Sáng thứ hai
Thế là tôi thành thằng phụ lái. Tacxi ông Phúc chạy Hà Nội-Nam Định, ngày ba chuyến. Có hôm nhỡ, 1 giờ đêm, tôi mới về nhà. Sáng, tôi đi từ 4 giờ 30, lúc phố còn nhọ. Bản đồ nội thành lúc 4 giờ 30, lác đác người đi làm sớm. Tôi có chìa khóa gara riêng. Tôi đến sớm, để chuẩn bị xe. Tôi xem lốp có bơm đúng cân hơi, bình étxăng có đầy étxăng, bình nước có đầy nước, hay không. Xe ra bến, tôi bán vé. Khách lên đủ, tôi quay maniven. Xe chạy. Ở bến, không cần phải tranh nhau khách. Dọc đường, tôi lấy nước, báo hiệu khách lên xuống. Thuần những việc lắt nhắt. Ông Phúc dễ chịu. Ông khao tôi một chầu thịt chó. Ông vui tính, văng tục tán láo và hỏi tôi đủ chuyện. Lúc rỗi, ông dạy tôi lái xe. Tôi học rất nhanh. Sau mọt tuần, ông đã để tôi ra xe và đánh xe, từ bến về gara. Cứ đà này, đến mùa xuân tôi sẽ thi lái lấy bằng. Cốm khoái lắm. Gặp ai cũng khoe, có chồng lái tacxi Phi Mã. Tôi cũng cảm thấy oách, ít ra cũng hơn đi câu nhái. Tôi không mơ tương lai mua trả góp chiếc tacxi của ông Phúc, vì ông Phúc phải bán đi, để trốn thành phần, tôi chẳng dại đâm đầu vào. Tôi chỉ mơ, có cái nghề tài xế. Bây giờ tôi đã nghe được, lúc nào môtơ ho, lúc nào étxăng xuống đều, lúc náo étxăng tắc.
Tôi cũng thích bộ quần áo xanh công nhân, cái mũ catket xanh công nhân. Trước khi ra khỏi nhà buổi sáng lúc rạng đông, tôi đều ra trước gương, để nhìn bóng tôi trong gương. Bốn mắt nhìn nhau dứt không ra. Sáng nay cũng vậy. Tôi ngắm cái mặt tôi ngổ ngáo hồi lâu. Cốm từ bếp lên, thấy vậy nói: “Chẹẹp. Chẹẹp rồi. Ngắm mãi”. Tôi thẹn, cho nên tôi phải xông đến, ôm eo Cốm, để chữa thẹn. Cốm cuống lên, nhưng tôi mà chữa thẹn, thì Cốm chỉ có thua. Cốm giãy đạp. Tay đấm đấm vai tôi, mặc gà gáy te te, mặc nồi cơm đang sôi trên bếp, i như trong thánh kinh. Cốm mắng tôi tàu bò cao bồi, biệt kích dằn di, bảo hoàng nhảy dù, đủ loại binh chủng trứ danh. Lát sau, mặc lại quần áo. Lát sau, tôi đã huýt sáo khẽ, ngoài phố.
Tôi đi làm trong phố sớm. Phố còn nhọ. Xe điện chạy lanh canh chuyến sớm nhất. Đèn đường chưa tắt. Đèn thức trắng qua đêm. Lác đác người đi làm sớm. Lác đác xe đạp bộ hành, là bộ hành thu, là xe đạp thu, là lác đác thu. Tôi nghe tiếng người, chào nhau trong phố. Tôi chào những người quen đi qua tôi, những người không quen đi qua tôi. Tôi nghe tiếng người, hỏi nhau bây giờ làm gì. Tôi nghe tiếng người, trả lời bây giờ làm gì. Thế là tôi biết, những người không quen trên phố, họ làm gì mà đi sớm thế này. Họ là thợ rèn cầu Gia Lâm, công nhân Giáp Bát hộ lí Phủ Doãn, lao công thủy lợi Tương Mai, công nhân nhà máy rượu Hà Nội, thợ đèn lên Phụ, xúc than cống Vọng, lắp chữ nhà in Nhân Dân, bốc vác Phà Đen, i tá Bạch Mai, phu hồ Kim Liên, cơ khí Trần Hưng Đạo, đào đất đắp nền Việt Xô. Họ làm nghề bẻ ghi, nghề xe bò, nghề xiclô, nghề làm xôi lúa, nghề làm bánh mì, nghề súc chai lọ, nghề dược phẩm, nghề làm sơn mài, nghề phu hồ, nghề làm mĩ nghệ. Họ là những người mới chuyển nghề, từ xẻ-gỗ-bờ-sông, sang công-nhân-nung-gạch, từ thợ-lợp-mái-nhà, sang lái-xe-chuyên-gia, từ gác-cổng-bệnh-viện, sang lao-công-khách-sạn, từ ngụy-quân, sang người-lao-động. Khu phố tôi lắm ngụy quân cũ, nên bây giờ đông người lao động mới. Buổi sáng còn nhá nhem, buổi sáng gà gáy khắp thành phố. Buổi sáng người này gặp người nọ, anh nọ gặp chị kia, không ai hỏi ai đi-chơi-đâu-sớm, đi-ăn-đâu-sớm, chỉ thấy hỏi nhau dạo-này-làm-gì, dạo-này-thế-nào, đi-làm-đâu-sớm. Tôi đi bộ trong phố, qua những lò than hồng, những hàng phở chuẩn bị bán phở, những thùng nước đang sôi, những bu gà bu vịt, nằm chờ trên các vỉa hè. Tôi đi qua bến xe, nhà ga tu tu tàu sớm. Tôi đi cùng công nhân viên đường sắt sớm và bộ hành sớm. Tôi đi ngược những xe đạp nữ, những xe đạp nam những tiếng động nội ngoại thành. Mặt trời chưa mọc tôi đi xuôi cùng những xe đạp nam, những xe đạp nữ và những tiêng động nội ngoại thành. Bên cạnh tôi, là người đi làm sớm, là người dân bình thường, là cán bộ, công nhân viên, là viên chức. Bên cạnh tôi, là âm thanh buổi sớm của thả cá và trồng vườn, của băm bèo và hái rau, của còi tàu đến và tàu đi, của kèn doanh trại và đài phát thanh. Thế là tôi cũng đi làm buổi sáng thứ hai, tôi là anh phụ xe, tôi cho xe ra bến, tôi lẫn vào trong bản đồ rạng sáng nội thành. Tôi cũng đi làm.
Tháng một 1966. Tôi ngồi một ngày không rõ có phải chủ nhật. Nếu đúng chủ nhật, cửa sổ tôi thế nào cũng tím, và bên cửa sổ sẽ có nhật kí và bản sao nhật kí, sẽ có lọ mực tím và bản thảo lem nhem mực tím. Một ngày đầu năm, tôi ra thư viện quốc gia, để tiếp tục tìm kiếm, những hình ảnh, về thời gian. Thế là tôi được một đường tuyến tính mới, lần này là một mũi tên hai đầu, chạy về cá hai phía, một ở bên trái, một ở bên phải. Thế là tôi có thể tự do đi lại, từ hồi ức đến dự cảm, từ ngày mai thẳng đến hôm qua, không có hôm nay đứng chắn ở giữa. Thời gian như vậy không có hiện tại, cuộc đời như vậy không có bây giờ. Tôi cảm giác có sự trùng hợp nào đó, của nhiều trang nhật ký tiếp theo của Dưỡng, với phát hiện mới này của tôi, bởi hiện tại cùng biến mất. Tôi định bụng, hai tháng nữa, khi Dưỡng từ khu Tư về thăm Hà Nội, tôi có thể đưa anh xem, bức vẽ đường tuyến tính thời gian này. Nhưng cũng có thể không. Bởi vì từ ngày đọc nhật kí, tôi thu thập tất cả các bài báo, về những con đường chiến tranh của khu Tư, nơi sự sống nằm kề sự chết, nơi lúc nào cũng là bây giờ và chỉ có bây giờ. Hiện tại ở đây, tính bằng những khoảnh khắc quí giá của từng giây. Hiện tại, là sự sống. Sang đến khoảnh khắc tiếp theo, sự sống có thể không còn nữa. Dĩ vãng và dự cảm do vậy là những thứ xa xỉ, ở nơi ấy không ai cần đến. Lần gặp Dưỡng tháng mười một vừa rồi, tôi thấy anh thay đổi nhiều. Tôi linh cảm: với thời gian, chiến tranh ngày càng khốc liệt và chiến tranh giấu kín trong nó, nhiều số phận, nhiều câu chuyện riêng tư, không ít bất thường. Từ buổi Dưỡng nói chuyện với anh Thái, những ngày của nhật kí không được đánh số thứ tự nữa.
0 giờ đêm. Nhật kí tiếp tục: tôi lái xe bây giờ đã tương đối. Trên nhiều tuyến đường, ông Phúc để tôi lái, vài chục kilômét, ông chỉ ngồi cạnh.
11 giờ tối. Cốm người nhỏ bé, mà cái thai đã to. Cốm muốn có con trai đầu lòng, để gọi iêu là thằng Dưỡng con. Tôi ngược lại, muốn có con gái đầu lòng, để gọi tên là con Cốm nhỏ. Tôi không còn nhiều thời gian, cho truyện trinh thám, nhưng vẫn mua sách về, để sẽ đọc lúc nào không đi xem phố, không ghi nhật kí. Mua cả sách dạy nuôi con nữa. Tôi bắt Cốm đọc, nhưng Cốm cho là vẽ vời.
10 giờ sáng. Không rõ từ bao nhiêu ngày, bao nhiêu giờ, tôi không còn thiết tha xem lịch, để biết đã là thứ ba, sẽ là thứ sáu, hay chủ nhật. Chương trình của một tuần có thể nào quan trọng đến thế, để toàn bộ nhân loại cứ phải đếm cẩn thận mỗi ngày. Chương trình của một ngày có thế nào khó quên, để tôi nhắm mắt cũng biết, ngày mai sẽ ghi cái gì vào nhật kí. Ngày mai tôi ghi hộ, cho ngày hôm qua. Chủ nhật trước tôi ghi hộ, cho chủ nhật sau. Hôm qua, ngày mai, hôm kia, ngày kia, tuần lễ trước, tuần lễ sau, là ngần ấy sự kiện. Ngần ấy suy tính, ngần ấy công việc, là ngần ấy lo lắng bồn chồn.
9 giờ tối. Lại câu hỏi: vấn đề của tôi liệu có được chính quyền thực sự giải quyết, hay vẫn còn treo lửng lơ? Cuộc điều tra của công an có vẻ đang tắc tị.
8 giờ sáng. Tình Bốp im lặng. Thằng nhọn cằm cũng biến đâu mất. Phảng phất quanh nhà tôi, trong sân, bên bể nước, trong vườn cây, vẫn có mùi nghi vấn.
7 giờ tối. Hôm qua, ngày mai, hôm kia, ngày kia, tuần lễ trước, tuần lễ sau, tôi nghĩ nhiều đến giả thiết số 3, đến ba nhân vật thực ra chỉ là một, đến chiếc mặt giả với cái cằm nhọn. Tôi nhớ lại toàn bộ, những lần gặp thằng nhọn cằm, để nhận thấy bao giờ hắn cũng giữ một khoảng cách nhất định, với tôi, không đủ gần cũng không quá xa. Là khoảng cách giữa hai cột điện ngoài phố. Thằng nhọn căm bao giờ cũng khoác trên người, những loại trang phục đặc biệt, bao giờ cũng chọn những tư thế, những địa điểm đặc biệt, giúp hắn giấu đi những đặc điểm, của cơ thể.
6 giờ chiều. Ngày dài. Đêm cũng dài. Lúc nào tôi cũng đang ở quá khứ: giá như thời gian được quay ngược, về phía trước. Giá như chủ nhật, rồi mới thứ bảy. Thứ sáu, rồi mới thứ năm. Thứ ba, rồi mới thứ hai. Giá như buổi chiều, rồi mới buổi sáng. Giá như tôi, được sống giật lùi, về lại những ngày tôi chưa viết nhật kí. Tôi sẽ làm gì nhỉ?
5 giờ sáng. Tôi sẽ đi trốn hiện tại. Sẽ không cần, phải lấy ngày làm đêm, vì ngày sẽ là đêm và đêm sẽ là ngày. Tôi sẽ lại rong chơi, ở một đầu ô tím bên những cột đèn mất điện. Ngày mai của tôi là như thế: là quá khứ theo chiều ngược lại, không i như trong thánh kinh, nhưng rất nhiều những hạnh phúc biết rồi. Tôi về tuổi sơ sinh.
4 giờ chiều. Sách trinh thám mới mua về, tôi xếp riêng, thành một chồng cao ngất ngưởng. Tôi chưa đọc và chưa biết bao giờ sẽ đọc. Các chương trình của tôi đều bỏ dở. Những suy luận cá nhân của tôi, cũng thường xuyên lơ lửng. Những ngày Hà Nội rét, những ngày Hà Nội mưa và những ngày phố Hà Nội ướt lép nhép, thế nào tôi cũng lại lên cơn buồn bã. Thế nào cũng bắt đầu lại cuộc lí sự triền miên của bộ ba thường xuyên, thằng-Tôi, cái-Sọ, cái Bóng-thằng-Tôi trong gương.
3 giờ sáng. 3 đêm rồi Hà Nội mưa lép nhép, cho nên tôi ghi nhật kí hộ 3 đêm sẽ đến sau, cho cả bộ ba thường xuyên chúng tôi nữa. Tôi nói với họ: bình tĩnh sọ tôi ạ, bình tĩnh bóng tôi ạ. Chúng mình cùng thông cảm, vì không thể không thông cảm cho nhau. Tôi đã cố gắng đi tu, trong xó nhà, trong công việc, trong nghi ngờ. Tôi đã tự nhủ, đừng bịa-chuyện, đừng tự-dọa, đừng sợ-hãi, đừng tự-săn-bắt, đừng tự-hủy-hoại. Nhưng đúng là tôi gặp vấn đề thật, bị nghi ngờ thật. Chỉ cần nhìn vào mắt người đời, là tôi hiểu. Họ, là mắt chị Hòa, mắt bác Mẫn, bác Dậu, bác Trực, mắt ban bảo vệ, họ chất phác và phúc đức cả, nhưng họ vẫn giữ nhiều khoảng cách e ngại, với tôi. Nhìn mắt họ, tôi đọc hết, cái khoảng cách muốn thuở này. Tôi cũng hiểu, đấy là dĩ nhiên. Nhưng khi tôi chạy đến, tìm anh Thái, mắt anh cũng nhìn tôi, e dè làm sao. Anh là người duy nhất biết chuyện bí mật tôi kể, cùng cả giả thiết trinh thám. Anh nhìn, như thể chưa bao giờ anh đã cùng tôi nói chuyện, cả buổi sáng dài, đã đề nghị tôi đặt toàn bộ niềm tin, vào phương pháp điều tra khoa học của anh. Tôi đành lòng iên tâm trong lời hứa của anh, iên tâm trong các câu hỏi móc xích của anh, của tôi, rồi của Cốm. Bình tĩnh lại, sọ tôi ạ. Tôi bình tĩnh rồi.
2 giờ sáng. Tôi bình tĩnh đặt câu hỏi, thêm một móc xích nguy hiểm: có phải tôi đúng là kẻ gian, vì vô tình cũng bởi vì tôi cố tình, dính líu với toàn bọn gian dối. Có phải tôi đúng là kẻ gian, vì tôi có bao nhiêu liên quan đến những đối tượng nguy hiểm, mà liên quan ngần ấy thì liên lụy ngần này. Tôi nhớ buổi sáng mưa hôm ấy, tôi kể với anh Thái, chuyện Tình Bốp bịa tội cho tôi, dọa sẽ tố giác, nếu tôi tố giác nó. Tôi có lẽ đã không lường trước: là sự thật, bất cứ sự thật nào, nếu từ mồm tôi kể ra, thế nào cũng làm tăng nghi ngờ, và làm hại tôi thêm. Buổi sáng ấy, tôi có lẽ đã dại dột đưa ra nhiều chi tiết mới, làm thời gian điều tra của anh Thái lại phải kéo dài thêm, và hồ sơ nghi ngờ tôi đã dày, lại phải thêm dày. Nhưng tôi cũng nhớ, buổi sáng ấy, anh Thái đề nghị tôi, đừng sợ bị ngờ, vì cái ngờ của chính quyền không phải là ngờ, mà là giả thuyết khoa học. Cho nên tôi iên trí, hồ sơ của tôi đang vào giai đoạn đặt giả thiết và giả thuyết. Cho nên tôi iên trí, gửi niềm tin, nơi anh Thái. Buổi sáng hôm ấy, tôi nghe anh, đổi tờ tự thú, thành tờ khai, chuyện riêng của tôi, thành chuyện những người khác. Báo cáo chuyện người khác, bao giờ cũng dễ hơn kể chuyện đời tư, cho nên tôi đã viết tờ khai rất nhanh, không một vướng mắc tâm lí. Không biết anh Thái đã tỏ vẻ gì, khi đọc tờ khai của tôi, nói chung anh không tỏ thái độ lớn nào. Chỉ một lần, không quên được, là khi anh nhắm mắt lại, chỉ vài giây thôi, khi tôi kể việc Tình Bốp bịa chuyện, để tố giác tôi, nếu tôi tố giác nó buổi sáng hôm ấy. Chỉ một động tác nhắm mắt của anh, cũng đủ để tôi nhớ mãi. Chỉ một động tác vài giây của anh, cũng đủ để giải thích toàn bộ sự im lặng của anh sau này. Nói chung, từ buổi sáng ấy, anh Thái có vẻ không cần tôi nữa. Nhưng dù sao nếu có dịp gặp anh tôi cũng phải cám ơn anh, đã không phản đối việc tôi đi làm cho hãng xe Phi Mã. Anh Thái tuy không đồng í, nhưng chỉ một câu phản đối của anh, chắc tôi vẫn còn đang câu nhái ngoài đồng nước. Buổi sáng không quên ấy, là buổi sáng đầu thu. Một mùa đã đi qua. Tôi vẫn phụ lái tacxi, đánh xe ra bến, đánh xe rời bến. Ông Phúc vẫn để tôi cầm tay lái, khi tôi chưa thi lái lấy bằng. Không thấy khu phố đến đòi lại giấy phép lao động. Không thấy thằng nhọn cằm đi theo tôi. Cũng không thấy Tình Bốp mời tôi đến, uống rượu và kí sổ nợ. Biết đâu việc đã xong, mà tôi chưa biết. Biết đâu tôi đã mắc bệnh nhìn đâu cũng sợ. Nhưng nếu còn sợ, là vì trong tôi vẫn còn, một hạt lương tâm lương thiện.
1 giờ sáng. Vào một đêm rét của 3 đêm dính liền, gió thổi lào xào cả phố, tôi nhìn bóng, trong gương. Mắt bóng buồn tệ. Như mắt con chó vện, nuôi trong nhà. Con chó vện vừa ăn cứt trẻ cho sạch sàn nhà, vừa đuổi trộm trông nhà cho chủ, vừa lo sợ đến ngày bị chủ ăn thịt, mà không biết là ngày nào. Mắt bóng tôi trong đêm là như thế động đậy, đục ngầu, đa nghi, không mê được. Tôi và sọ chỉ còn mỗi cách thông cảm. Sọ tôi bình tĩnh, sọ bảo tôi dẫu tù, vẫn tu được, tu cho qua tù cho hết tù, chưa đi tù thì tu cho qua nghi ngờ, cho hết nghi ngờ. Tôi nghĩ, sọ nói được thế, là vì sọ nhắc lại lời ông Trung trố, trong một lần họp khu phố. Ông Trung trố nói, vào đúng giữa mùa thu, là ai ai cũng cần cải tạo, cán bộ kháng chiến cũng cần cải tạo, cán bộ lãnh đạo cũng cần cải tạo. Huống hồ cái thằng tôi tề ngụy. Tôi đồng í. Nhưng vào cái lúc gió máy thế này, phố xá lao xao lạo xạo thế này, tôi cũng thông cảm, với cái bóng buồn trong gương. Mắt bóng lúc này buồn tệ, buồn tệ nhưng không đường nào khác, là đường tu. Tôi không còn cách nào khác, ngoài chờ đợi. Tôi chờ quyển lịch thay tờ lịch. Trời đất bây giờ đã sang, một mùa khác. Á, Âu, Phi, Mĩ, Úc, đâu đâu cũng sang, một mùa khác. Quyển lịch cũng sang mùa. Quê hương, làng mạc, mồ mả, phố xá quen thuộc, mẹ tôi, em Cốm, trai gái đi phố, phong cảnh, mọi thứ đều sang mùa. Tôi chờ lần sang mùa sau nữa, sau nữa. Hà Nội đổi mùa cho mùa, mà vẫn như vừa kích thước của nhau, vừa kích thước của tôi. Tôi đi đâu khỏi Hà Nội, đều không làm sao vừa được, với kích thước lạ, nơi rộng, nơi hẹp. Phố xá lạ, nam nữ lạ, phong tục lạ, không sao vừa khít với tôi được. Tôi ở lại Hà Nội, để chờ anh Thái đem lệnh mới xuống cho tôi, tôi vẫn ở lại trong kích thước của tôi, thì không lí do gì tôi phải lo lắng triền miên như vậy.
0 giờ sáng. Thế là tôi an ủi cái bóng tôi buồn, trong gương. Tôi chỉ cho bóng tôi, trên bản đồ miền Bắc, nơi gieo, nơi cấy, nơi gặt, chỗ công trường mới, chỗ tàu xe mới, chỗ nhà ga mới. Tôi chỉ cho bóng tôi, trên trang một các tờ nhật báo, đâu là thế giới và trong nước, đâu là tin tức hằng ngày, và ở đâu địch phá hoại Gionevơ. Bóng tôi bảo, tôi chỉ là một cái gì, còn nhỏ hơn hạt bụi, dễ bị bỏ quên. Tôi cần mẫn đi lái tacxi mỗi ngày 12 tiếng, tôi chở người có tiền, đi chơi Hà Nội-Nam Định, tôi không làm lợi gì cho miền Bắc, cho nên anh Thái không khen ngợi gì, khi tôi đi làm, cho nên anh Thái chóng quên tôi, là phải. Suy cho cùng, tôi nuôi ông Phúc, chứ không phải ông Phúc nuôi tôi. Két bạc của vợ chồng ông Phúc kiếm lợi, chứ chính phủ không được gì. Tôi thấy bóng tôi nói đúng lắm, tôi cũng đồng í sẽ bỏ việc. Tôi muốn xin đi làm phụ xe, cho chính phủ, rồi làm tài xế chính. Nếu không, tôi xin đi đẩy xe bò, gánh cát ngoài bờ sông, cùng với em Cốm. Tôi sẽ có ích hơn cho miền Bắc. Tôi sẽ nhập vào thành phần tích cực. Tôi sẽ đóng góp dần cho miền Bắc, ngày rét một hạt lương thiện, ngày nực một hạt lương thiện, như con kiến tha mãi, thì đầy một tổ lương thiện. Tôi sẽ đi lại trên bản đồ đời tấp nập. Tương lai của tôi sẽ là như vậy. Sẽ khởi đầu bằng cái ngày, tôi đến trước mặt ông Phúc, tôi nói : tôi xin thôi việc.
Tháng hai 1966. Đồng chí Thái kể: bây giờ tôi là nhân viên, cục phản gián. Bây giờ anh nói, tôi mới biết, tôi là một nhân vật, của cuốn truyện. Bây giờ tôi nhớ cậu Dưỡng là ai rồi. Tôi phụ trách hàng trăm hồ sơ, giống nhau, nhớ được toàn bộ cũng không dễ. Nhưng tất cả mọi tài liệu về Dưỡng, vẫn còn nguyên vẹn đây: tôi lấy từ phòng lưu trữ. Bây giờ anh nói, tôi mới biết cậu Dưỡng nhiều nội tâm và có khiếu văn học thế. Bao giờ sách ra tôi sẽ lấy hai bản, một cho riêng tôi làm kỉ niệm, một cho thêm vào hồ sơ của Dưỡng, vì vẫn còn một vài thắc mắc nhỏ, chúng tôi chưa xác minh hết được. Bây giờ tôi kể chính xác và cặn kẽ để anh ghi. Thực ra điều tra của công an 11 năm trước không tắc tị chút nào, như trong nhật kí.
Nhọn-cằm là nhân vật có thực. Nhọn-cằm xuất hiện lần đầu gần mùa xuân năm 1955. Ngõ Z, thuộc khu Hoàn Kiếm, có một quán càphê mới dọn, trên vỉa hè. Chủ quán tên là Kiểng, khoảng 37 tuổi, người hom hem, xấu xí. Vợ Kiểng trẻ, khoảng 25 tuổi, xinh và lẳng. Cô tên là Hoa, trước khi lấy Kiểng, là gái làm tiền. Kiểng trong quá khứ là bồi bàn, trong khách sạn. Trong thời gian kháng chiến, đi tàn cư ở Đồng Quan và mở cửa hàng giải khát tại đây. Vợ con Kiểng chết bom. Kiểng hồi cư về Hà Nội, làm nghề bán càphê vỉa hè. Kiểng kiếm được khá tiền. Kiểng biết Hoa là gái làm tiền, nhưng vẫn lấy làm vợ. Hai năm mà họ vẫn chưa có con. Kiểng có tính rất ghen. Kiểng thuê người theo, rình cô vợ, nhưng người theo rình lại bị cô vợ mua chuộc, bằng tiền và bằng sắc đẹp. Khi cơn ghen lên cao, Kiểng lột truồng vợ, quấn tóc vào chân giường suốt một ngày một đêm, đêm hết thì thả đàn kiến vàng vào thân thể vợ, cho chúng tha hồ đốt. Thế mà cô Hoa vẫn chứng nào, tật ấy. Cô đánh thuốc mê anh chồng, rồi đưa trai vào giường ngủ chung. Kiểng tỉnh thuốc mê, đi báo cáo khu phố. Đại diện khu phố là bác Nhuệ già, làm nghề chữa xe đạp. Bác Nhuệ khuyên Kiểng, dù có ghen, cũng phải ghen đúng chính sách dân chủ, và gửi ban phụ nữ khu phố đến, làm công tác giáo dục cô vợ. Cô Hoa tuyên bô với ban phụ nữ: là cô iêu chồng lắm, nhưng chồng cô ốm iếu, không đáp ứng hết nhu cầu sinh lí của phụ nữ, cho nên cô lừa dối chồng, cho nên cô bị chồng đánh. Cô vui vẻ chấp nhận hết. Khách uống càphê toàn bộ là đàn ông, họ đến để ngắm cô Hoa và đôi khi, để ghen tuông lẫn nhau. Trong số họ, có một khách hàng hình dạng đặc biệt, bởi anh ta có cái cằm dài như cằm gỗ. Anh ta hay lui tới uống càphê, khi cô Hoa bán hàng một mình. Hoặc chỉ để mua bao thuốc lá, khi cô Hoa không chỉ có một mình. Lần nào ra về, anh ta cũng để quên một vật gì đó khi thì cái vỏ diêm, khi thì vỏ bao Côtab. Cô Hoa thế nào cũng thu dọn mặt bàn, không quên thu nhặt, những đồ vật ông khách lạ bỏ quên. Chi tiết này dần dần bị đám đàn ông ghen tuông phát hiện. Cho đến một hôm Kiểng đi đâu vắng, rồi bất chợt về, bắt gặp người khách dị dạng, bước ra từ quán càphê. Cô Hoa, như thường lệ, nhạt cái vỏ Côtab bỏ quên của khách, thấy chồng về cho vội vào túi áo, rồi chạy vào nhà vệ sinh. Kiểng bỏ cả khách hàng, đứng bên ngoài đập cửa. Cô vợ không ra, Kiểng đạp tung cửa, cứ thế xộc vào khám túi vợ. Kiểng hỏi: “Bao Côtab đâu?” Cô Hoa nói: “Côtab nào?” Kiểng nói: “Côtab của thằng ma cô, thằng nhân ngãi của mày”. Cô Hoa nói: “Lạ đời. Đàn ông có thứ ghen. Rơi mẹ nó xuống thùng cứt kia kìa”. Kiểng kéo luôn thùng cứt ra, cứ thế vục tay vào, tìm bao thuốc. Trong bao còn bốn điếu thuốc, Kiểng xé nát cả, nhưng không tìm thấy gì nữa. Kiểng nói: “Mày nuốt mất rồi”, và hai tay nhem nhuốc cứ khám khắp người vợ. Đang cơn ghen, Kiểng vốc một vốc cứt định nhét vào mồm vợ, để bắt nôn ra bức thư tình. Cô Hoa thoát được, chạy sang nhà hàng xóm, người nhoe nhoét cứt thối. Chuyện cô Hoa nuốt thư tình, thế la để cả phố bàn tán trong 6 tháng. Người khách có cái cằm gỗ từ hôm ấy biến mất, không quay lại quán càphê nữa. Nhưng với ban bảo vệ khu phố, cô Hoa đã nuốt một bức thư, thư tình hay không thư tình, thì cũng là thư.
Nhọn-cằm xuất hiện lần thứ hai, gần mùa hè năm 1955. Cô P, nhân viên bán sách quốc doanh phát hiện, một chuyện hơi lạ. Khi mùa hè bắt đầu, thì một người khách trung niên cũng bắt đầu đến mua sách, ở cửa hàng cô P. Nhưng cử chỉ và hình dạng của khách làm cô để í. Cô đem chuyện kể với công an. Người khách trung niên, theo lời cô P, có đeo cái cằm giả, do Sở chân tay giả chế tạo, chứ không phải thật. Vì cô được nhìn ở khoảng cách rất gần. Cô P nghĩ có thể ông khách là thương binh, bị đạn lấy mất cằm. Nhưng cái làm cô chú í hơn cả, là cái nhìn của ông, làm cô không biết miêu tả thế nào, làm cô muốn quên mà cứ nhớ mài Lần nào ông này đến mua sách, cũng đánh tráo sách, với những khách hàng khác. Chủ iếu là những khách hàng nữ. Những cô gái này đều xinh đẹp, ông khách lại quá xấu xí. Nhưng họ tráo sách rất khéo. Khi đến quầy cô P để trả tiền, họ đem tôi những cuốn sách giống nhau, cùng để cả lên mặt tủ kính. Họ làm như không quen biết nhau. Họ bắt chuyện cô P, hỏi han đủ thứ, đổi tiền, trả tiền, rồi vào lúc lộn xộn, họ đãng trí lấy nhầm sách của nhau. Cùng là sách mới giống hệt nhau, nên không cần đổi lại nếu cô P có nhắc. Đến bảy tám lần như vậy, cô P mới sinh nghi. Các cô gái đến mua sách cùng Nhọn-cằm, đều chỉ đến một lần, rồi không quay lại nữa. Cô P không chắc chắn nhận mặt được họ. Nhưng với Nhọn-cằm thì cô quả quyết, sẽ nhận ra ngay, nếu cô gặp lại hắn. Cô chờ mãi, cuối cùng Nhọn-cằm cũng quay lại hiệu sách, vào một buổi tối. Cô P kín đáo gọi điện thoại cho công an, nhưng cô còn tiếc mãi, đã không chụp được ảnh, cảnh ông khách đánh tráo sách, với một cô gái xinh đẹp. Cô gái này tên là X, nhà ở phố L.T.K. Từ buổi tối hôm ấy, cô X trở thành một đối tượng, có vấn đề. Còn Nhọn-cằm sau khi rời hiệu sách, đi loanh quanh hồi lâu trong phố, rồi biến vào một hiệu sách cũ. Là hiệu sách Khang. Hiệu sách nằm sát với cổng gara Phi Mã. Lúc ấy hình như 11 giờ đêm. Lão Khang đã đóng cửa hiệu, nhưng còn để hé một cánh cửa ra vào, và vẫn để đèn sáng. Sau khi Nhọn-cằm biến vào sau cánh cửa, lão Khang ra đóng ập cửa lại, rồi tắt đèn. Hai trinh sát của tôi mặc thường phục, được cử đi theo Nhọn-cằm. Họ trẻ tuổi nhưng nhiều kinh nghiệm, đều là trinh sát nội thành, đều thuộc Hà Nội, như lòng bàn tay. Họ đã đến hãng xe Phi Mã nhiều lần, biết rõ hãng xe có ba cổng ra vào. Khi Nhọn-cằm vừa dừng chân, trước cửa hiệu sách, một người đã vòng ngay ra phố K để canh cổng sau. Người kia tìm một địa điểm, có thể quan sát được cả cổng gara, cả cửa ra vào hiệu sách, cả cổng ngách trong ngõ cụt. Vậy là mọi lối ra vào khu nhà, đều được trinh sát của tôi theo dõi suốt đêm. Không thấy Nhọn-cằm đi ra. Không thấy ai ra hoặc vào.
Khoảng 4 giờ sáng, tôi nhận được mật báo. Gà gáy lượt đầu. Tôi vừa mặc quần áo, vừa đặt kế hoạch. Tôi đạp xe tới nhà ông Phúc. Khi tôi tới, cả khu nhà vẫn tối om. Hồi này, ông Phúc đã bán hết xe car, chỉ giữ lại mỗi chiếc tacxi, tự ông lái lấy. Ông mới được bầu vào ban bảo vệ khu phố. Nhà ông rộng, chỉ có hai vợ chồng, nên khu phố mượn phòng, làm nơi họp ban bảo vệ. Tôi đến, vừa đúng lúc ông xuống gara, chuẩn bị tacxi. Tôi dắt xe vào. Tôi nói, muốn mượn nhà ông, làm chỗ họp đột xuất, nên tôi phải đến sớm, trước lúc ông đi. Ông Phúc vâng, vâng. Tiện thể tôi nhờ ông, báo hộ một số người trong ban bảo vệ, đến họp sang nay. Ông Phúc đi ngay. Bà Phúc dậy pha trà. Tôi nhờ bà, lúc tìm hộ bao diêm, lúc cái kéo, lúc tờ giấy, để tôi theo bà, vào thăm căn nhà. Căn nhà rộng mênh mông, nhưng tôi thuộc lòng. Tôi xuống nhà, đi vệ sinh. Ông Khang cũng đã dậy, thấy tôi ông chào, rồi mời tôi vào uống trà. Trong nhà chỉ có hai ông bà. Tôi muốn xem vài cuốn sách, ông dẫn tôi vào ngay hiệu sách. Không có ai cả. Mọi người lục tục đến họp. Tôi nhờ bà Phúc ra chợ, mua chút hoa cắm bàn họp, cho trang trọng. Thế là chúng tôi có đủ thời gian, xem xét khắp ngôi nhà, buồng tắm, các buồng, gầm cầu thang, mọi ngóc ngách, trần nhà, sàn nhà, tường nhà. Không một dấu vết của Nhọn-cằm. Tôi kết luận: một là nhà có hầm bí mật, hai là Nhọn-cằm đã tuồn được ra ngoài, trong đêm, ngay trước mũi chúng tôi. Buổi sáng sớm, lúc nói chuyện, với ông Phúc, tôi đã vờ, mở cửa xe tacxi của ông, xe trống rỗng thật. Thế là Nhọn-cằm đã biến mất. Từ đấy, hiệu sách Khang nằm trong danh sách đối tượng quan sát, của chúng tôi. Chuyện xảy ra từ mùa hè, tới mùa thu Nhọn-cằm lại xuất hiện, trong vụ cậu Dưỡng. Lần xuất hiện cuối, là buổi tối, khi Dưỡng đi đón vợ về, Nhọn-cằm trong bộ paravec bộ đội, vọt qua ngã tư. Từ đó mất tích hẳn. Vậy hắn là ai? Ở đâu? Hắn với bọn Macxen, Lily và Tình Bốp, có cùng một ổ không? Một điểm đáng chú í, là Nhọn-cằm chỉ tác động Dưỡng, trong những thời điểm nhất định, rồi đến lượt Tình Bốp, có vẻ như để tiếp tục chương trình bỏ dở. Tình Bốp không chỉ gây bất mãn, mà nhè vào sinh mạng chính trị của Dưỡng, để thủ tiêu bằng được. Vậy Nhọn-cằm và Dưõng có cùng một ổ không? Và tại sao chúng cần thủ tiêu Dưỡng, theo kiểu đó? Nhưng Dưỡng liên quan đến bọn chúng, nói cách khác, có giá trị với bọn chúng, như thế nào? Có thể còn những khúc mắc, Dưỡng chưa khai hết, có thể Dưỡng muốn che giấu, cho bọn chúng? Nhọn-cằm biến mất, nhưng cô X và cô Hoa, lão Khang, Tình Bốp và Dưỡng là những đầu mối trực tiếp, có thể khai thác được. Tình Bốp nham hiểm như rắn. Dưỡng ngổ ngáo cao bồi dở, nhưng chưa mất bản chất ngay thật. Bây giờ Dưỡng làm phụ lái cho ông Phúc, hằng ngày lui tới, ngôi nhà ba cổng. Tôi nhớ buổi sáng, nói chuyện với Dưỡng, Dưỡng có đặt giả thiết số 3, Nhọn-cằm và Tình Bốp chỉ là một nhân vật. Giả thiết này đến, từ một cuốn trinh thám nào đó, mà Dưỡng đã đọc. Nhưng làm tôi sực nhớ, đã không cho kiểm tra, xem đêm qua, Tình Bốp ở đâu. Tôi chợt nghĩ có thể sử dụng Dưỡng, kết quả có thể đưa tới cái gì.
⚝ ⚝ ⚝