phải. Con người đúng là con đểu, bản tính trời sinh, là con vô ơn bạc nghĩa”. Tôi uống chén thứ 3. Tình Bốp phàn nàn: “Bây giờ bác sĩ, chữa xe đạp, kĩ sư, ăn vận như nhau cả. Công dân mới mà, san đều nhau tất, ông cũng như thằng. Phố xóm có gọi mày là thằng, cũng không sao, thằng cũng như ông”. Tình Bốp uống chén thứ 4. Tình Bốp nói: “Uống đi. Tao vẫn nói với năm thằng, không có thằng Dưỡng thì hỏng to. Vì mày nhìn đại cục, chứ không đại khái. Tao chỉ nhìn lặt vặt, nên tao từ hồi đồng ấu, toàn phải dựa vào mày. Tao bảo ngay từ đầu, là kế bất hợp tác của mày hay. Mày còn nhớ không?” Tôi gật đầu: “Có”. Tôi uống chén thứ 5. Tình Bốp nói: “Thằng này nhớ dai. Nhiều người bảo, phát súng là do mày bắn. Chính tao cũng lắm lúc phảng phất… Phục mày cứ trơn tru như không”. Tôi trả lời: “Không phải tao bắn”. Tình Bốp uống chén thứ 6. Tình Bốp nói: “Ừ, thì không phải. Nhưng ai cũng gọi mày, là thằng Dưỡng-phát-súng. Mày bắn hay không, vẫn là mày, chẳng thay đổi gì. Mày ghê thật, cứ hư hư thực thực. Mày vừa nói cái gì nhỉ?” Tôi nói: “Tao nói người ở với người, là khỉ vặt lông khỉ”. Tôi uống chén thứ 7. Tình Bốp nói: “Hay quá. Họ dùng phép, lấy khỉ vặt lông khỉ. Bây giờ mày nói tao nghe, họ dùng phép gì, để thịt tao với mày, và mày đối lại bằng phép gì?” Tình Bốp uống chén thứ 8. Tôi trả lời: “Trong năm thằng, mỗi mình tao bị lôi thôi. Dễ hiểu là vì tao bị ngờ. Tóm lại đây là phép ngờ. Đối lại thế nào? Rất dễ. Lấy ngờ chống ngờ, có vậy thôi”. Tình Bốp nói: “Hay. Sâu sắc lắm. Họ vờ vịt nói khoan hồng. Họ nói một đàng, làm một đàng, là họ chơi trò gì?” Tôi trả lời: “Trò đúp”. Tôi uống chén thứ 9. Tình Bốp nói: “Ừ, đúp. Họ chơi trò đúp, với mày. Mày trả lời, bằng trò đúp. Nhưng tao đề nghị, dùng danh từ trò-kép. Vẫn đúng í mày chứ? Hay là sai?” Tôi nói hay hay hay, ba lần liền: “Hay. Hay. Hay. Mày nghĩ ra những mẹo, những chữ hiểm lắm. Tao vẫn nghĩ mày là thằng ghê. Mày mặt tái nhợt, mà vẫn cười nhạt”. Tình Bốp uống chén thứ 10. Tình Bốp nói: “Đừng lạc đề. Cụ thể trò-kép cùa mày, là thế nào? Mày định chơi trò-kép, thế nào?” Tôi trả lời: “Đối phương, chứ không phải họ”. Tình Bốp đồng í: “Ừ, đối phương. Cũng thế cả. Mày nói tao nghe trò-kép của mày, xem thế nào”. Tôi nói: “Hừm”. Tôi lại nói: “Hừm”. Tôi uống chén thứ 11. Rồi tôi nói: “Giản dị thôi. Đối phương bảo đi họp, tao trả lời vâng. Đi lao động, vâng. Vâng là vâng vậy thôi. Đối phương tử tế nhân đức, vâng. Tao sẽ chỉ nói vâng. Nhưng tao nghi ngờ. Họ nói gì tao cũng ngờ. Họ tin tao thêm, thì tao tin thêm. Họ ngờ tao thêm, thì tao cũng ngờ thêm. Họ thật hẳn, thì tao cũng thật hẳn”. Tình Bốp uống chén thứ 12. Tình Bốp hỏi: “Họ đấu tố mày thì sao?” Tôi trả lời: “Hừm… Nhưng tao làm đếch gì, mà đấu tố tao? Tao lúc nào cũng chỉ nói vâng”. Tôi uống chén thứ 13. Tình Bốp nói: “Thì mày vẫn nói vâng đấy thôi. Sao họ vẫn cô lập mày, vẫn theo dõi mày, vẫn nghi ngờ mày?” Tôi nói hừm hừm, hai lần liền: “Hừm. Hừm”. Tình Bốp nói: “Mày không làm gì, mà đối phưong vẫn ngầm thịt mày. Đến lúc đối phương thịt hẳn mày, thì sao? Đời đếch nào chẳng có thằng oan?” Tôi nói: “Tao không làm gì, mà coòng tay tao, tao sẽ đánh trả”. Tôi uống chén thứ 14. Tôi uống chén thứ 15. Tình Bốp lại hỏi: “Đánh trả? Lấy gì đánh trả?” Tôi mắng Tình Bốp: “Có quả đấm. Không thịt nổi một thằng trước khi chết à? Có chân đấy, chạy ra giữa phố, phanh ngực, mà thét to: khoan hồng như thế này à?” Tôi uống cạn chén thứ 16.

Buổi tối. Tôi uất quá. Tình Bốp can tôi, nhưng tôi càng uất. Nhiều buổi chiều sau, đến trước cuốn nhật kí bìa dằn di, tôi nhớ lại cuộc nói chuyện ấy. Mỗi buổi chiều, tôi nhớ thêm, được một đoạn. Sau nhiều buổi chiều, tôi chép được toàn bộ. Kết quả là, nhiều cảm giác bồng bềnh, có lẽ do tôi uống đã tương đối, nhưng mà Tình Bốp cứ rót đầy chén tôi, mỗi khi chén vơi. Buổi chiều ấy tôi thấy, oan ức quá. Trong tôi có một thằng-oan-trái, không biết kêu oan ở đâu. Thằng-oan-trái kêu oan, với Tình Bốp vậy. Thằng-oan-trái nói: “Bảo khoan hồng, để dụ tao ở lại, rồi nay ngờ mai ngờ, rồi theo dõi tao, rồi chia rẽ bạn bè tao, hàng xóm rình mò tao, còn chưa đủ, còn xui vợ rình chồng, khoan hồng thế đấy!”. Tôi ăn thêm miếng thịt ngỗng, mà trong lòng trắng nhợt. Tôi biết, tôi trắng nhợt bên trong, chứ bên ngoài tôi vẫn hồng hào, Tình Bốp đâu có nhìn thấy gì. Tôi bỏ miếng thịt cắn dở, để uống cạn chén thứ 17. Tình Bốp rót đầy chén thứ 18. Tôi ngồi tư lự, rồi lắc đâu tê tái, rồi lại trắng nhợt, vẫn ở thăm thẳm bên trong, rồi ngơ ngác một mình, rồi lẩm bẩm một mình, rồi tôi nói: hết, một chữ ngắn gọn, chẳng nhẽ tôi đã đạt tới, chỗ cùng, của đường cùng, ừ thì đường cùng. Rồi tôi chợt nhớ tới  Lily. Lily đi hôm qua rồi. Lúc nãy tôi đã đứng, dưới những cửa sổ, mà tất cả đều đóng kín, mà không nghe thấy, dù chỉ một tiếng cười. Lúc nãy, tôi đã kiểm tra buồng tắm, một lúc lâu, đúng là chẳng còn ai. Buồng tắm vắng người, không một giọt nước, trên tường. Bây giờ, tôi không để í tới Tình Bốp nữa, không để í, mặt nó trắng hay mặt tôi trắng. Hôm nay tôi uống có lẽ quá sức, nhưng nếu không uống, tôi sẽ buồn chán ghê gớm, sẽ chửi bậy, bằng những danh từ xấu xa nhất nhân loại, và sẽ xé nát, cả một buổi chiều. Mâm rượu tàn như mửa. Chén rượu thứ 19 còn nguyên. Tôi ra đivăng,  nằm vật xuống.

⚝ ⚝ ⚝

Từ hôm ấy, tôi bắt đầu, giống thằng ăn cắp. Thành thói quen mất rồi, đi đâu ở đâu, cũng nhìn ngược xuôi. Sáng nay, sau khi ngủ dậy, tôi ngó nhìn các góc tôi trong nhà, mà không chủ định tìm cái gì cả. Tôi ra khỏi nhà, với một buổi sáng không càphê, tôi xách cần xách giò, lên Canh Diễn. Vừa đến cổng làng ngoảnh lại, đã thấy NÓ, thằng nhọn cằm ở phía xa. Nó đang nói gì với lão đánh dậm. Tôi giở đồ ra câu. Chưa được con nhái nào, đã thấy lão đánh dậm sau lưng. Tôi sang ao khác, lại thấy lão đi sau. Tôi sang ruộng khác, vẫn thấy lão, cách chỉ vài bước chân. Tôi lại chuyển chỗ, lão cụp vó lại, đi theo, suốt buổi sáng. Lúc tôi cuốn đồ câu về, đi trên đường đất, tôi còn nhìn thấy lão, lấp ló trong vườn chuối, cùng với thằng nhọn cằm. Tôi về. Qua các phố, tôi ngó ngược, ngó xuôi. Tôi đổi chương trình đi lại. Ngày nào cũng đổi chương trình. Tôi xuống Vĩnh Hồ. Một thằng bé chăn trâu, tuổi choai choai, mà chẳng đi học, bỏ trâu lại để đi theo tôi. Thằng này theo rất dính. Tôi lủi qua ruộng mía, rồi vòng lại. Nhưng chỉ được một lúc, nó lại tìm được tôi. Tôi đứng, chân ngập trong nước, mà vẫn thấy oi ả. Trên bờ, là thằng bé chăn trâu, và xa nữa, là bãi tha ma. Chẳng lẽ (nhật kí bỏ dở).

Buổi sáng. Một người vận áo xanh, đeo kính đen, lởn vởn dưới cột đèn, đầu ngõ. Người này chờ tôi, để sau đó đi theo, đến Ngã Tư Sở. Ngày nào cũng có một người ra đứng buổi sáng, dưới một cột đèn. Ngày nào cũng có một người vận áo xanh, và đeo kính đen. Rồi, ngày nào những người áo xanh cũng biến mất, mỗi khi tôi bắt đầu một ngã tư. Có một lúc, gặp thằng Ngỡi, bạn tôi. Ngỡi nói nhỏ: “Anh cẩn thận. Lọt vào mắt xanh rồi đấy”. Tôi hiểu, mắt xanh không phải vì áo xanh. Mắt xanh là mắt của công an. Vấn đề đặt ra là (bỏ dở).

Buổi chiều. Cái lưới của thằng nhọn cằm căng rộng quanh tôi, không chỉ bốn phía. Mắt lưới rất nhỏ, nên người đứng ngoài lưới nhìn vào, sẽ chẳng thấy gì hết, ngay cả một cái vẫy tay mơ hồ của tôi, ngay cả một nụ cười chào buổi sáng. Nhưng từ bên trong nhìn qua mắt lưới, tôi thấy nhiều thứ lắm: tôi thấy ông lão đánh dậm, tôi thấy các chị cắt cỏ, có ối chị đẹp. Tôi thấy chiếc áo xanh, dưới ngọn đèn đường, đôi lúc cũng thấy cả thằng nhọn cằm nữa. Đôi lúc thằng nhọn cằm tiến gần lại tôi, để tôi xem cặp mắt của nó, mênh mông, vô cảm. Cặp mắt làm tôi sợ hãi, ngay từ lần gặp đầu tiên, trên sóng nước Hồ Tây, khi tôi cùng với Lily, mà không biết tại sao. Mấy hôm nay, Cốm nghĩ tôi bị điên. Cốm thấy tôi đang đi ngoài phố, bỗng giật mình. Nhưng Cốm vẫn hỏi, như thế này. Cốm hỏi: “Hay là anh vẫn còn tương tư con đĩ Phòng Nhì?” Tôi gắt: “Đĩ Phòng Nhì là ai?” Cốm không nói. Cốm nghĩ gì không biết. Còn tôi bỗng dưng nghĩ, tới một trò chơi người lớn. Tỏi thích xem người lớn hun chuột: khói vàng cả ngõ, chuột chạy ra, cả đống. Thế mà có những con dũng cảm, nhất định chết cháy trong hang, không chịu bò ra. Dạo này, những mưu mẹo của tôi cũng nằm lì, trong sọ. Ngày ngày tôi hun sọ tôi, bằng vị đắng càphê và khói thuốc Côtab, vậy mà nó vẫn dũng cảm, không chịu làm việc. Con toán của tôi thảm sầu, nhiều ẩn số, thiếu dữ kiện, lại không đáp án. Cho nên tôi cứ bâng khuâng, trước hai đáp số: một là tiếp tục nghi ngờ, một nữa là tiếp tục chờ. Mà chờ, theo thánh kinh, cũng là nghi ngờ. Tôi nghi ngờ, ngày mai, ngày kia và ngày kìa. Sọ tôi khốn đốn, như chưa bao giờ trống rỗng đến thế. Trống đến cả một câu hỏi. Buổi chiều, có một chị nông dân gánh phân, mùi hôi nồng nặc, đi sau tôi, cả một phố dài, tới tận Thái Hà. Đến đầu ngã tư, có một anh bán kính đứng nhìn tôi, rồi lại một anh xiclô chầm chậm đạp xe phía sau, cho đến một ngã tư mới. Cá buổi chiều do đó bị chia nhỏ, làm nhiều đoạn. Mỗi đoạn mở đầu và kết thúc, đều ở một ngã tư. Kèm theo vô số những gương mặt vô phúc, đi cùng đường với tôi, đều bị tôi xếp vào hạng mật thám. Sẩm tối, nhìn vào gương, chỉ thấy một cái bóng người, lờ mờ. Tôi nói: “Đéo mẹ, trông anh khả nghi lắm”. Nhà vắng, điện chưa bật, tôi nói chuyện, với cái bóng trong gương. Tôi nói: “Có khi, chính anh cộng tác cho CÁ, anh đi theo tôi, không biết chừng”. Bóng cười nhẹ, trong gương. Tôi nói: “Đéo mẹ, nói thì không nói, chỉ cười”. Rồi tôi cũng cười, nhẹ nhàng, đúng lúc Cốm đi làm về. Cốm thấy lạ. Tôi xấu hổ. Nếu biết xấu hổ, tôi tự nhủ, tức là tôi chưa mất trí. Buổi tối, trong bữa cơm Cốm kể: công an, và ban bảo vệ khu phố, trưa nay đã coòng tay thằng Hoóng, quan hai biệt kích, không di tản mà ở lại Hà Nội, cùng đồng bọn.

Buổi chiều. Lại một chiều bùi bụi. Tôi gặp thằng Chắt trên phố. Tôi xách một xâu nhái. Thằng Chắt gọi tôi. Cu cậu trông rất oách, đội mũ thợ, quần áo xanh. Xanh từ đầu chí chân. Tôi nói: “Ra vẻ công nhân chưa! Đi làm dễ chịu hả?” Chắt nói: “Đang chết cháy đây. Bác tao bắt sang Gia Lâm làm, chẳng nhẽ giờ tao bỏ. Ông ấy cày cục, xin mãi mới được. Làm vài tháng, đã bỏ, ông ấy mặt mo”. Tôi nói: “Việc gì phải bỏ?” Chắt tròn mắt với tôi. Nó nói: “Mày không biết à? Vô khối thằng nhào ra, vì ra ngoài, kiếm nhiều hơn. Ở trong nhà máy lưong ít, lại thêm họp hành, thi đua, vất bỏ mẹ. Nhà tao xa, đến phát ngấy. Sáng đi từ tơ mơ, tối nào mà họp, thì 11, 12 giờ, mới bò về tới nhà”. Tôi nói: “Sao nom mày hớn hở vậy?” Nó nói: “Thì cũng có cái để hớn hở. Cũng đếch biết là cái gì. Tao đi về đã. Chủ nhật sang tao, làm tí tiết canh vịt, nhé!” Tôi ừ. Đến ngã tư tôi rẽ vào chợ. Thằng Chắt đi thẳng. Đấy là một chiều muộn bùi bụi. Tôi cảm thấy, tự dưng, tất cả những chỗ rẽ khác nhau, trong một kiếp người.

Buổi sáng. Tôi câu dọc đường Tầu Bay. Mưa to. Càng mưa câu càng ăn. Khiến tôi mải miết câu, mãi mới sực nhớ, có người bên cạnh. Tôi đi đến đâu, người này theo đấy. Hắn buộc mùi soa kín mặt, chỉ hở mắt, đầu đội thêm cái nón. Mưa vuốt mặt không kịp. Tôi quay lên, hắn cũng quay lên. Tôi quay lại, hắn cũng quay lại. Hắn luôn giữ khoảng cách với tôi, là một cột đèn. Tôi tiến nhanh đến chỗ hắn, hắn lủi. Tôi gọi: “Này. Nààày”. Hắn không trả lời. Mưa vẫn lút thút. Tôi tiếp tục câu. Lát sau, lại thấy hắn cũng đứng câu, cách một cột đèn. Cả tôi cả hắn đều ướt như chuột. Tôi tự hỏi tại sao hắn che mặt. Có lẽ hắn chính là thằng nhọn cằm cải trang. Tại sao hắn lại phải cải trang. Mưa lút thút, đếm được ba chục nhái, tôi về. Hắn theo sau.

Thế là con toán hóc, nhiều chấm hỏi. Suốt tuần lễ tôi loay hoay, với con toán lủng củng này: công an tại sao theo tôi dữ dội như vậy, tại sao lại lộ liễu như vậy, họ theo tôi nhằm mục đích gì, tôi phải đối phó thế nào, màn hạ sẽ ra sao, liệu có việc gì không, có bị oan không, mặc dù thời nào chẳng có cái oan của nó, nhưng nếu oan thì sao, nếu tôi bị coòng tay, đem đi thì sao, đem đi trại cải tạo, hay đi đâu, đi mãi đâu, tận đâu, đến bao giờ, và Cốm sẽ ra sao, Cốm có được đến nhà tù, đến trại cải tạo thăm tôi không?  Thế rồi mấy buổi chiều liền, ngồi giải toán, và mấy buổi chiều, tôi vùi đầu trong một cuốn sách cũ, có lẽ là trinh thám Nga, đã đọc mấy năm trước. Tôi bắt đầu lại, từ một chỗ tình cờ, là đoạn cuối, đúng vào lúc anh sinh viên Nga bị đày đi Xibêri. Cô người iêu đi theo. Bà mẹ già cũng đi theo. Đi đày như vậy, có lẽ sướng hơn đi tù một mình. Kết thúc của cuốn sách, không hiểu tại sao làm tôi thoát khỏi mọi lo sợ, mọi nghi hoặc, hờn giận, cùng mọi bàng hoàng, của nhiều tháng nay. Tợ hồ được an ủi đến sạch sẽ. Thế là tôi đọc lại cuốn sách từ trang một, 3 buổi chiều thì tới phần kết. Tôi đọc xong phần kết, như vậy là lần thứ ba, vào lúc 3 giờ chiều. Cuốn trinh thám Nga là một thương xót kì quặc, một từ bi trần tục, hết sức trần tục mà khắp gầm cầu, không đâu có. Một cứu vớt sâu thẳm, mà đến mảy bụi, con dòi và con sâu đo, mà đến tất cả chúng sinh dằn di - gồm vài nghìn vạn thằng dằn di, đều được cứu vớt. Tôi không hiểu tại sao. Chỉ thấy là lạ. 3 giờ chiều, nhà vắng. Vườn nhà tôi, qua cửa sổ nhòa nắng. Chiều nay là một buổi chiều cuối hạ, vậy mà tôi cảm giác lúc này, ngày này, là ngày không mùa, là lúc không giờ, là giờ ngoài đồng hồ, là ngày ngoài quyển lịch. Tôi cố nhớ lại, cảm giác khi đọc cuốn sách mấy năm trước, hình như cảm giác của lúc ấy không đáng để í. Vậy mà chiều nay, cuốn sách cho tôi những xúc động kì lạ. Chắc hiện tượng này, cũng bình thường thôi. Những chuyện cổ tích tôi nghe từ bé, những chuyện đời những cuốn sách, mà người ta sống mãi và đọc mãi, là cái bình thường, rất bình thường. Có khi người ta còn xem thường chúng, có khi còn chê bĩu môi. Để rồi bất chợt, đúng một lúc của nó, người ta mới à à, mới hiểu giá trị của chúng. Có khi đã quá muộn. Chiều nay tôi ngồi, nhìn ra vườn nắng, mà thấy anh sinh viên Nga đói rách, ôm o trong phố lạnh. Anh đến một phố nhỏ, vào một ngôi nhà nhỏ và giết một mụ cầm đồ. Anh sinh viên giết người. Anh xóa kĩ mọi dấu vết. Không còn một tang chứng. Cả buổi chiều muộn, tôi cứ ngồi suy nghĩ, như thế, và khoái chí nhớ lại cuộc đấu trí ngột thở, dài một nghìn trang, của anh sinh viên và một tay thám tử rất cừ. Không có bắt bớ truy lùng. Thuần đòn tâm lí, trong đủ các trò vờn và dử, bóng gió và thắng thừng, bắt nọn và thả lửng. Các trò tâm lí này cứ dập dờn, trong tôi sau đó suốt cả tuần lễ, làm tôi quên cả cuộc chạy trốn thằng nhọn cằm, cùng chiếc mùi soa của Lily. Có lúc, tôi nằm dài trên giường, nhắm mắt lại, để hình dung rõ hơn những cuộc gặp gỡ, của tay thám tử và anh sinh viên, khi ở căn gác ọp ẹp của anh, lúc ngoài quán rượu. Câu chuyện của họ diễn biến rất lịch sự. Không người nào phải to tiếng, sừng sộ. Tôi nghĩ anh sinh viên này giỏi, như một Nã Phá Luân xuất phàm, có tài cứu nhân độ thế. Anh có thể thay đổi được bản đồ khổ ải nước Nga, và châu Âu (ấy là tôi ví dụ thế). Anh là sinh viên thời Sa Hoàng, học thức rộng. Tôi học thức dở dang, chỉ được mỗi cái tiếng Pháp là ra gì, đủ để giúp tôi đọc trinh thám. Anh sinh viên có thể nói chuyện vài ngày dài, với cả thế giới các ông học giả, ông triết học, ông kinh tế học, ông vân vân. Còn tôi chữ nghĩa hạn hẹp, chỉ thoải mái nhất khi ngồi với Lily, vì nói gì Lily cũng hiểu ngay, và Lily nói gì tôi cũng hiểu ngay. Nói chuyện với Cốm, cũng không cần phải huy động kinh nghiệm, hay học vấn thời tiểu học. Tiếng Pháp lại càng không cần. Tôi mở lại cuốn truyện, vì muốn biết anh sinh viên mà nói tiếng Việt, thì sẽ hay thế nào. Tôi tìm được một đoạn lí sự, trước khi anh đến nhà mụ cầm đồ, mà anh gọi là con rệp già. Thú thật tôi thấy ghê ghê, nên đóng sách lại, cố không nghĩ tới cái chết của mụ. Anh sinh viên dù sao cũng đã hành sự xong, anh bước ra từ tội ác, máu còn chưa ráo trên tay. Tôi biết trong anh, đã bắt đầu nổi lên những hoảng loạn và hãi hùng. Đấy chính là sự trừng phạt. Sự trừng phạt của chính anh, làm anh ốm vàng, bệnh tật. Sau một nghìn trang giấy, anh lảo đảo ra đồn cảnh sát, tự thú. Sau một nghìn trang giấy, dĩ nhiên chỉ còn nhớ cái cốt truyện, nhưng cũng đủ làm tôi lai láng thương xót. Tuy nhiên tôi vẫn không đổi í kiến, tôi vẫn thích nhất cái đoạn kết, từ bi và cứu rỗi, khi anh sinh viên chuẩn bị đi Xibêri, cho 10 năm lưu đày.

10 năm có lẽ dài lắm, tôi chưa bao giờ phải chờ cái gì, đến tận 10 năm. Cho nên chạnh lòng, thấy tôi nhỏ bé như hạt bụi, nằm chờ sự nhân đạo của xã hội, thảm hại như con sâu đo. Giống như chuyện của anh sinh viên và tay thám tử nọ, công an theo tôi lồ lộ, bởi vì nghi ngờ tôi, nhưng vô tang chứng. Công an phải đánh cái đòn tâm lí, để tôi nếu có tội thật, thì phải hoảng sợ, hoảng sợ thì thế nào cũng hớ hênh, hớ hênh thì thế nào cũng bại lộ. Đây cũng là cái đòn nhân đạo, để tôi tự trừng phạt.

Nhưng chuyện tôi lại không giống chuyện anh sinh viên, vì tôi không phạm tội. Vẫn biết thời nào cũng có người oan. Như mẻ gạo đổ vào nồi, đổ khéo vẫn sót lại, trong rá, vài hạt. Thường là hạt vỡ bị kẹt lại. Liệu tôi có bị tai nạn éo le, như hạt gạo vỡ, tôi chờ kết luận.

Nhưng nếu không có tôi, đời vẫn không sao, các nồi cơm vẫn chín và thơm phức, nội ngoại thành vẫn làm lụng, đi lại và ăn uống vui vẻ. Nếu không có tôi, thì buồn lắm, tôi sẽ kẹt lại trong một trại giam nào, buồn như hạt gạo vỡ. Cốm sẽ thỉnh thoảng đến thăm, thế nào cũng khóc, thế nào cũng bị tôi mắng, thế nào Cốm cũng tủi thân ra về. Cuộc đời bên ngoài và miền Bắc thế nào cũng bỏ sót tôi. Mặt trời vẫn sáng. Cộng sản nhân đạo với nhân dân. Chỉ mỗi mình tôi, nhỏ như hạt bụi, xấu như con dòi, ngu như con sâu đo, lúc nào cũng chẳng là cái gì, lúc nào cũng chậm chân, cho nên bao nhiêu may mắn bị người đời lấy trước cả. Cho nên không có tôi, bản đồ nội ngoại thành cũng không bị tổn thất gì. Cả một tháng nay, tôi không say rượu, vì không gặp Tình Bốp, cũng vì chán không thiết gặp ai. Cả một tháng quên rượu, dù sao cũng giúp tôi thêm tỉnh táo, và thông minh. Những buổi chiều mà còn thông minh như thế này, bao giờ cũng hiếm. Cho nên tôi tận dụng sự thông minh, để bỗng dưng tự hỏi, biết đâu tôi đã không bị oan, như vẫn luôn mồm kêu oan. Thế là tôi nhớ lại, được nhiều chi tiết quan trọng. Ông Trung trố trong các cuộc họp, có nói thế này. Ông nói, đã là ngụy, dù vì động cơ gì, dù thời gian dài ngắn, dù vì sinh! kế, hoặc vì lầm đường, đều là có tội. Tôi đi ngụy 14 tháng, vậy là có tội. Tôi biết, thằng nhảy dù có tội nhảy dù, thằng bàn giấy có tội bàn giấy, tội to nhỏ cũng là tội. Nếu không, tại sao tôi lại lo lắng, đến hoảng loạn, ngay từ những ngày trước tiếp quản. Nếu không có tội, tôi đã chẳng phải đắn đo đi hay ở, trốn hay không trốn. Vậy là, chuyện của tôi cũng giống hệt như chuyện anh sinh viên người Nga: cả hai cùng có tội. Tôi biết bài học của anh. TỘI và PHẠT phải đi kèm, như bóng với hình, bao giờ cũng phải đi kèm. Cho nên, khi máu của tội lỗi còn chưa ráo tay, khi tay thám tử còn chưa xuất hiện, trong anh sinh viên PHẠT đã bắt đầu rồi. Trong bụng anh, TỘI cũng ngọ ngoạy, cựa đạp, như thể đòi phải được trừng phạt. Bởi vì chỉ có một cách ấy thôi, TỘI mới có thể iên thân, thằng phạm tội mới có thể vui vẻ, trên bản đồ cuộc đời vui vẻ. Nhưng cũng có một cách bắt thằng phạm tội đền tội, i như trong thánh kinh, là an ủi nó, là những phút sung sướng. Đúng như trường hợp của tôi vậy. Khi ông Trung trố nện tội, bằng nhiều cú ngầm, ngay giữa cuộc họp khu phố, mọi người đều tưởng tôi uất lắm. Đúng là tôi có uất, có đau thật, nhưng không chỉ có thế. Tôi lại thấy mình oai oai, cũng có khi thấy khoái. Cho nên tôi làm như không nghe thấy. Cho nên tôi cười toe toét, trong cuộc họp. I như đứa trẻ bị bố đánh đòn: nó cười toe toét, vì nó coi như xong, và cùng vì bố nó đánh rồi, nó có thể iên trí đùa nghịch này nọ, đến trận đòn khác hẵng hay. Đứa trẻ này, chỉ lo lắng khi phạm tội, là chưa bị ăn đòn. Tôi cũng vậy: tôi là thằng tàu bò, có tội là thằng tàu bò, có tội với họ, tôi lo lắng vì mới bị họ dọa, chứ chưa bị xử phạt. Thôi cứ để tôi tự trừng phạt mình, hệt như anh sinh viên nọ. Nhưng tôi không cố í hoảng hốt. Tự nhiên nó thế, cố í cũng không được. Phải có TỘI, mới có PHẠT. Cái khó nhất, là những người ẩy tôi vào trừng phạt, lại có vẻ tốt bụng thật, chính nghĩa thật. Vẫn biết, trên bản đồ tôi sống, chỉ có hai loại người, chính diện và phản diện. Vô tình lọt vào loại thứ hai. Nhưng tôi vẫn biết, bản đồ miền Bắc đẹp. Tôi biết không có tôi, mặt trời vẫn sáng, nhân dân vẫn tiếp tục làm lụng, ăn uống, đi lại trên bàn đồ nội, ngoại thành. Không có tôi, người chính nghĩa vẫn nhân đạo, chỉ mỗi tôi có thiệt thòi riêng. Trừng phạt rồi, mà vẫn phải nằm chờ nhân đạo.

Bây giờ là 7 giờ tối. Vậy là tôi ngồi không cũng đã được 4 tiếng. Cốm đi làm về, đang đi trong ngõ. Em Cốm, cái thai đã to, nom như một cây lúa ngậm đòng. Tôi bật điện. Thì ra từ nãy, tôi đã ngồi bó gối, trắng nhợt, trong buổi chiều nhọ. Suốt buổi chiều, tôi đã kịp thuộc lòng, một nửa trang sách ám ảnh.

Buổi chiều. Anh sinh viên người Nga, trước khi phạm tội, đã đến, nói như thế này: “Tôi là một Nã Phá Luân tân thời. Tôi nghèo, tiền trọ nợ đìa, bàn ăn quanh năm không có gì, căn gác mùa rét không lò sưởi. Tôi không có điều kiện, để ăn học nốt. May thay ở phố ấy, có mụ cầm đồ giàu có, không con cái, tuổi mấp mé miệng lỗ, chuyên nghề hút máu những người cơ nhỡ, mụ đáng tội chết. Tôi phải giết mụ, đoạt tiền của mụ. Như vậy nhất cử nhị tiện. Nhất tiện, tôi trừ cho xã hội một con rệp già. Nhị tiện, tôi đoạt số tiền của mụ, tiếp tục ăn học thành tài và trở thành Nã Phá Luân tân thời, cứu nhân độ thế”. Tôi không tranh luận. Bởi vì tôi không biết, biện hộ cho tội ác đi ngụy của tôi, như thế nào, bằng những lí do quan trọng, và vinh quang nào. Nhưng một Nã Phá Luân tân thời đi ngụy, hòng cứu nhân độ thế, chắc chắn chưa bao giờ được tôi đưa vào chương trình, dù chỉ trong một í nghĩ tia chớp. Hồi ấy, tôi chưa viết nhật kí.

⚝ ⚝ ⚝

Tháng mười một 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ sáu hay chủ nhật. Bên kia cửa sổ tôi xanh, có sáu cây bàng rụng lá, và nhiều căm nhông xanh quân sự đậu, có tháng mười một vắng lặng, và phố thời chiến vắng lặng. Để chờ những cơn bão chưa tới. Tôi cũng chờ 7 ngày về thăm Hà Nội của Dưỡng, bởi vì cuốn nhật kí của anh bị mất ít nhất hai mươi trang. Tôi vẫn cho rằng, động tác ghi nhật kí thể hiện cách ứng xử của cá nhân, với thời gian. Người ghi nhật kí bộc lộ khá nhiều phản ứng, hoặc tích cực, hoặc tiêu cực, với hiện tại, và dường như hiện tại là đối tượng duy nhất, của nhật kí. Ở một góc độ nào đó, động tác ghi nhật kí cố gắng vĩnh cửu hóa hiện tại, và chấp nhận toàn bộ mâu thuẫn với qui luật thời gian. Đúng là hồi đi ngụy, Dưỡng chưa viết nhật kí thật. Còn những ghi chép của 2 tuần lễ, tiếp theo buổi chiều nhọ kể trên, bị mất cả. Nhiều trang bị Dưỡng dập xóa, nhiều trang bị xé nát, nhiều trang mất cả cuống, nhiều trang còn để cuống lại. Một ngày tháng mười một, Dưỡng nghỉ phép về Hà Nội, tôi mang tập bản thảo bị thương đến. Tôi đề nghị Dưỡng giải thích động tác xé nhật kí của anh. Dưỡng nói: “Đúng là tôi viết nhật kí, để đưa hiện tại của tôi ra khỏi thời gian, để ngày hôm nay được tồn tại, vĩnh viễn. Nhưng tôi bắt đầu nhận thấy sự nguy hiểm của vĩnh cửu. Đã 3 mùa trôi qua, mà hiện tại của tôi ngày một tệ hại. Sự vĩnh cửu, giống như vũng nước tù, càng vĩnh cửu càng hôi thối, càng lắm kí sinh trùng. Chính vì vậy, tôi đã xé nhật kí. Hai tuần liền, tôi nghĩ lung mung lắm. Người tôi rã rời. Thỉnh thoảng có vài tia chớp, lóe trong sọ, sáng trưng. Rồi lại tối om. Tôi lo nhất là bị coòng tay đem đi: vợ tôi đang có mang, việc làm tìm chưa ra. Nhìn đâu cũng thấy công an. Đêm ngủ đầy ác mộng. Tôi xé nhật kí, viết rồi xé, chưa viết xong, cũng xé, mà hiện tại vẫn hủi. Tôi lại tiếp tục nhật kí, nhưng muốn hiện tại đi nhanh hơn, tôi còn một cách, là đánh số, vào những nhật kí. Như vậy, ngày đến sau sẽ đẩy lùi, ra xa những ngày đến trước. Tôi chờ. Còn nghĩ nhiều, đến cuốn trinh thám Nga. Rồi không nghĩ đến nữa. Cách đây không lâu, tôi muốn đọc lại, mà tìm không thấy”.

Tháng mười một 1965. Cuốn sách đã làm Dưỡng ngơ ngẩn không ít ấy, mang nhan đề TỘI ÁC VÀ TRỪNG PHẠT, là một tiểu thuyết, của đại văn hào Đôxtôiepxki. Dưỡng đã gọi nhầm, là sách trinh thám. Tôi không biết cuốn của Dưỡng là của nhà xuất bản nào, trong bộ sưu tập trinh thám nào. Tôi biết, nhiều nhà văn chuyên viết trinh thám châu Âu, nhận Đốt như một trong những ông tổ của họ. Cái đó không hề làm hại vị trí văn hào của Đốt, mà ngược lại. Tôi cho là Dưỡng đã tìm được cuốn sách, trong một bộ sưu tập trinh thám lèm nhèm. Nhưng qua những ám ảnh, của Dưỡng, tôi có thể tưởng tượng được, rất rõ ràng, tầm cỡ đại văn hào của Đốt. Thế rồi, 2 tuần của nhật kí trôi qua, với nhiều tictăc phức tạp, và nhiều ngã tư ngày, toang hoác vết bội thương.

⚝ ⚝ ⚝

Ngày số 1. Nhật kí tiếp tục: i như trong thánh kinh, tôi lại tu tại gia. Mẹ tôi hình như bàn với Cốm, tìm việc cho tôi. Trong khi chờ đợi, lại ngày ngày câu nhái. Lại họp khu phố, không thiếu buổi nào. Tôi tham gia lao động chủ nhật, tham gia lấp đầm lầy, đắp đường đi mới trong ngõ. Không thấy tay nhọn cằm đâu. Cũng không thấy nữa mấy người áo xanh, đứng chờ đầu ngõ, dưới cột đèn buổi sáng. Có lẽ bây giờ, công an chuyển sang giai đoạn theo dõi ngầm. Dù sao, adiđàbụt, tôi vẫn trợn. Nhất là khi cả xóm kể cho nhau, chuyện bọn thằng Hoóng bị tóm như thế nào. Những thằng tay chân, kiêm bạn thân của thằng Hoóng, được nhân dân đặt tên, là bốn thằng Lừa, Ngựa, Bú dù, Bò. Cả bốn thằng đều bị theo dõi, hệt như tôi vậy, nhưng bị thêm nhiều cuộc gặp gỡ đả thông với công an, có khi kéo dài suốt đêm. Lại những trò tâm lí, chép từ truyện trinh thám. Có khi còn ghê hơn, vì bốn thằng phải đối diện, với những đại diện của chính nghĩa, và của chính sách. Bốn thằng bắt đầu trả lời, bằng những câu hớ hênh, rồi bắt đầu thú nhận, bằng những câu rụt rè. Khi anh Thái và bác Mẫn tuyên bố: nếu khai cáng sớm, càng chân thành, tội càng giảm, giảm mãi thành vô tội, bốn thằng tranh nhau khai tội và tố cáo lẫn nhau. Công an chỉ việc đến, bắt thằng cầm đầu, là thằng Hoóng, quan hai biệt kích không đi di tản, mà ở lại Hà Nội. Hôm ra tòa, đúng là mọi tội lỗi bây giờ thằng Hoóng phải chịu hết. Bốn thằng Lừa, Ngựa, Bú dù và Bò đều nhẹ tội thật, có thằng mặt mũi còn rất tươi tỉnh, đúng như cái tên của nó. Hôm ra tòa, hai mẹ con, hai người tình của thằng Hoóng, cũng dắt tay nhau, đứng chờ dưới phố. Cô con gái mắt đỏ hoe. Còn cô mẹ mặc áo cánh đen, mắt cũng bôi phẩm đen. Trông cứ như hai chị em. Tôi, từ vụ án này hiểu thêm nhiều thứ, về tình bạn và quyền lợi, về cả tình iêu nữa. Cũng từ sau vụ án, tôi không đến nhà Tình Bốp. Tôi tránh đi qua chiếc cổng sắt sơn xanh, bên dãy số lẻ. Tôi sợ tình bạn. Vả lại, adiđàbụt, đã quyết định tu tại gia, chỗ nào con mắt khu phố đổ vào, kẻ tu hành không nên lai vãng. Tuy vậy, tôi cảm thấy thế này: từ chối một tình bạn, là tôi đểu.