← Quay lại trang sách

Chương VI Thu 1955

Ngày số 2. Chớp mắt đã sang thu. Tình Bốp dẫn tôi đi bác sĩ, vào một ngày thu, khi tôi chưa ghi nhật kí. Đến nơi, hóa ra là một nữ bác sĩ, mới học ở Pháp về. Nữ bác sĩ rất thích xoa mà chược. Có lần xoa mà chược về khuya, bị cảnh sát bắn thủng xe. Hôm nào thua bạc, bệnh nhân kêu cha kêu mẹ, vì vừa bị làm đau, vừa phải trả tiền đắt như ở bên Pháp. Nữ bác sĩ hôm ấy trao tôi cho một nữ i tá. Cô i tá trẻ và xinh, cứ lóng ngóng và thẹn đỏ mặt, khi tôi cởi quần áo. Cả tôi, cả cô đều thẹn, cho nên mãi mà cô vẫn chưa hiểu, tôi đau ở đâu. Tôi xấu hổ, cứ che che, đậy đậy, bộ phận kín. Hồi lâu, nữ bác sĩ mới vào, thấy vậy thì mắng: “Vẽ”. Và nói thêm: “Tôi chưa chồng, nhưng không lạ gì những thứ dụng cụ này”. Dụng cụ, là để chỉ bộ phận giới tính của tôi, bị mắc bệnh, sau một lần đi vườn hoa. Là từ vựng, dịch từ tiếng Pháp sang. Là quan niệm triết học, mà nữ bác sĩ đem từ Pháp về. Nữ bác sĩ không đẹp, nhưng giọng tròn như đầm, cả người chỉ được cái giọng. Khi nói, đôi môi cũng uốn tròn. Tôi trả nhiều tiền, vài buổi thì khỏi bệnh. Tôi đem tí quà, đến cám ơn nữ bác sĩ, vào 9 giờ tối một mùa thu. Nữ bác sĩ bảo: “Để tôi xem lại cho”, rồi đưa tôi vào buồng ngủ, xem rất kĩ. Đêm thu ấy, tôi ngủ luôn tại đó. Sáng dậy, nữ bác sĩ bảo: “Thế là khỏi hoàn toàn rồi. Anh có thể về, không phải quay lại nữa”. Tôi về, nghĩ bụng Tình Bốp đúng là tay sành điệu, Hà Nội có cái gì hay nó biết cả.

⚝ ⚝ ⚝

Ngày số 3. Chớp mắt đã mấy mùa thu nữa. Mỗi mùa thu đều bắt đầu từ một sự cố. Mẹ tôi nói: “Thế mày nghĩ thế nào? Ông Phúc quen bố mày từ xưa. Con nghe mẹ: thời buổi khó khăn, tìm đâu được việc gì bằng. Người ta hẹn tối thứ bảy này phải trả lời”. Tôi nói: “Để con nghĩ đã”. Cốm đứng bên cạnh nói: “Anh bằng lòng đi. Lương anh tám vạn (80 đồng, tôi chú thích), với lương em năm vạn, nhà mình sống tươi”. Tôi nói: “Tươi. Rồi cô đẻ, phải nghỉ việc. Chỉ còn tám vạn lương tôi, để nuôi ba mống. Tươi nhỉ. Đi câu nhái còn kiếm nhiều hơn”. Mẹ tôi nói: “Chứ mày muốn bao nhiêu? Ông Phúc có hứa để mày vào làm, vài tháng xem sao. Nếu mày nhanh í, từ chân lái phụ, mà lên được chân lái chính, rồi cố thi lấy cái bằng lái, ông Phúc hứa sẽ trả ít nhất mười lăm vạn”. Tôi nói: “Pựt. Nghe lời hứa của họ!” Mẹ tôi nói: “Ông bà Phúc đứng đắn. Có phải mày đi làm công cho người ta đâu. Đấy là ông ấy giúp nhà mình”. Tôi nói: “Pựt. Thôi mẹ đừng nói. Mẹ hai thứ tóc trên đầu, vẫn không hiểu gì. Thiên hạ tính điều lợi, nếu không có lợi, người ta đừng hòng”. Mẹ tôi im. Cốm mặt đượm vẻ lo. Tôi đi đi lại lại, trong buồng. Tôi nghĩ, tám vạn hơi ít. Mười vạn cho cái chân phụ xe, thì nghe được. Ông Phúc là chủ hãng xe Phi Mã, mẹ tôi nói. Nhưng tôi biết mấy chiếc xe quèn chạy Hà Nội–Nam Định của ông, thế mà cũng gọi là hãng. Bịp cả. Mẹ tôi và Cốm thì thụp với nhau, từ cả tháng nay, về việc này. Tôi chỉ mang máng vậy, nhưng không hỏi. Thực tình, có lúc cũng muốn việc làm, nhưng lúc này bụng tôi ngập ngừng, vì ngại đi làm bó buộc. Cho nên tôi nói: “Thôi, lương lậu thế, con đi câu thôi. Đi câu cũng là nghề”. Mẹ tôi nói: “Con lái được tàu bò, lái ôtô còn dễ hơn. Con chịu khó, thế nào cũng lên được chân lái chính, rồi thi thêm cái bằng lái, thế nào cũng chuyển được thành phần”. Tôi cáu. Tôi nói: “Mẹ nói gì? Chuyển thành phần gì?” Mẹ tôi nói: “Mẹ nói thế, thì làm sao, mà cáu?” Tôi nói: “Thành phần xấu. Là do mẹ. Tôi đâu có chạy lễ thằng Macxen, để được vào ngụy. Hồi ấy, tôi đào hầm trốn động viên, còn lâu nó mới bắt được tôi”. Mẹ tôi nói: “Ừ, thì tự mẹ. Nhưng bây giờ, sự thể đã rồi. Đừng gắt mẹ. Nếu con chê lương ít, thì mẹ bù vào chỗ thiếu cho con. Nay mai vợ con sinh nở, mẹ đã lo liệu xong cả rồi, có phải mình con lo đâu mà sợ”. Cốm nói: “Nhà mình hai vợ chồng khỏe mạnh, sinh một đứa con, đã đến nỗi gì, mà anh phải lo nhiều”. Nhưng còn ức câu chuyện thành phần. Tôi nói: “Thôi đi. Cái luận điệu chuyển thành phần, chính cô nhồi sọ cho bà cụ. Tôi còn lạ gì”. Cốm nói: “Mẹ nói thế, không đúng à, thì đã sao?” Tôi quát: “Sao cái gì?” Mẹ tôi cuống quít: “Ơ thằng này. Nó nói thế, mà mày sừng sộ”. Tôi quát to: “Phải. Tôi xấu. Thành phần ngụy binh hại nước. Mặc xác tôi”. Tôi nói với Cốm: “Cô tìm được chỗ nào thành phần tốt, cứ việc. Tôi kí giấy li dị ngay. Con sau này đẻ ra, tôi nuôi”. Nói rồi, đi ra cửa. Không thấy ai phản ứng, tôi càng cáu. Tôi nói: “Này, thằng Thái thành phần tốt đấy. Chưa vợ con gì cả. Người ta đồn ầm lên rồi đấy”. Cốm quắc mắt. Cốm nói: “Lại luận điệu thằng Tình Bốp!” Tôi nói: “Tình Bốp cái gì!”, và vung tay, tát trái Cốm, nghe đánh đốp một cái. Mẹ tôi tức thì tru tréo: “Ơ. Thằng vũ phu! Thằng đế quốc! Mày đánh ngay mẹ mày, có phải hơn không!” Tôi nói: “Cả mẹ nữa. Mẹ từ tôi đi. Thành phần đế quốc đây. Từ tôi đi”. Rồi đi thẳng. Tôi nhìn lướt qua, rất nhanh, thấy Cốm mím môi. Núm đồng tiền nổi, ở má bên phải, đo đỏ. Chỗ ấy lằn vết tát trái.

Ra ngoài, mới biết trời mưa. Qua cửa nhà Tình Bốp, tôi không vào. Tôi sợ tình bạn, vả lại, mọi cửa sổ nhà nó vẫn đóng kín, khách đàn ông qua phố, đã mất hẳn thói quen dừng lại trên vỉa hè, để chờ tiếng phụ nữ cười. Ra ngoài, mới biết phố sũng nước, vỉa hè cũng ướt sũng, mà trời vẫn nóng. Mưa rơi trên sọ để trần của tôi, mà vẫn thấy nóng. Đúng là chuyện bỗng dưng. Sọ mắng tôi. Tôi mắng lại sọ. Tôi mắng: “Câm!” Tôi chán ngấy cảnh sống này. Phố bày trước mắt tôi phong cảnh đầu thu, với xe cộ và bộ hành mưa bụi. Đèn điện loang loáng, trong mưa. Thế mà không biết đi đâu. Buổi tối mới chỉ bắt đầu. Tôi đến trước nhà thằng Đoành. Nghe tiếng nó hát rất to, nhưng chả thấy ai dừng lại để nghe cả. Chỉ mỗi một tôi lưỡng lự, không biết đi đâu, làm gì. Tôi đứng trước nhà nó một lúc, nhận được bài nó đang hát, là một bài quan họ nổi tiếng. Nghe cũng hay, thế là tôi vào ngõ nhỏ. Đến sân trong, thấy cửa sổ buồng nó mở toang, thấy mưa bụi đầy ô cửa sổ, do sáng đèn. Nó hát: trèo lên quán dốc. Trong lúc tôi trèo, lên bậc cầu thang bằng gạch, may mà không gặp cô chị gái nó e lệ. Tôi cứ thế ẩy cửa vào. Thằng Đoành đang ôm ngực, đúng chỗ quả tim đập, để tập hát trước gương. Mồm ngoạch như mồm giải. Thấy tôi vào, nó vẫn hát. Ngồi xuống ghế. Tôi nói: “Sầu”. Thằng Đoành hát, vẫn theo điệu quan họ: “Thì rượu kia”. Tôi nói: “Thôôôi”. Thế là nó thôi hát, lấy ghế ngồi nhìn tôi. Nó hỏi: “Mày sao thế?” Tôi nói: “Sầu”. Nó nói: “Tưởng gì. Sầu là thường. Vui mới lạ” và ra tủ lấy chai rượu Rom. Thằng này xoay đâu ra, mà lắm rượu tây. Nó mời tôi tạc thù với tôm khô. Tôi nói: “Làm ăn thế nào?” Đoành nói: “Khu phố cho tao hát, ở rạp xinê. Cũng trung bình thôi. Mê nhất là con bán vé, mới toanh”. Tôi nói: “Còn tươi, giãy đành đạch”. Nó nói: “Sao biết?” Tôi nói: “Tao hoang tưởng hộ mày”. Nó nói: “Hé hé” và móc túi khoe tôi tấm ảnh một cô bé đờmico, tức là chụp đến rốn. Ảnh cỡ sáu chín, trông cũng khá. Cô bé này vẽ mắt đậm, tóc thì uốn cong, còn hai vú thì bicphê sừng bò. Lật mặt sau, thấy ghi mấy chữ: kỉ niệm anh Đoành iêu, kèm cái chữ kí như búi chỉ rối. Tôi trả nó cái ảnh. Tôi nói: “Tình nghi cái bicphê sừng bò. Không khéo bằng cao su”. Nó nói: “Tao xác minh rồi”. Tôi cạn cốc. Nó rót cho cốc nữa. Tôi nói: “Cuội. Ảnh này mày mua ngoài phố”. Nó nói: “Sao mày biết?” Tôi nói: “Tao thấy ảnh này bày bán mãi, ở cửa hàng phôtô”. Nó cười sằng sặc: “Hé hé. Thế là mày vui được một tẹo, rồi nhé”. Nó rót cốc thứ ba: “Đời. Đời phải giải sầu. Mọi người cứ nói tao cuội. Kì thực là tao giải sầu. Vì đời sầu lắm. Nếu không cuội, lấy gì để ngày giờ trôi đi. Thằng Cuội là thằng sướng nhất. Tao thi với thằng Cuội. Tao còn thắng nó một điểm. Nó chỉ cuội với mọi người, là cuội đối ngoại, thế là kém. Đối nội mới khó, đối nội là đánh lừa cái nội tâm sầu. Tao là thằng Cuội thời hiện đại. Lúc nào tao là thằng Cuội, lúc nào tao là tao, cũng chẳng biết. Như sáng hôm qua, lúc thức dậy muộn, mới nhớ là hôm nay em đến. Tao vội vàng dọn phòng, và treo mấy cái ảnh truồng thật ác, để em vào là biết liền, tao thích cái gì. Tao mặc quần lụa rất diện. Thế mà 8 giờ rồi, mà em không đến. Nhìn vào lịch, tao mới ngã ngửa, năm nay đã là năm 1955. Tao với em hẹn nhau 30 tháng 8 năm 1952 cơ. Thế mà quên mất, em này chắc phải khóc hết nước mắt”. Tôi nói: “Có xừn xựt không?” Nó nói: “Có chứ, thường xuyên”. Tôi nói: “Lí Hà à?” Nó nói: “Không, tên là Pat. Lần nào em Pat đến, đều có tiệc chay hoặc mặn. Thế rồi tối Nôen ấy, tao lại sửa soạn nào xăngwiss, nào gatô, nào súccùlà, nào gin, nào vang, và cônhăc, mà em không đến. Đêm Nôen ấy, tao phải đi tìm thằng Tình Bốp, để uống giải sầu, có cả mày thì phải”. Tôi nói: “Ừ, tao nhớ cái mặt mày thồn thộn, tưởng mày ngưỡng Chúa. Té ra là em Pat. Thằng này thế mà kín đáo”. Nó nói: “Em Pat về sau chết. Trên bàn đẻ. Tao lại về khách sạn”. Tôi hỏi: “Khách sạn nào?” Nó không trả lời ngay, lát sau mới nói, giọng buồn lắm. Nó nói: “Dạo ấy không có tiền. Pat bị thổ huyết. Dạo ấy mày và Tình Bốp phải bán xe ôtô, được ba nghìn mác. Mày đưa tao cả ba nghìn. Dạo ấy tao đưa Pat lên núi Xanatôriom. Pat chết ở trên ấy. Tao lại quay về khách sạn”. Tôi nghe thấy là lạ, không hiểu khách sạn nào, và tại sao, lại tiêu tiền mác, là tiền Đức. Mãi sau tôi mới hiểu. Tôi mắng: “Bố mày! Em Pat của NHỮNG NGƯỜI BẠN, của Romac, có phải không?” Nó nói: “Ừ. Dạo ấy, đang đêm, em Pat từ tiểu thuyết bước ra, trần truồng. Em đứng mãi, trong buồng tao, trần truồng, đúng chỗ này”. Đột nhiên, nó đứng phắt dậy, chạy ra góc buồng. Tôi chưa hiểu ra sao, nó đã bưng về một cái bô, đặt giữa bàn. Nó mở nắp bô. Mùi khai sặc. Khắm quá. Nó nói: “Em Pat chết, tao khóc mãi. Đêm nào cũng khóc. Đầy một bô nước mắt”. Và ngay tức thì, nó khóc thật. Nó khóc tu tu, mặt ghé sát miệng bô. Nom nó đau thương tột cùng, nước mắt chảy ra, lã chã. Nó còn dùng tay gạt nước mắt vào bô. Tôi phải lôi nó ra, tranh lấy cái bô, đậy nắp lại, rồi mang vào chỗ cũ. Tôi nói: “Tối nay, tao ngủ ở đây”, rồi ra giường nằm.

Qua chiếc cửa sổ mở, tôi nghe thấy gió và lá, xào xạc, xào xạc. Là cái tiếng thu. Tôi muốn nằm, mà nghe mãi, nhưng thằng Đoành dựng tôi dậy. Nó kéo tôi ra bàn. Nó nói: “Khoan hãy ngủ. Bây giờ đứng đắn nhé. Đứng đắn cũng giải được sầu. Tao muốn biết, tối nay, tại sao mày sầu?” Tôi nói: “Mẹ tao xin cho tao, làm phụ lái ôtô, ở hãng Phi Mã. Nhưng mẹ tao lại nói, đi làm để chuyển thành phần. Thê là tao cáu”. Nó nói: “Có mỗi vậy thôi à?” Tôi nói: “Rồi cãi nhau với vợ. Tao tát vợ tao một cái. Mày mà làm tao cáu thêm, tao cũng sẽ tát mày, nhưng không chỉ một cái”. Nó nói: “Vậy, mày, như người ta nói, là thằng vũ phu. Nhưng vũ phu cũng là một cách giải sầu. Giải sầu có 36 cách. Mày phải chọn cách nào vô hại, không làm phiền mày”. Tôi nói: “Xin đủ”. Nó đứng dậy, đi lại trong buồng, vừa nói, vừa làm điệu bộ, i hệt một diễn viên hạng bét. Nó nói: “Đờời. Đời là gì, để người ta cứ phải giải sầu, cho đời. Nam nữ đi phố, chẳng hạn. Comlê, nịt vú, nước hoa, độn vú, để làm gì, nếu không phải để giải sầu, lẫn cho nhau. Lại thêm cái xinê, tranh ảnh, trinh thám, nhạc xình, cũng để giải sầu. Tao hát ở rạp xinê, là giải sầu hộ mấy cái lỗ tai của khách, trong lúc họ chờ màn ảnh, để giải sầu con mắt. Mày có thấy đời hiện đại, người ta chú í giải sầu cho nhau, có ghê không. Khách xinê, khoái mắt rồi, lại cần tao hát để khoái cái lỗ tai, và cắn hạt dưa để khoái cái lỗ mồm. Đời hiện đại là một khoa học giải sầu, tinh vi nhất. Tao làm nghề giải sầu thiên hạ, được tẹo tiền tao lại đi giải sầu cho tao, ngoài vườn hoa. Mày thấy có li kì không. Đa vấn đề lắm. Kết luận của tao, đời hiện đại là một sự thuê tiền lẫn nhau, người nọ phải giải sầu cho người kia. Đời thế mà vui, chứ không phải sầu đâu. Người thì có kẻ sầu, vô số thằng sầu, con sầu. Nhưng đời khác. Đời là mọi người hợp nhau lại, để giải sầu và chống sầu”. Tôi nói: “Ừ, hồi trước tiếp quân, tao đã nghe mày triết lí giải sầu. Bây giờ, mày cũng vẫn nói thế. Lời có khác, nhưng í thì vẫn thế”. Nó nói: “Lời mà khác, thì í không thể vẫn thế. Í cũng phải khác”. Tôi nói: “Khác quái gì. Trước kia mày nói, cả thành phố đểu cáng dâm loạn, thuê mày hát để giải sầu, cho thành phố. Mày được tiền, lại dùng tiền, để bắt cả thành phố giải sầu lại cho mày”. Nó nói: “Đấy. Có khác đấy. Cái thần nó khác. Trước kia lời tao dùng nghe ác độc, là vì đời ác. Cũng cái luật ấy thôi, nhưng đời ác, làm cho luật đời ác theo. Chứ đời bao giờ chẳng là đời”. Tôi nói: “Mỗi đời mỗi khác. Mày đi họp khu phố luôn, nghe cán bộ nói, mà không thông à? Đời không phải để giải sầu. Đời ngày trước là ăn thịt nhau, cắn xé nhau, để tranh nhau miếng sống. Bây giờ, đời là sống, để lao động, và phục vụ”. Nó nói: “Và để giải sầu. Nhất định phải có mục ấy nữa. Trong cuộc sống, có sầu. Trong lao động, cũng có sầu của nó”. Tôi nói: “Có cả cứt nữa, chứ riêng gì sầu. Có ỉa, đái, đau ốm, đểu giả, đủ thứ. Không nêu hết được. Đã triết lí, là phải triết bỏ đi, tất cả bọn lặt vặt, râu ria vô ích. Phải chắt lấy cái í chính”. Tôi cãi hăng, tôi nhớ từ hồi đi học, tôi với nó cũng đã cãi hăng, nhiều vụ. Nhưng cãi nhau với nó, thú hơn ngồi với Tình Bốp. Vì thằng Đoành coi mọi chuyện đều tầm phào, còn với thằng Tình Bốp, chuyện gì cũng quan trọng. Tối nay cũng vậy, thằng Đoành nói: “Tao không triết lí. Triết lí làm quái gì. Đời chỉ có một mẩu, dù trăm niên vẫn ngắn. Tao đến với đời, không phải để bóp sọ, mà triết lí. Chẳng cần phải triết bỏ cái gì cả. Giản dị thấy sao tao nói vậy. Tao cù nhầy. Tao nói dối. Tao giải sầu. Tao sống. Cứ cho là tao triết lí râu ria, cũng được. Còn mày, mày lấy cái lí chính ở đời ra, cho tao xem nào. Để xem nó tròn méo thế nào”. Tôi nói: “Mày cơm no bò cỡi, hát xướng phởn phơ. Mày được công an, khu phố giúp đỡ tìm việc cho. Thì mày nghĩ là sầu. Còn tao trăm thứ lo, tao không có sầu, chỉ có lo không”. Nó nói: “Lâu lắm, ta không gặp nhau, nên không rõ bản đồ trong bụng mày”. Tôi nói: “Tao, việc làm không có, là một. Khu phố và công an nghi, là hai. Tao tự trừng phạt tao, là ba”. Nó nói: “Tự trừng phạt, là làm sao?” Tôi kể lại, cho nó nghe cuốn trinh thám Nga. Nó nói: “Thế là tự kỉ ám thị, là bệnh cuồng bách hại, bệnh nhìn đâu cũng thấy ma”. Rồi hỏi thêm: “Thế mày đã tìm ra kế gì chưa?” Tôi nói: “Tao đi tu. Tu tại gia, là thượng sách”. Tôi giải thích thêm cho nó, là tôi sẽ đi họp và tích cực tham gia lao động khu phố. Thằng Đoành không phản đối. Nó nói: “Ừ, phải tỏ vẻ tử tế, từ đầu đến chân. Tay chân mày khi đi lại, đừng có khuỳnh khuỳnh. Mắt mày nhìn, cái kiểu văng vào mặt người ta, là ngổ ngáo. Vai cứ nhún nhún, ông Trung trố ghét lắm. Ông ấy thành kiến với cái mặt mày. Đấy là tao góp í, về cái bản đồ bên ngoài của mày. Còn cái bản đồ bên trong, đừng có chơi ảnh nghệ thuật nữa. Ai lại cứ đè em Cốm ra, mà chụp nghệ thuật. Ở đây chả ai cần nghệ thuật của mày. À, mày thôi rồi hả? Còn cái mục uống rượu, nói láo với Tình Bốp, mày nên tạnh ngay. Đi họp, phải ngồi chỗ sáng đèn, phải phát biểu một tị. Còn cái lối ngậm thuốc lá của mày, trông thì ngổ và đẹp, nhưng khu phố không ưa”. Tôi nói: “Tiên sư mày. Góp í thế, bố tao cũng xin vái. Còn sống thế nào được nữa”. Nó nói: “Ừ, cũng hơi nhiều thật. Nhưng người nói vô tội, người nghe lấy đó làm răn”. Tôi nói: “Vậy thì người nói, tha hồ ỉa bậy à?” Nó nói: “Mày lại phản ứng mạnh rồi. Mày cứ nghe cho hết. Mày có tài triết bỏ, thì mày lược bớt cái râu ria đi, chỉ lấy cái lí chính thôi. Có vậy mới chóng lên sư cụ”. Tôi nói: “Mày tự triết lọc lấy, vì mày là người nói. Nếu không, tao đấm cho một đấm”. Nó nói: “Sợợ chóa. Sợợ chóóa. Thôi bây giờ thế này. Bản đồ bên ngoài kệ mày. Còn bản đồ bên trong, tao góp í thế này. Một, nên chú í, trong sự be bét rượu chè với Tình Bốp. Vì Tình Bốp nó hay làm căng thẳng, mà tính mày lại dễ căng thẳng. Hai, nên tăng tin bớt ngờ. Mày có bảo, tao bị công an mua chuộc, cũng được. Mua chuộc tao, để làm gì. Hơn trăm thằng ngụy ở mạn này, bây giờ thằng xiclô, thằng thợ hàn thợ gò, thằng thợ giặt, thằng thợ hát như tao, thằng nấu phở như thằng Ngỡi, thằng công nhân nhà nước như thằng Chắt, thằng đánh máy, thằng cơ quan. Thằng nào muốn làm ăn tử tế, đều được cộng sản giúp đỡ. Vì cộng sản quí nhất lao động. Thằng nào phản động, như thằng Hoóng, mới bị trừng trị. Mày nên nghĩ giản dị như thế”.

⚝ ⚝ ⚝

Ngày số 4. Tôi dậy lúc 4 giờ sáng. Cửa sổ vẫn đầy mưa bụi. Đèn vẫn để suốt đêm. Cốc tách bừa bộn. Thằng Đoành ngủ lăn trên sàn, ngáy ầm ầm. Tôi dọn lại bàn ghế, chai cốc, rồi khênh thằng Đoành lên giường. Tôi rũ chăn, đắp cho nó. Nó mở mắt, trắng dã nhìn tôi, rồi lại nhắm mắt. Rớt dãi chảy quanh mép. Tôi tắt đèn, rồi lẳng lặng đi ra.

Ngoài phố mưa bụi. Tàu điện lanh canh, chuyến sớm nhất. Mặt trời còn chưa mọc. Phố còn tôi. Lác đác vài người, đi làm sớm. Trời se lạnh. Cuộc nói chuyện đêm qua làm tôi thấy khoan khoái. Thằng Đoành đúng là thằng vui nhộn. Tôi phục nhất, là nó đóng kịch, và nói dối giỏi. Nó dối trá, nhưng vô hại. Có nó, bản đồ đời cũng vui hơn. Tuy vậy, tôi hơi lạ, tại sao công an cho nó hát, ở rạp xinê. Ắt nó phải có công gì với công an chứ. Tôi nghĩ không ra, nên chẹẹc lưỡi kệ nó. Tôi nghĩ, nó không phải loại người hại bạn. Nó không ưa Tình Bốp. Nó biết cái gì đó, nhưng không nói ra. Tôi nghĩ vơ vẩn như thế, được một lúc, thì đến ngã tư mưa bụi. Tôi rẽ vào ngõ. Người đi làm, mỗi lúc một đông thêm. Họ đi, ngược về phía tôi. Phố xóm vẫn còn tối.

⚝ ⚝ ⚝

Tôi về nhà, thấy Cốm đi rồi. Nhưng không phải đi làm. Quần áo, Cốm mang đi. Gói tư trang, Cốm mang đi. Nhà lạnh, như nhà mồ. Lạnh tự dưng. Có lẽ, Cốm về Mọc, quê mẹ. Có lẽ, Cốm lên chỗ mẹ tôi. Sọ tôi cũng lạnh. Đồng hồ dạ quang trên tay, chỉ 4 giờ 30. Điện buồng tôi đèn bật, trắng nhợt. Còn chưa biết làm gì, thì có tiếng chân người, ngoài sân. Tôi chạy ra, gặp thằng Chắt. Nó dắt chiếc xe đạp, lọc cọc. Nó nói: “Tao phải đi làm ngay. Tao có việc, phải hỏi mày. Tao đi qua, thấy đèn sáng, nên tao vào. Tao sốt ruột lắm. Có phải mày nói, mày chơi trò kép, trò đúp không?” Tôi nói: “Có… Nhưng không hẳn thế. Tao nói lúc uống say với Tình Bốp… Cũng lâu rồi”. Chắt nói: “Mày bị vạ mồm. Không hiểu sao, chuyện đến tai ông Trung trố. 10 giờ đêm qua, tao biết tin này. Tao chạy sang mày ngay, mà cửa đóng, đèn tắt”. Tôi nói: “Ông Trung trố bảo thế nào?” Chắt nói: “Ông ấy nói, giữa cuộc họp khu phố, là lại có những hiện tượng và luận điệu phản động. Là bọn có tội, theo đế quốc rành rành, đã được chính phủ khoan hồng, lại còn phản tuyên truyền, rằng chính phủ chỉ khoan hồng cái lỗ miệng. Ông ấy nói, bọn này đang giở trò kép, trò đúp, với cộng sản. Bề ngoài chúng sẽ giả vờ, vâng vâng, sẽ giả vờ đi họp khu phố, đi lao động chủ nhật, nhưng bên trong chúng rình cơ hội, phá hoại. Tao lo cho mày lắm. Sao mày vạ mồm thế. Thôi tao đi ngay. Tối tao sang mày. Nhé”. Tôi nói: “Nhưng sao mày biết, là tao nói? Ông Trung trố có gọi đích danh tao không?” Nó nói: “Tao không đi họp. Vợ tao đi họp. Lúc tan, ông Trung trố gọi vợ tao ra bảo, về nhớ mà khuyên chồng, đừng có theo cái trò kép, của thằng Dưỡng tàu bò, mà đi tù sớm. Vợ tao về run rẩy, mặt tái mét. Thôi, tao đi ngay đây”. Nó đi, còn tôi một mình. Tôi ngồi trắng nhợt, tôi nhìn, xa xa cái bóng tôi trong gương, cũng trắng nhợt.

Tôi nằm, toàn thân trắng nhợt, trên chiếc chăn trắng. Những lỗ thủng bầu trời ngoài cửa sổ trắng, thêm cơn mưa trắng, không dứt từ chiều qua, bên trong tôi cũng trắng, vì tôi chẳng nghĩ được cái gì, chẳng muốn làm gì. 7 giờ sáng, thằng Ngỡi thò mũi vào nhà, hít hít. Sọ tôi gọi tôi: “Này”. Tôi liền ngồi dậy: thằng Ngỡi bỏ mặc nồi phở đang đông khách, để đến tìm tôi vào giờ này, là không bình thường. Tôi gọi: “Ngỡi. Vào đây”. Ngỡi nói: “Đàn anh định sai phái gì đàn em?” Tôi rút ra năm vạn. Tôi nói: “Đi mua tí gì về. Hai thằng cùng đớp”. Ngỡi nói: “Có ai nữa không? Đàn em mua vịt nhé”. Tôi nói: “Không. Vịt làm lâu bỏ mẹ. Mua tí cẩu. Mua cái gì về ăn ngay được. Rượu có sẵn rồi. Có tao với mày, hai thằng đớp-kép, với nhau thôi”. Tôi cố tình dùng chữ đớp-kép. Ngỡi chớp chớp mắt. Hai mắt, như hai cái mụn. Chắc là nó chột dạ, tôi đoán vậy. Nó cầm tiền, rồi ba chân bốn cẳng, đi luôn. Trông nó lèm nhèm, như con chuột già. Cả ba thằng Đoành, Chắt và Tình Bốp, đều đồng í gọi nó, là thằng-lèo-liếm. Nó vừa lèo nhèo, lèo lá, vừa lộn lèo, vừa la liếm. Danh từ đầu tiên, là do Tình Bốp đặt. Thằng Đoành nói lái lại, thành thằng-liềm-léo. Về sau, cả phố gọi nó hoặc thằng-liềm, hoặc thằng-lèo, cho lịch sự. Trong nhóm năm người, nó nhiều tuổi nhất, cho nên toàn xưng ông, với bốn chúng tôi. Nhưng từ một tháng trước tiếp quản, nó bắt đầu xưng em, với toàn bộ thành phố, trừ với vợ và con. Làm anh một thằng già hơn 12 tuổi, tôi cũng thích như vậy.

⚝ ⚝ ⚝

Thế là, hai thằng một mâm, thuần chó. Theo lệ thường, tôi gói riêng, cho nó môt gói, để nó lát nữa đem về. Tôi còn sẻ một cút rượu quê, cũng để nó đem về. Tôi còn cho thêm, một ống bơ lạc sống, để nó rang cho lũ con ở nhà. Thằng Ngỡi sung sướng, luôn mồm xuýt xoa, khen tôi phúc đức. Tôi rót rượu và gắp cho nó, những miếng béo nhất. Nó nói: “Đàn anh muốn hỏi đàn em, chuyện gì vậy?” Tôi nói: “Chẳng muốn gì cả. Có gì hay hay, thì kể nhau nghe thôi”. Nó cười hé hé. Tôi rót chầu rượu thứ hai. Trước khi nó đi chợ về, tôi đã đóng cửa sổ lại, bật điện giữa ban ngày, để tăng phần ấm cúng. Nhất là vào buổi sáng mưa thu, se lạnh như thế này. Không gian kín, nhuộm vàng trong ánh đèn, quả có làm cho rượu ngon hơn thật. Thằng Ngỡi nói: “Rắc rối lắm đàn anh ạ. Em vốn tính nhút nhát, sợ hãi. Là vì cái phận em hèn. Là vì em là thằng lính đám ma. Không sắm đâu được cái tính ngang tàng, như đàn anh. Các anh khinh em là thằng-liềm-léo, em cũng nhận, là em kém tư cách thật. Nhưng tư cách là cái gì. Em năm nay 35 tuổi, ăn cơm nhà thiên hạ, đã thanh sạn trong bụng, sống đã lâu, mà chưa cần dùng đến món tư cách bao giờ. Ví dụ: anh cho em chén, thì em chén. Chứ tư cách gì, ở cái chỗ này. Anh cho em gói mang về, thì em mang về. Em cứ hồn nhiên thế thôi. Hồn nhiên lợi nhuận hơn tư cách, thì tư cách để làm gì. Phải không anh?” Nó lại cười hé hé. Tôi nói: “Chẳng qua, tại các bà mụ, khi nặn ra cậu, quên nặn cái tư cách”. Nó mủm mỉm cười, làm hai con mắt nhỏ lại, như hai cái mụn chảy mủ. Nó nói: “Hoan nghênh các bà mụ. Giá các bà có nặn, em cũng bán quách đi từ lâu rồi. Thôi để em kể, đầu đuôi thế này. Thoạt đầu, bác Mẫn giúp em ra phở gánh, để em nuôi các cháu. Bác Mẫn khuyên em làm ăn tử tế, và, thực thà hối cải. Em mới hỏi, thế nào là thực thà hối cải. Bác Mẫn nói, là làm ăn tử tế. Em lại hỏi, thế nào là làm ăn tử tế. Bác Mẫn nói, là chấp hành chính sách, của chính phủ. Bác Mẫn cũng nói, là còn có thể làm được nhiều việc, tích cực hơn nữa. Em cứ suy nghĩ mãi, không hiểu việc tích cực, là việc gì. Hàng phở của em tương đối đắt khách. Em cũng chăm đi họp khu phố, và dịu dàng, khiêm tốn, với cả xóm. Riêng với con vợ em, khi nào cần đánh nó, em đóng chặt cửa, nhét giẻ vào mồm. Cho nên cả xóm, chả ai biết”. Tôi nói: “Có gì mà không hiểu, việc tích cực. Là đi dò la, nghe chuyện, rồi về báo cáo công an, chứ gì”. Nó nói: “Anh đoán đúng đấy. Em sau đó cũng hiểu ra. Ấy là khu phố tin cậy em, nhưng không nói thẳng, chỉ gợi í để em tự hiểu. Từ đấy, em để í mọi chuyện xung quanh. Khách vào ăn phở, em mà để con dao ngang thớt, là vợ em biết í, đi báo ngay bảo vệ. Em mà liếc lưỡi dao trôn bát, vợ con em phải đi theo kẻ tình nghi. Vì có khi bảo vệ chưa đến, kẻ tình nghi đã bỏ đi. Em đã phát hiện được vài đám. Bác Mẫn khen ngầm em vài lần rồi. Khi nào nhà bác có giỗ tết, đều gọi em, đến làm giúp. Tha hồ ăn uống no say, lại được gói đem về. Thích lắm. Cho đến một hôm, đàn em báo cáo với bác Mẫn, về tất cả các đàn anh, không trừ một ai”. Tôi nói: “Tự cậu, hay bác Mẫn gợi í?” Nó nói: Tự nguyện, mới hay chứ. Tự nguyện nói ra, mới có giá trị. Là em muốn lập công thôi, chứ không muốn hại gì các anh cả. Anh cũng bảo, tại các bà mụ quên nặn cho em cái liêm sỉ. Cho nên em vô liêm sỉ”. Nó cười hé hé. Tôi cũng cười khè, vì tôi biết có mắng nó, cũng bằng không. Có chửi nó, nó vẫn ăn uống, hồn nhiên. Tôi đợi nó nói tiếp. Nó nói: “Khu phố không cho em đánh chén, như bọn đàn anh, nhưng không cho, mà lại là cho. Hàng phở của em, dọn ở chỗ ấy đắc địa, nhiều người muốn lắm. Khu phố không cho, thì cả nhà em tám nhân khẩu, đi ăn mày cả lũ. Em nhớ cái ơn ấy. Em cũng nhớ, cái ơn đàn anh cho em đánh chén. Nhưng mà em vẫn hãi khu phố nhất. Hãi anh Tình Bốp là thứ hai, đàn anh là thứ ba. Hai anh Chắt và Đoành là thứ bét”. Tôi nói: “Cứ i như trong thánh kinh vậy”. Nó nói: “Vâng. Cho nên khi báo cáo, em đảo ngược lung tung cả. Em không ác í gì đâu, chỉ là cái tính em, nó hồn nhiên như thế. Cho nên em đổi trắng thay đen. Đàn anh Chắt, em không hãi nó, em báo cáo về nó xấu nhất. Em báo cáo, là anh Chắt dao động tư tưởng, muốn bỏ việc ra ngoài làm. Vả lại anh Chắt em biết, nhiều lần mua vịt về, đánh chén một mình, không mời ai cả. Anh Tình Bốp thì được em báo cáo tốt nhất. Anh Bốp tính tình lịch sự, lại thông minh, tuy có liên quan đến Macxen và Lily, nhưng vẫn thành thật quay về với tổ quốc”. Không thấy nó nói về tôi. Tôi phải mở tủ, lấy gói trà Đồng Hương. Nó nhìn theo tôi, không bỏ sót một động tác nào. Tôi nói: “Chắc cậu không có trà ngon. Đem về mà dùng”. Nó nói: “Phúc đức quá”. Rồi nó kể, một mạch. Nó kể: “Em báo cáo về đàn anh hôm ấy, không được hay lắm. Thực tình, em rất quí đàn anh. Nhưng tại cái mồm em nó thế, em muốn một đằng, nó lại nói một nẻo. Em báo cáo, là đàn anh ngổ ngáo, bên ngoài tỉnh khô nhưng bên trong dâm ô, không ai bì kịp. Đàn anh mê gái, hơn mê tổ quốc. Em cũng báo cáo, là con Lily gài anh ở lại, để làm cho nó”. Tôi cáu quá. Tôi gắt: “Sao cậu khốn nạn thế?” Nó nói: “Khoan. Đàn anh phải bình tĩnh, tin tưởng, tin tưởng là chính phủ sáng suốt. Chính phủ nhất cử, nhất động, đều phải cân nhắc, kĩ càng. Em có báo cáo láo, chính phủ cũng sửa lại, cho đúng. Bác Mẫn cũng bảo, là có nhiều chỗ em nói, bị ngược nhau, nên bác phải kiểm tra lại. Bác Mẫn bảo, có lời nói nên ân nên phúc, có lời nói tan cửa nát nhà, có lời nói cứu người, có lời nói lại hại người. Lúc nghe bác nói, quả là em cũng xấu hổ, một chút”. Tôi nói: “Cậu mà còn biết xấu hổ, hay nhỉ”. Nó nói: “Lần đầu đấy. Em bị kém ăn, kém ngủ, mất mấy hôm. Em sau đó tự nhủ, từ nay chỉ nói sự thật. Các anh mà biết, em báo cáo láo, em mất hết tình bạn, mất cả chỗ đi lại, đánh chén. Nói vậy thôi, em cũng biết là có lúc, các đàn anh lại cần đến em đấy, vì việc này việc nọ, ai mà lường trước được. Em là con chuột nhắt, xoàng xĩnh vậy thôi, nhưng con chuột nhắt, cứ nhí nha nhí nhách, có ngày lại cắn đứt lưới, cứu con hùm thoát lưới. Đời người, ai nắm tay đến sáng, mà nói trước được. Thời thế cả thôi. Kiếm ăn khổ lắm. Có lần cuối tỉnh gọi em, đến làm cơm. Trời mưa ngập khắp nơi, em không có áo mưa, nên chỉ mặc độc chiếc quần đùi, mà lội trong nước, từ đầu tỉnh, đến cuối tỉnh. Đến nơi, mặt mày trắng nhợt, như người chết trôi. Nhà chủ khen em, biết giữ chữ tín. Nhưng đâu phải vì chữ tín, vì miếng ăn cả thôi. Sáu đứa con, vợ iếu là bảy, em nữa là tám cái mồm, mà chỉ có em là trụ cột. Cho nên em phải bồi dưỡng sức khỏe, không ăn được vẫn phải nhắm mắt, mà nuốt. Nghĩ đến con trẻ, mà em rớt nước mắt: cá chuối đắm đuối vì con”. Nói xong, nó sụt sịt khóc. Không hiểu khóc, cho sự hi sinh to lớn của nó, hay vì uống nhiều, mà say. I như trong thánh kinh: căn buồng trở nên trắng nhợt. Tôi để mặc thằng Ngỡi ngồi khóc, tôi ra mở cửa sổ. Bụi mưa rắc vào trong buồng, cùng khí lạnh, của sáng mùa thu. Tôi tắt đèn, cho khỏi phí điện. Tôi nghĩ một lúc, xem có còn gì cho thằng Ngỡi không. Tôi tìm được trong tủ một gói đường, còn kha khá, tôi đưa cả cho nó. Tôi nói: “Đem về cho bọn trẻ”. Nó nói: “Hôm nay, anh phúc đức quá”.

Tôi hỏi: “Gặp Tình Bốp lần cuối, là bao giờ?” Nó nói: “Gặp thường xuyên. Chiều qua anh Bốp cho em một bữa cháo ám, giữa nồi cháo, là con cá quả hai cân, ngon không tả được. Em, để chiều lòng anh Bốp, bèn nghĩ ra trò nói xấu các anh, chứ em chẳng ác í gì”.

Tôi hỏi: “Tình Bốp nói gì?” Nó nói: “Anh Bốp kêu buồn, vì không thấy anh đến uống rượu. Em bảo dạo nay, đàn anh có vẻ sợ, nên nằm nhà với vợ, ít giao du. Anh Bốp cười khẩy. Anh Bốp nói, đàn anh nóng tính lắm, muốn góp í cũng khó”.

Tôi hỏi: “Tình Bốp kể gì nữa?” Nó không trả lời. Tôi hỏi: “Tình Bốp có nói gì, về trò kép, trò đúp không?” Nó trả lời: “Không”. Tôi hỏi: “Vậy thì ai nói, mà cậu biết?” Nó trả lời: “Biết gì?” Rồi nói thêm: “Vậy là đàn anh đã nói thế, thật à? Cái trò kép, trò đúp ấy? Em có nghe ông Trung trố, trong cuộc họp. Thế thôi. Em không biết gì cả”. Rồi nó hỏi, thêm lần nữa: “Vậy đúng là đàn anh đã nói thế, thật à? Đàn anh nói đi”. Tôi hỏi: “Nói gì?” Nó trả lời: “Đàn anh nói, là đàn anh sẽ chơi, trò kép, trò đúp, với công an. Đàn anh sẽ chăm chỉ, đi họp khu phố, sẽ tích cực, tham gia lao động chủ nhật. Nhưng bên trong, đàn anh sẽ chờ thời cơ, đánh lại. Có đúng là kế, của đàn anh không?”

Tôi im. Lúc ấy, chắc tôi nhìn trắng nhợt. Mãi sau, tôi mới nói, được vài câu. Tôi nói: “Đớp nốt đi. Không thì gói đem về. Đêm qua, tranh luận với thằng Đoành, giờ nghe chuyện mày, càng mệt. Tao đi ngủ đây”. Nó nói: “Đàn anh cứ việc đi ngủ. Mâm bát để em dọn dẹp, chu tất. Nhưng mà em còn bán tín, bán nghi. Bởi vì, lời ông Trung trố, cứ làm sao ấy. Em có nhận xét, với ông Trung trố như vậy, sau cuộc họp. Ông ấy phê luôn em ngây thơ về chính trị. Sao đàn anh không nói gì? Nói đi, để em gặp bác Mẫn, em thanh minh cho”. Tôi nói: “Lâu rồi. Tao có nói, lâu rồi. Sau hôm Lily đi, tao có uống say, với Tình Bốp. Tao say lắm, tao có nói thế thật. Nhưng tinh thần thì khác. Có vậy thôi”. Tôi không biết kể, thế nào hơn, vì rất khó. Nó nói: “Thôi, đàn anh đi ngủ. Để em nói nốt cái này. Đàn anh cứ iên trí. Em có suy xét của em. Bây giờ em đớp nốt, rồi rửa bát đĩa, dọn dẹp, chu tất nhà cửa. Rồi em về. Em sẽ khép cửa ngõ cẩn thận. Nội nhật hôm nay, em sẽ đi gặp bác Mẫn, để báo cáo tỉ mỉ. Rồi em sẽ sang anh Tình Bốp, làm bữa chén nữa, cho xong một ngày. Có gì, anh em mình lại gặp nhau… như sáng nay, đàn anh nhé”. Tôi nói: “Không thành vấn đề”, tôi rũ chiếc chăn đơn, trùm kín đầu. Tôi chưa tìm được sự thật.

Loáng thoáng có tiếng gọi, ngoài cổng. Tôi choàng dậy. Còn váng vất mùi tửu hậu, mùi nhà vắng, mùi mưa bụi, mùi câu chuyện khó chịu, mùi em Cốm bỏ nhà. Là năm mùi, làm thum thủm, cả buổi sáng. Tôi còn đang bàng hoàng, thì con bé nhà ông Trung trố, tên là Cậy, thò đầu qua cửa sổ, phía sân gạch. Tôi nói: “Vào đây. Có việc gì vậy?” Con Cậy không vào, mà đưa qua cửa sổ, một mẩu giấy. Nó nói: “Thầy em bảo anh, lên ngay trụ sở, có việc”. Tôi chưa kịp đọc mẩu giấy, con bé đã ù té chạy mất. Chắc bố nó đã tuyên truyền xấu về tôi, cho nên nó sợ, nó chạy. Mẩu giấy bằng bàn tay, một nửa chữ in to, một nửa là chữ kí, của ông Trung trố. Mẩu giấy nói: NHẬN ĐƯỢC GIẤY NÀY, NGUYỄN DƯỠNG TỨC DƯỠNG TÀU BÒ KHÔNG TRÙNG TRÌNH KHÔNG LÍ DO GÌ CÓ GIÁ TRỊ, CẤP TỐC LÊN NGAY TRỤ SỞ CHẬM NHẤT 15 PHÚT SAU KHI NHẬN ĐƯỢC GIẤY, NẾU KHÔNG MỌI HẬU QUẢ KHÔNG LƯỜNG TRƯỚC ĐƯỢC, SẼ PHẢI CHỊU, TRỊNH QUỐC TRUNG. Tôi vội mặc quần áo. Tôi chọn chiếc sơmi, không chim cò. Tôi đi giày da mùa đông. Xong, tôi khóa cửa, vào lúc 10 giờ 5 phút. Ra ngoài sân, tôi thấy mưa bụi. Ra cổng, tôi thấy mưa bụi. Ra đến ngõ, tôi thấy mưa bụi. Mưa bụi cũng đủ, làm ướt tóc và làm nước chảy nhiều dòng trên mặt. Tôi đi qua bến xe điện, thấy mưa bụi. Tôi nghĩ mà không biết cái gì đang chờ tôi, trên trụ sở. Tôi đi trong phố, thấy mưa bụi. Tôi nghĩ, mà không nghĩ cái gì. Tôi ngang qua phố, thấy mưa bụi. Tôi nhìn hai dãy phố, thấy hai dãy phố mưa bụi và cột đèn tiếp nối cột đèn. Tôi đi trong lòng phố. Trong lòng phố có mưa bụi. Trụ sở đã lù lù trước mặt.

⚝ ⚝ ⚝

Phố không có trụ sở. Chỉ là ngôi chùa cũ, trở thành nơi họp khu phố. Từ hồi tiếp quản, chùa mang tên mới, là trụ sở. Tôi đến trụ sở, lúc 10 giờ 17 phút. Mặt trước trụ sở cửa đóng, có hai ông hộ pháp đứng, trợn mắt nhìn tôi, lưng dính vào tường. Tôi đi vòng ra sau trụ sở, gặp một bác, đang quét thềm. Bác thấy tôi, thì nháy mắt, tỏ vẻ rất thông cảm. Hóa ra tôi có quen bác, từ lâu rồi. Thực ra, cả khu phố, ai cũng biết bác, cũng từ lâu rồi. Tôi nhớ tên bác, là Khấu đen, năm nay 60 tuổi, nhưng có lẽ hơn, có lẽ kém. Bác có tài dắt trâu, mà không gây một tiếng động nhỏ, ngay cả trong buổi đêm im lặng. Tôi nhớ dạo ấy, nhiều nhà buổi sáng dậy, thấy trâu đi mất, chỉ còn lại một con đường êm ái, được trải đầy rơm, từ chuồng trâu ra tận cổng. Thảo nào trâu bỏ nhà đi, mà không một tiếng động. Sau đó, trâu đi vào lò mổ Batoa, biến thành đủ các món thịt lậu. Có trời mà tìm được thủ phạm. Nhưng những người khôn ngoan, cứ tìm bác Khấu đen, nói khéo với bác, biếu bác tiền, để nhờ bác đi chuộc hộ, thế nào trâu cũng sẽ quay về, nguyên vẹn. Bác tìm trâu rất giỏi, bao giờ cũng tìm được, và các cuộc chuộc tiền bao giờ cũng sòng phẳng và kín đáo. Bác được uy tín lắm, cho nên chẳng ai đi báo công an, vì biết rằng nếu đi báo, trâu sẽ vĩnh viễn không về nhà nữa. Mỗi ngày lò Batoa thịt vài trăm con, một vài con trâu lậu có lẫn vào, cũng chẳng ai phân biệt được. Sau đó, nhà ai bị mất trộm gì, mâm thau, nồi đồng, tư trang, đều đến nhờ bác đi chuộc hộ. Bác khét tiếng nhân đức, i như trong thánh kinh. Từ ngày tiếp quản, chùa bị bỏ không, bác xin khu phố, cho làm chân quét chùa, sau này đổi thành chân quét trụ sở. Bác nói: “Chế độ trước bảo, có tay ăn, tay chơi. Chế độ này bảo, tay lam, tay làm. Nghĩa là, cả hai tay đều làm. Hai tay không làm, thì hàm không nhai. Thế thôi, chứ không phải vì tôi già. Tôi chuyển mình, cho hợp thời”. Buổi sáng nay, lúc tôi vào trụ sở, từ cổng sau, bác đang quét thềm. Bác nháy mắt với tôi. Tôi nháy mắt lại với bác, để nói: tôi với bác cùng cánh nhau, tôi đang bị đây, còn bác vẫn an toàn, nguyên vẹn. Tuy nhiên, tôi chưa ăn cắp bao giờ. Ăn cướp thì có, vì tôi là lính tàu bò. Cả tôi cả bác, đều có quá khứ, bất hảo. Từ trong trụ sở, ông Trung trố nhìn tôi. Cặp mắt ốc nhồi tóe lửa. Tôi vào.