← Quay lại trang sách

Chương XI

Một ngày dễ nhớ. Nhật kí tiếp tục: dễ nhớ bởi vì tự dưng, tôi muốn nói với bố tôi, đã mất từ 17 năm trước. Ông Phúc số 1 bảo mặt tôi giống hệt bố, cho nên tôi nhìn bóng tôi, trong gương, một lúc lâu. Tôi muốn nói với bố tôi, một cái gì to tát lắm. Nhưng tôi chỉ nói đơn giản: tôi năm nay 23 tuổi. Tôi cũng nói thêm: tôi đã hiểu được nhiều thứ trên đời, mà lại chưa hiểu tất cả. Nếu bố tôi còn sống, tôi sẽ đưa ông đi, xem phong cảnh thời hiện tại. Phong cảnh của tôi, là phố nội thành, phố ngoại thành, là những ngã tư, những cột đèn, là mưa mùa đông, mưa mùa hè, là quyển lịch bốn mùa.

6 giờ tối thứ ba, một tối mùa đông, cho nên gió láo nháo lá vườn, khói bay ra trắng xóa, như thế này. Nồi cơm tôi thổi, đã chín dưới bếp. Phim đã tráng xong, ảnh đã rửa xong. Tôi gói lại chiếc mùi soa đầy biệt li, trong một tờ giấy trắng. Các kỉ vật khác, tôi cất cả vào tủ. Tôi viết mấy chữ, lên một tờ giấy trắng. Tôi để bức thư ngắn và gói mùi soa trên một tờ nhật trình, rồi gói lại lần nữa. 6 giờ 30, Cốm vẫn chưa về. Tôi đạp xe tới địa chỉ cây-si-già-rễ-đỏ. Tôi nhờ bà Hiếu đan len, chuyển gấp cái gói nhỏ, cho anh Thái.

⚝ ⚝ ⚝

Tháng ba 1966. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ năm hay thứ sáu, thứ bảy hay chủ nhật. Những xê dịch lủng củng lỉnh kỉnh, của các con số, làm tôi bỗng dưng lên cơn sốt 37°. Bên cửa sổ tôi tháng ba, có nhật kí tím, và bản sao nhật kí, có lọ mực tím, và bản thảo lem nhem mực tím. Một ngày tháng ba tôi đến, tìm Dưỡng như đã hẹn. Tôi chỉ gặp chị Trinh: Dưỡng lần này không về Hà Nội. Hình như anh phải theo một chuyến xe vào sâu lắm, về phía nam, trên một con đường mới mở. Cách đây đúng một năm, Dưỡng trao cho tôi ba cuốn nhật kí. Anh nói chiến tranh sẽ ngày một khốc liệt. Lúc ấy, tôi lí giải động tác trao nhật kí của anh, như thế này: anh muốn tâm sự với người khác. Bởi vì, ghi nhật kí thực chất không nhằm bảo vệ tính chất riêng tư. Ghi nhật kí là một động tác thỏa mãn nhu cầu đối thoại không thể, với người khác. Xuất bản nhật kí do vậy, chỉ là diễn biến tất iếu, của động tác ghi nhật kí. Một năm sau, í kiến của tôi, về động tác trao nhật kí của anh, thay đổi. Một năm sau, tôi lí giải thế này: anh muốn từ bỏ, một quãng đời. Nhật kí, thực chất là một tài sản riêng tư, dù không vì mục đích bảo vệ tính chất riêng tư. Cho nên động tác ghi nhật kí thực chất là tư hữu hóa những sự kiện. Dưỡng từ chối đọc lại nhật kí, và do vậy, sẽ từ chối không đọc 3/4 bản thảo của tôi. Nhưng anh không cất giấu, hoặc hủy bỏ toàn bộ nhật kí, bởi vì động tác hủy bỏ, chỉ khẳng định quyền sở hữu tuyệt đối của anh, và lại làm anh nhớ mãi. Cách duy nhất để quên nhật kí, là đưa nhật kí, từ sở hữu của một cá nhân anh, thành sở hữu của vô số người khác. Động tác xuất bản nhật kí của anh, chính là để anh mất đi, mọi quyền hạn với nhật kí. Khi sách của tôi xuất bản, thành hàng nghìn cuốn, anh sẽ bình thản đọc nó, như đọc nhật kí người không quen, từ vị trí một độc giả. Câu chuyện một mình anh cũng sẽ trở thành chuyện của vô số người khác. Đây là cách duy nhất, để anh rời bỏ, vĩnh viễn, một giai đoạn khó quên, của quá khứ. Cũng là một cách, để nhật kí tác động vào thời gian, lần cuối cùng.

⚝ ⚝ ⚝

Tháng ba 1966. Chị Trinh kể: tối thứ ba sương mù, phố trắng xóa như khói. Em đi làm về, mỏi mệt vì sắp đến ngày sinh cháu, thấy cơm đã thổi, thấy nhà vắng vẻ. Chị Hòa tối thứ hai có dặn, là nhà em đang làm việc, cho anh Thái. Em phải tuyệt đối giữ bí mật, không được tò mò, những lúc nhà em đi đêm, về hôm. Chị Hòa 24 tuổi, mà đã sớm buồn. Một năm trước, chồng chị viết thư về, để chị bỏ anh đi. Nếu chị không lấy chồng khác, anh sẽ không quay về nhà. Mẹ chồng chị nhớ con trai quá, ngày nào cũng giục, chị lấy chồng mới, để con trai bà về với mẹ. Ban bảo vệ khu phố đề nghị: con dâu phải nghe lời mẹ chồng. Em cũng nói với chị Hòa: không phải lỗi của chị, mà ngược lại nếu chị không lấy chồng khác, chị sẽ có lỗi, với mẹ chồng. Chị đã mất chồng. Mẹ chồng chị cũng sẽ mất con trai. Có phải chị gây éo le, cho ba người khác. Anh bộ đội bốn túi, người đưa thư buồn tối hôm nào, cứ chủ nhật, lại đến thăm chị. Em gặp chị Hòa tối thứ hai, thấy chị buồn, hơn tôi chủ nhật. Tôi thứ ba, em chờ nhà em, đến 7 giờ tối, vẫn không thấy nhà em đâu. Em xẻ cơm ra, ủ vào trong chăn, để phần cho nhà em. Em ăn cơm một mình. Hơn 7 giờ, em ra khỏi nhà, khóa cửa cẩn thận, rồi đạp xe chầm chậm, qua nhiều phố rét, phủ đầy sương trắng. Em đã hẹn nhà em, tối nay lên thăm mẹ. Chắc nhà em lại bận việc của anh Thái. Mẹ chồng thấy em, thì mắng cho một trận. Bà cụ nói: “Sắp đến ngày sinh, mày còn đi xe đạp, không kiêng khem gì cả, có bữa tụt mất con, ngoài đường”. Buổi tối hôm ấy, em ngồi với bà cụ, giữa ba tấm liếp tre, với 500 khe hở sáng đèn. Đên gần 9 giờ, thấy cồn cào trong ngực, ngồi iên không được. Nên xin phép, ra về. Dọc đường, bụng ngâm ngẩm đau. Em cố gắng, đạp xe chầm chậm về nhà. Buổi tối rét, như kim châm. Phố đầy sương mù, trắng như khói. Em vội vã dựng xe, rồi mở khóa cửa. Nhà em vẫn chưa về. Nhà tối om. Bật điện, nhưng đèn không sáng. Em chỉ muốn đi nằm, nên dò dẫm, về hướng giường ngủ. Bất ngờ, một ánh đèn pin rọi thẳng vào mặt, làm em lóa mắt, chẳng nhìn thấy gì. Em mắng: “Khỉ vừa vừa chứ”. Nhưng không phải là nhà em. Mà là một cái bóng đen. Bóng đen hẩy em, sang một bên thô bạo. Em hét toáng lên: “Trộm! Trộm! Ối làng nuớc ôi! Kẻ trộm!” Có lẽ em hét to quá, cái bóng đen phải bỏ chạy ra cửa. Quên cả bụng chửa, chẳng nghĩ ngợi gì cả. Vừa đuổi theo nó, em vừa chạy, vừa tóm vạt áo tên trộm, vừa kêu, bằng toàn bộ sức lực. Em tóm được áo nó, rất chặt, rồi bỗng dưng, dưới chân em là một đống lủng củng, những cái gì không rõ. Em ngã sấp bụng, bị kéo đi, rồi rơi vào sương mù, không tìm thấy đâu nữa, bốn bậc thềm gạch lủng củng. Trong tiếng đổ vỡ, của những gì, rất cồng kềnh, như kim loại. Em đau lắm, chưa bao giờ đau như thế. Lúc tình dậy, thấy đang ngồi trên xiclô, thấy phố đầy sưong mù, trắng như khói. Đầu em ngả vai chị Hòa, máu ra ướt sũng, nhuộm tím toàn bộ chiếc quần. Nhiều ngày sau, chị Hòa kể: dân phố nghe tiếng kêu, đổ xô đến. Họ soi đèn, chỉ thấy em nằm sấp, như đang ngủ, trong một vùng máu tím, cùng chiếc xe đạp đổ, lủng củng, trên sân gạch tím. Ông Trung trố vớ được trong ngõ, một cái xiclô, không biết của ai, liền cùng chị Hòa, cho em lên xe. Đích thân ông đẩy xiclô, ra đầu ngõ, rồi lại đích thân ông đạp xiclô, xuống bệnh viện Bạch Mai.