Tối thứ bảy
Tối hôm nay thứ bảy, tôi đến hãng xe Phi Mã. Hãng xe ở vào một địa điểm buồn cười. Mặt trước trông ra phố H, phố H đông người, rầm rập xe cộ. Mặt trước, một bên hiệu sách cũ, một bên cổng gara sơn xanh đậm, suốt ngày khóa im ỉm, chỉ mở rộng khi có xe ra vào. Trên cổng có cái bảng, đề chữ Hãng Xe Phi Mã, có vẽ một con nghẽo bay, đã bong sơn. Mặt hậu hãng xe ăn về phố K, phố K vắng tanh, có cổng gỗ cài then. Mặt ngang, về phía tay mặt, ăn vào một ngõ cụt, cũng có tí cổng gỗ. Dạo ông Phúc còn nhiều xe, gara chứa không hết, xe đi về thường xuyên đậu đây ngõ cụt. Tóm lại, số nhà này có ba cổng, có hai chủ. Ông Phúc chủ hãng xe ở trên gác. Dưới nhà là ông Khang chủ hiệu sách cũ. Hai nhà chung nhau sân, bếp, nhà vệ sinh, ở dưới đất. Tôi đến hôm nay một tối thứ bảy.
Tôi tìm số nhà. Cổng gara khóa, hiệu sách mở như thường lệ. Trong gara có chiếc tacxi đen. Trong hiệu sách có sách cũ, và ông chủ sách cũ. Ông này lúc tôi vào đang giấu mặt, sau một quyển truyện. Tôi chỉ nhìn được tí chỏm đầu hói, tí lông mày rậm của ông, và tí kính gọng vàng. Tôi nói: “Xin lỗi. Tôi muốn hỏi ông Phúc”. Lâu lâu ông chủ sách mới ngẩng đầu lên. Có vẻ bị phá đám, giữa mẩu chuyện hay. Có vẻ không bằng lòng, vì tôi đến không phải để mua sách. Tôi đứng cách ông xa ba mét Tôi ngửi tướng mặt ông ta, chỉ thấy chất đớp hít, chất xác thịt, tráng thêm bên ngoài tí men trí thức rẻ tiền. Ông nhìn tôi không nói gì. Tôi nhắc lại: “Tôi muốn hỏi ông Phúc”. Ông nói: “Ààà. Ồng Phúc ở trên gác”. Thấy sau hiệu sách có cái hành lang đen, tôi định vào. Ông nói: “Ấy, không đi lối ấy, nhà nào đi cổng nhà nấy. Cổng nhà ông Phúc ở phía ngõ ngang, bên phải”. Tôi nói: “Vâng” rồi quay ra. Tôi nhận xét hai ông có vẻ không thân thiết nhau. Tôi vào ngõ bên phải, là ngõ cụt.
Tôi kéo chuông, gắn trên chiếc cổng gỗ. Chuông kêu rèè, có lẽ làm bằng sắt tây. Tôi chợt nhớ, đến anh sinh viên người Nga, cũng kéo cái chuông cũ, trên cổng nhà mụ cầm đồ. Nhưng tôi không có í định giết ai. Tôi đến xin việc. Tự dưng tôi hồi hộp. Tôi thấy đèn bật sáng trong sân và tiếng dép loẹt quẹt. Cổng mở hé, trước mặt tôi lấp ló cũng một mụ già. Giống hệt cuốn trinh thám Nga. Tôi càng hồi hộp. Mụ già ngoại năm mươi, thoáng trông như con cáo loắt choắt, trông kĩ hơn lại giống như con me tây già, tóc hoa râm, gầy hom hem. Mụ mặc áo lụa, viền đăng ten. Quần lụa trắng, cũng đăng ten. Mụ nhìn tôi, rồi cất giọng: “ Anh hỏi ai?” Tôi định bỏ về. Nhưng lại nói: “Tôi hỏi ông Phúc. Ông Phúc hẹn với mẹ tôi”. Mụ nói luôn: “Ààà tưởng ai. Anh đến xin việc hả? Anh là con trai bà giáo hả? Vào đây”. Tôi vào. Bà ra hiệu tôi đi trước, bà theo sau. Tôi đi đến đâu, bà tắt điện đằng sau, đến đấy. Hành lang. Cầu thang. Tôi nhìn xung quanh rất nhanh, qua những cánh cửa trên gác, cửa nào cũng mờ và sáng đèn, thấy đồ đạc nửa tây, nửa tầu. Những đivăng. Câu đối. Két sắt. Tủ lạnh. Độc bình. Đôn sứ. Tủ chè. Giá sách. Mụ già dẫn tôi vào một buồng con. Mụ nói: “Anh đợi ở đây, một chút. Nhà tôi đang họp”. Rồi mụ đi ra, chân loẹt quẹt dép dừa. Buồng đợi tôi ngồi nhỏ bé, xuềnh xoàng một cái giường sắt, một cái bàn sắt, hai cái ghế cũng bằng sắt. Trên bàn có ấm chén nằm úp. Có lọ hoa không hoa. Có cái gạt tàn, cũng bằng sắt. Chắc là nơi tiếp khách hạng xoàng. Bởi vì phía bên kia hành lang, là phòng tiếp khách rất lớn, đang lố nhố bóng người. Qua chiếc cửa mở, tôi thấy khói thuốc, thấy cả vài bóng công an, vận đồng phục kaki vàng. Tôi nghĩ, có lẽ họ đang họp bảo vệ khu phố. Thấy công an, tôi chỉ muốn về. Nhưng tôi không về, tôi châm thuốc hút. Không khí nhà này tôi không thích, i như trong thánh kinh, tôi không thích không khí nhà giàu. Không có nghĩa tôi thích nghèo. Nhưng cái không khí nhà giàu làm khó ngửi. Ở dây, có mùi nhạt, mùi xác chết, có không khí bất lương. Tôi chỉ muốn về. Vừa hay ông Phúc vào.
Ông Phúc vận thuần màu xanh công nhân. Trong nhà ông cũng đội mũ. Ông đội mũ catket màu xanh công nhân. Trông ông như anh tài xế. Như anh bồi bếp. Trông ông cũng như ông chủ. Ông trai tráng, râu cạo nhẵn. Chỉ hơn bốn mươi, trẻ hơn vợ, hàng chục tuổi. Ông vào bắt tay tôi luôn. Ông nói: “Anh là thằng Dưỡng phải không? Anh cao lớn, khác hẳn ông giáo. Nhưng mặt thì giống ông. Hồi ông giáo bố anh còn, anh bé thế này này. Ông giáo hiền lành, đạo đức, ai cũng quí. Tôi với ông là đồng nghiệp, nhưng tôi là lớp hậu sinh. Tôi bỏ nghề rồi. Tình cờ gặp bà trong chợ, tôi mới biết, anh đang cần việc”. Mụ già lúc nãy, bây giờ tôi gọi là bà Phúc, đi vào, trên tay bà một cái khay nhỏ. Trên khay nhỏ, có một li rượu mùi, và một đĩa bánh. Bà Phúc nói: “Mời anh”, rồi đi ra ngay. Trong tiếng cười ồn ào, đến từ phòng họp, bên kia hành lang, ông Phúc nói: “Ta vào việc ngay nhé. Nhà tôi hồi trước có bốn cái xe car, nhưng bán hết rồi. Bây giờ chỉ còn một chiếc tacxi chạy Hà Nội-Nam Định. Tôi toàn tự lái cả. Như vậy mà gọi tôi là ông chủ à? Anh có thấy tôi có vẻ ông chủ không?” Tôi lắc đầu. Nhưng tôi nghĩ: “Ông này trốn thành phần”. Ông Phúc nói tiếp: “Bây giờ tôi được bầu vào làm việc trong ban bảo vệ khu phố, cho nên tôi rất bận. Cho nên tôi cần người làm. Anh đến đây là giúp tôi, chế độ mới không có ông chủ và người làm nữa. Việc nhận anh vào làm, theo đúng thủ tục, tôi đã trao đổi với anh Thái, bên công an. Tôi cũng đã gặp cả bác Mẫn, ông Trung trố. Ông Trung trố thành kiến lắm, ông phản đối tôi nhận anh vào làm. Chỉ có bác Mẫn đồng í. Anh Thái thì không nói gì, thái độ rất kì lạ. Sau đó, tôi có nói chuyện lại với anh Thái, tôi nói tôi rất quý trọng bố mẹ anh. Vợ chồng tôi không có con, gặp anh lúc anh không có việc làm, tôi không thể làm ngơ. Anh Thái không đồng ý, cũng không phản đối. Anh Thái chỉ nói, anh đang cần được giúp đỡ. Thế là tôi kiên quyết nhận anh, như con cháu trong nhà. Tôi sẽ hướng dẫn anh, nhanh chóng lên chân tài xế chính. Như vậy, anh có cái nghề trong tay, mà tôi có thêm thì giờ, phục vụ khu phố. Tôi không ham làm giàu. Vả lại, dưới chế độ mới, có ham giàu cũng không được. Ham lao động, ham phục vụ, mới đúng là người miền Bắc. Anh làm tốt, tôi sẽ giao phó cho anh, mọi chuyến xe. Biết đâu có ngày tôi nhượng lại tacxi cho anh, anh có thể trả góp hằng tháng. Chiếc tacxi này, tương lai là của anh đấy. Anh đừng giận, tôi muốn trả ơn ông giáo ngày xưa, để tôi khỏi áy náy với người chết. Hồi trước bố anh giúp đỡ tôi, nhiều lắm. Mẹ anh có kể với anh không?” Tôi lắc đầu. Ông Phúc nói: “Không à? Mẹ anh phúc đức thế. Thi ân mà không cần nhớ, không cần kể. Bây giờ thế này, tôi đã bàn với mẹ anh hôm qua, lương của anh là 9 vạn một tháng. Nhà anh đến đây không xa, tôi vẫn xếp cho anh một buồng, đi khóa về mở, phòng nhỡ đêm hôm xe về muộn, hoặc buổi trưa, anh muốn ngả lưng một chút. Là chính căn buồng này, trước là buồng bà nhà tôi, nay bà dọn xuống dưới sân rồi”. Tôi nói: “Ông tốt với tôi quá. Ông cho tôi, cái phòng dưới sân kia, gần gara, bể nước, tiện lợi hơn, và tránh phiền hà ông bà”. Ông Phúc không nghe. Tôi cũng không nghe. Vừa lúc, có người gọi ông sang họp. Ông Phúc nói: “Tôi sang ngay đây. Thôi được, vẫn đề cái buồng, tạm thời xếp theo í muốn của anh. Còn những vấn đề lặt vặt khác như giờ giấc, cơm nước, hỏa hồng Tết, ngày quốc khánh, ngày lễ khi anh đi làm, ta sẽ bàn sau. Anh đồng í không?” Tôi gật đầu. Tôi thấy dễ chịu. Vậy mà mẹ tôi kể không rõ ràng. Hay có lẽ, dễ chịu vì đây mới là buổi gặp đầu tiên? Tôi hẹn ông thứ hai, tôi sẽ bắt đầu đi làm.