← Quay lại trang sách

9 giờ khói

Chết tươi. Chết héo. Chết đau. Chết điếng. Chết cứng. Chêt đứng. Chết nằm. Chết đêm. Chết thêm. Chết khiếp. Chết dần. Chết mòn. Chết toi. Chết ngóp. Chết ngất. Chết tất. Chết cả. Chết lử. Chết lả. Chết đứ. Chết đừ. Chết ngay. Chết quay. Chết ngỏm. Chết ngoẻo. Chết thối. Chết nát. Chết hết. Chết sạch. Chết tái. Chết tím. Chết ngồi. Chết sáng. Chết chiều. Chết bỏ. Chết dở.

Nhật kí tiếp tục: đấy là bài học 36 món chết người của ông Trung trố, được hoàn thiện lúc 9 giờ 30, một tối thứ ba dễ nhớ. Ở địa chỉ cây-si-già-rễ-đỏ về, tôi đến nhà Đoành. Trên đường, rất nhiều khói trắng luẩn quẩn chân tôi. Tối nay tại sao khói ở đâu bỗng dưng tràn về, khắp thành phố. 7 giờ 30, Đoành đã quần áo tử tế, đang ngắm vuốt trước gương. Tôi nói: “Đi đâu?” Đoành nói: “Căng óc quá, tao định đi bát phố, rồi đi xinê buổi 9 giờ. Không ăn thua. Thằng Ngỡi cóc biết gì về Tình Bốp cả. Nó chỉ biết Tình Bốp hiểm hóc, thủ đoạn, cáo già, thầy dùi. Vậy thôi. Tao nghĩ suốt chiều nay. Tại vì mình không có mồi, không có mồi, không nhử được kẻ gian. Nên đã thấy nản. Nghĩ mà không ra mẹo”. Tôi cáu. Tôi biết tính thằng này. Tổ sư, chỉ bàn tính hão. Nó nói một lúc, cả thế giới không ai bằng. Bắt tay vào việc ngược lại, nó không bằng ai trên thế giới. Tôi nói: “Iên trí”, rồi móc túi, lấy cuộn phim, chụp lúc nãy. Tìm cái kéo, tôi cắt cho nó một pô. Nó soi lên đèn, không hiểu gì cả. Tôi giải thích chưa hết, nó đã hiểu ngay: bao giờ nó cũng hiểu rất nhanh. Nó nói: “Ăn rồi! Ăn rồi! Chúng mày chết với ông. Tang vật rành rành. Hóa ra bấy lâu nay, thằng Tình Bốp hại mày, là vì mảnh mùi soa tim la này. Bây giờ mày phải làm theo tao”. Rồi nó dạy tôi, làm như nó là người chỉ huy, làm như tôi là người thực hiện, làm như tôi và nó đã phân công hôm qua, như vậy. Nó dạy tôi như sau: 1, tôi phải bí mật đi báo công an. 2, tôi đem tang vật ra dọa Tình Bốp. 3, tôi dọa nhưng phải có kiểu dọa, là dọa miệng trước, rồi dọa bằng bản chụp, rồi cuối cùng mới bằng tang vật thật. 4, tôi dọa Tình Bốp hôm trước, hôm sau nó sẽ sang nhà Tình Bốp dọa tiếp. 5, tôi phải làm nhanh. 6, làm nhanh nhưng tôi phải bình tĩnh. 7, tôi được đem phim ảnh sang nhà Tình Bốp, nhưng tuyệt đối không đem tang vật theo người. 8, là vân vân. Tôi nói: “Đồng í, đồng í”, là đồng í cho qua chuyện. Bàn suông kiểu này, hết cả buổi tối. Đến lượt tôi chỉ huy lại nó. Tôi nói: “Bây giờ, mày sang ngay nhà Tình Bốp. Cho nó xem cái phim ảnh này. Mày giải thích với nó, là vợ thằng Dưỡng sắp đẻ, thằng Dưỡng cần tiền, muốn rao bán chiếc mùi soa. Mày rao giá bán. Để xem nó phản ứng thế nào? Mày bảo Tình Bốp nếu không mua, thằng Dưỡng sẽ bán cho công an”. Đoành xoa xoa hai bàn tay vào nhau. Nó nói: “Được, được. Dễ lắm”. Tôi nói: “Mày sang ngay đi. Bây giờ là sắp 8 giờ. Làm thế nào khoảng 9 giờ xong. Mày về. Tao sẽ sang nhà nó lúc 9 giờ 15. Nhớ chưa?” Đoành đứng nghĩ một lát. Lúc 8 giờ đúng, nó đổi nét mặt, đưa trả tôi cái phim. Nó nói: “Tao nghĩ lại. Không cần phim. Dọa mồm thôi. Nếu tao có cái phim trong tay, Tình Bốp sẽ thấy tao biết vấn đề sâu sắc quá. Tao sẽ trở thành một đối tượng phải thủ tiêu, ngang với mày. Thành nhân vật quan trọng ngang với mày, tao không dám”. Tôi nói: “Thằng này nhát. Thôi được. Mày đi đi! Nhớ xem đồng hồ!” Đoành đi luôn. Tôi cũng đi. Tôi phóng xe vào đám khói trắng, để sang nhà Ngỡi. Tôi muốn biết tình hình mới nhất.

8 giờ 10, tôi bước từ khói, vào hàng phở Ngỡi. 8 giờ 10, hàng vắng khách. Tôi vứt năm nghìn, bảo Ngỡi dọn mâm trong nhà, để hai thằng đánh chén. Ngỡi gọi vợ ra trông hàng, rồi đưa tôi vào nhà. Tôi ngắm ba gian nhà, thấy dán đầy khẩu hiệu, ảnh lãnh tụ, và 13 lá cờ của 13 nước xã hội chủ nghĩa. Ngỡi dọn mâm: mâm có đĩa cổ cánh gà, có hai bát xương bò hầm, có nửa chai rượu quê. Toàn bộ đàn ông khu phố gọi, đây là món Bốc Mả. Tôi và Ngõi ngồi đối mặt, chưa kịp bốc gì, Ngỡi đã nói: “Đàn anh gay đấy. Ông Trung trố lập án đàn anh, phen này rất nặng”. Nhưng chỉ nói vậy, nó cúi mặt gặm xương, rồi kể sang chuyện khác. Nó nói, Chắt đi làm được nhà máy bầu, là cá nhân xuất sắc, Tình Bốp vẫn bán càphê, cứ hai ngày lại gọi nó, đến hầu rượu một lần. Nó vừa kể, vừa ăn, vừa uống, vừa chạy ra chạy vào. Mâm rượu vì thế mà đuểnh đoảng. Đến 9 giờ kém 10, tôi ném cho Ngời hai nghìn, bảo cho các cháu ăn quà. Rồi hỏi luôn vào chuyện ông Trung trố. Nó gấp tiền bỏ vao túi áo, và nói: “Thế này đàn anh ạ. Ông Trung trố gọi đàn anh là phần tử nguy hiểm, và nghi vấn, số 1, của thành phố. Tất cả những gì đàn anh làm, theo ông, đều là diễn kịch”. Tôi nghe vậy, chỉ biết là không có gì mới. Không có gì mới, bởi vì ông Trung trố nhổ toẹt vào tất cả, mọi công sức lao động của tôi. Không đi làm, ông bảo tôi có sức khỏe, mà dối trá. Đi làm, ông kết án tôi đóng kịch. Tôi ngồi chết lặng, bên món Bốc Mả của Ngỡi, chả thiết bốc thêm gì nữa. Nhưng, sau đó tôi sống lại, vì sọ gọi tôi dậy. Đúng là, nhờ ông Trung trố, tôi vừa sống vài khoảnh khắc hiếm có. Là những phút, chết đi, sống lại. Là những cảm giác lạ, của người đã quen nhiều cảm giác lạ. Với ông Trung trố, tôi thường xuyên được nếm, những cảm giác hiếm có: là những lúc người ta đi vào cái chết. Nếu nhẩm tính lại, chết cũng có 36 món, i như trong thánh kinh, đủ để giết sạch, mọi mầm mống tích cực, tiêu cực, trong tôi. Cho nên tôi nhẩm đếm, trong lúc ông Trung trố mượn mồm thằng Ngỡi, tiếp tục lải nhải, dài 40 phút không nghỉ.

⚝ ⚝ ⚝

Đếm xong 36 món chết thành thục, tôi trở thành, phần tử nguy hiểm nhất thành phố. Mọi vấn đề của tôi, là do tôi đóng kịch. Cả chuyện thằng nhọn cằm. Cả chuyện ổ rắn giun, dưới chăn. Cả sinh mạng của tôi, bị đe dọa. Cũng là do tôi đóng kịch, để đánh lạc hướng công an. Khu phố và công an hẳn hài lòng lắm, nếu tôi đúng là kẻ gian thật, nếu tôi đúng là thằng đã bắn, phát súng năm trước, nêu tôi đúng là người của Phòng Nhì, cài lại. Tôi mất bảy nghìn tối nay, để được biết tôi là ai, cũng xứng đáng.

Sau 36 món chết người, nhìn đồng hồ đã 9 giờ 30, tôi đã muộn hơn kế hoạch 15 phút. Tôi đứng dậy chào ông Trung trố, và thằng Ngỡi, tôi về. Tôi phóng xe, qua đám khói trắng, sang nhà Tình Bốp. Tôi vừa đạp xe, vừa đếm lại 36 món chết người, mà ông Trung trố dạy tôi, từ một năm nay, nhưng bài học chỉ được hoàn thiện tối thứ ba vào lúc 9 giờ 30. Miệng tôi đếm được một món, chân tôi đạp được một vòng, đều đặn.

9 giờ 30, tôi đếm. Tôi đến đầu phố M. Tôi đến giữa phố M. Tôi đến cuối phố M. Tôi đến dưới một cột đèn. Tôi đến một ngã tư, láo nháo khói, láo nháo cột đèn và lá mùa đông. Ngã tư có bốn ngả: một ngả rẽ về nhà tôi, một ngả về nhà Tình Bốp, một về nhà Chắt, một về nhà Đoành. Tất cả chìm trong khói trắng.

9 giờ 35 ở ngã tư khói, tôi thấy người láo nháo trong khói, đầy lối vào ngõ nhà tôi. Cảm giác có chuyện bất thường, tôi bèn rẽ vào ngõ. Bác Mẫn vừa thấy tôi, vội nói: “Anh đạp xe ngay, xuống bệnh viện Bạch Mai”. Tôi đứng chết lặng. Bác Mẫn kể nhanh, chuyện gì đã xảy ra, tôi nay. Bác giục: “Sao còn đứng đấy. Anh xuống ngay, xem chị thế nào. Nhà cửa có chúng tôi trông. Tôi cũng đã cử người lên báo tin cho mẹ anh rồi”.

⚝ ⚝ ⚝

Lúc tôi kí tên, có lẽ 10 giờ tối, tôi không xem đồng hồ nữa. Ông bác sĩ, trong bộ blu trắng, khẩu trang trắng, mũ trắng, chỉ hở mỗi hai con mắt, giải thích cho tôi: “Tình trạng nguy kịch. Chúng tôi chỉ có thể cứu được một người thôi, hoặc mẹ, hoặc con. Anh quyết định ngay đi. Phải có chữ kí của anh, là người chồng”. Tôi đáp ngay: “Xin ông cứu cho người mẹ”. Và kí giấy, có lẽ vào 10 giờ tối. Tôi vào buồng mổ. Cốm nằm trên bàn mổ, trắng nhợt. Cốm vẫn mê man. Từ lúc vào đây, Cốm ngất đi ngất lại, mấy lần. Tôi đứng bên bàn mổ, trống rỗng trong lòng. Bác sĩ mời tôi ra ngoài. Tôi ra ngoài. Chị Hòa cũng phải ra ngoài. Rồi chị Hòa đi đâu mất. Còn lại tôi một mình, trong hành lang trắng nhợt. Tôi ngồi. Rồi không ngồi nữa. Tôi đi lại. Từ đầu hành lang, đến cuối hành lang. Tôi đi, từ cuối hành lang, về cửa phòng mổ. Dưới ánh đèn trắng nhợt. Tôi không nghĩ gì. Không muốn nghĩ gì. Lúc chị Hòa lộn lại, có lẽ là 11 giờ. Chị Hòa mặc blu trắng, cứ ngỡ cô i tá nào. Chị Hòa nói: “Anh Dưỡng ạ. Bệnh viện không cho người nhà ở lại đêm. Tôi đã mượn được bộ blu trắng. Tôi sẽ ở lại đây. Tôi ở lại, cho tới khi mọi việc không còn gì đáng lo ngại, tôi mới về. Bà cụ đến, tôi sẽ tìm cách đón vào. Anh nghe tôi, có thể lúc này ở nhà, bác Mẫn và anh Thái đang chờ anh. Anh về đi, như vậy được cả đôi đàng”. Giọng chị Hòa dịu ngọt. Bao giờ chị Hòa cũng ngọt. Tôi nói: “Trăm sự nhờ chị. Có gì, chị báo tin, cho tôi ngay. Chị tốt với vợ chồng tôi quá.” Nói rồi, rời hành lang trắng nhợt. 11 giờ 30 tôi về.

Những ngã tư và những cột đèn. Tôi đạp xe đêm láo nháo, trong đêm láo nháo gió, láo nháo khói, láo nháo bóng tối và ánh điện. Tôi nhớ cả lời nói, cả giọng nói, cả bộ blu trắng, cả hai con mắt, của bác sĩ. HOẶC MẸ-HOẶC CON. Thế là thế nào? Thế là, hoặc-mẹ-hoặc-con, thế là i như trong thánh kinh. Thế là tôi được một ngã tư. Thế là một ngã tư. Đời đầy những ngã tư. Tối nay, tôi đến ngã tư, đã chọn, hoặc-mẹ-hoặc-con. Tôi đã chọn MẸ. Tôi kí giấy. Tôi đã chọn, như tự nhiên như thế. Đêm đông rét lắm. Tôi đạp xe láo nháo, qua đám khói trắng, qua những ngã tư và những cột đèn. Một ngày dễ nhớ còn chưa kết thúc.

⚝ ⚝ ⚝

Tháng tư 1966. Đồng chí Thái kể: bây giờ tôi là nhân viên, cục phản gián. Tôi tương đối hài lòng về phương pháp làm việc: là sử dụng giả thuyết, chứ không đặt giả thiết. Kết quả cho thấy các đối tượng tôi nghi vấn, quả có phạm pháp thật. Hôm ấy hình như thứ ba. Có nhiều hiện tượng phức tạp và kì lạ. Nhọn-cằm bỗng dưng xuất hiện. Chỉ trong một buổi chiều, Nhọn-cằm tới tấp ném đi bảy, tám mệnh lệnh. Nhọn-cằm hẹn các cô gái đến chỗ hẹn, mỗi cô ở một địa chỉ, mỗi cô một giờ. Ví dụ cô Hoa 7 giờ tối, sẽ gặp Nhọn-cằm ở vườn Bách Thảo, cạnh chuồng khỉ. Cô Lựu 8 giờ sẽ ở vườn hoa Nhà Kèn. Cô X, 8 giờ 30 trước cửa trường đại học. Cô P, 9 giờ 30 ở bờ sông, dưới cột đồng hồ. Vân vân. Nhọn-cằm đích thân đi bộ, không hiểu sao, chọn đúng lúc cô Hoa đang một mình, để ném bao thuốc lá vào hàng càphê vắng. Để tiếp cận các cô gái khác, Nhọn-cằm thuê tiền các em nhỏ, trong phố, dặn đưa tận tay. Không hiểu vì sao, Nhọn-cằm lại sơ hở như vậy. Khoảng 6 giờ tối, đồng chí Tóc Bạc và đồng chí Trần B đã nắm được hết tin tức. Nhưng đồng chí Trần B có vẻ nghĩ ngợi. Gần 4 giờ 30 chiều, lão Khang đến địa chỉ bí mật. Lão móc túi, đưa đồng chí Trần B, một mảnh giấy nhỏ. Nêu tôi nhớ không nhầm, trên giấy ghi như sau: “Tối nay, đóng cửa hiệu sách. Đúng 7 giờ, ông bắt đầu rời nhà, ra phố. Đi bộ, đi đâu tùy í. Đúng 9 giờ, vào xem chiếu bóng, tại rạp E. Vé đã mua kèm theo đây. Tan buổi chiếu, sẽ thấy tôi đón ngoài cửa rạp. Hãy lẳng lặng đi theo tôi. Xem xong hủy ngay. Nhọn-cằm”. Bức thư không viết tay, mà chắp lại những chữ cắt rời, từ báo, như sắp chữ nhà in vậy. Tất cả các thư Nhọn-cằm gửi chiều nay, đều được lắp ghép, theo cùng một cách. Lão Khang khai, buổi chiều khoảng 4 giờ, lão tìm thấy mẩu giấy, và cái vé chiếu bóng, đặt trên bàn nhà lão, dưới chiếc gạt tàn. Chưa bao giờ Nhọn-cằm tiếp cận lão theo cách này, làm lão chột dạ. Lão lo sẽ bị Nhọn-cằm thủ tiêu, đêm nay sau buổi chiếu phim, cũng có thể ngay trong buổi chiếu. Lão sợ, không dám đi. Nhưng không đi, cũng chết. Đồng chí Trần B nói: “Đúng. Không đi càng lộ. Nhưng tôi hỏi ông. Ông có thực bụng, lập công chuộc tội không?” Lão Khang nghe vậy tái mặt, rồi lồng lên cuống quít. Lão thề đêm nay, sẽ một lòng một dạ, vì chính phủ, có chết lão cũng sẵn lòng. Trước khi lão Khang về, đồng chí Trần B không đặt kế hoạch gì, cho lão, đồng chí chỉ nói: “Ông báo tin kịp thời thế này, là rất tốt. Coi như là một công. Còn ông đi hay không, là tùy ông quyết định”. Lão Khang ra về, nếu tôi không nhầm, là 5 giờ 15.

Càng về tối, trời càng lạnh, gió đông bắc thổi càng mạnh. Đồng chí Trần B hỏi tôi: “Theo cậu lão Khang hàng thật hay hàng vờ?” Tôi nói: “Thật”. Trong công tác, chúng tôi thường xuyên gặp, những trường hợp khó khăn, giống như đứng trước ngã ba ngã bảy, phải tiếp tục đi, mà không biết chọn ngả nào. Ví dụ, chuyện lão Khang: biết đâu lão đang đánh bẫy chúng tôi. Biết đâu lão chính là tên cầm đầu cả bọn. Vẻ ngoài nhút nhát của lão, cũng biết đâu, chỉ là trò diễn kịch khéo léo. Cuộc chơi của Nhọn-cằm tối hôm ấy, cố tình bày ra trước chúng tôi, biết bao lối rẽ. Buổi tối sắp tới nơi rồi, chúng tôi vẫn không xác định được Nhọn-cằm sẽ hành sự ở ngả nào, chúng tôi sẽ đi ngả nào, bỏ ngả nào? Lại còn những ngả khác nữa. Chúng tôi không thể đủ người, cho tất cả các ngả. Tôi nói, với đồng chí Trần B: “Tôi nghĩ Nhọn-cằm làm nghi binh. Ắt nó đang nghiền ngẫm, một việc gì táo tợn và cấp thiết, buộc nó phải làm trong tối nay, bằng bất cứ giá nào. Đêm nay phải có chuyện gì. Không loại trừ khả năng có án mạng”. Đồng chí Trần B gật đầu. Chúng tôi bàn xong kế hoạch, trời cũng vừa ập tối. Nếu tôi nhớ không nhầm, vừa đúng lúc ấy, điện thoại reo trên bàn. Đồng chí Trần B nhấc máy, và quay sang tôi, làm hiệu, bằng cái mồm tròn lại, và mấp máy không thành tiếng. Tôi có thể đoán được, là đồng chí muốn phát âm chữ “Bố”. Bố, tức đồng chí Tóc Bạc, phụ trách toàn bộ phòng phản gián bộ nội vụ. Tôi đoán đồng chí Tóc Bạc đang ra chỉ thị. Lúc ấy hình như, 6 giờ 10. Đồng chí Trần B đặt ống nghe xuống. Đồng chí nói: “Bố dặn phải cẩn thận. Phải ngăn chặn những án mạng thủ tiêu đầu mối, có thể xảy ra trong đêm nay. Bố dặn, đừng để chúng giết nhau. Nay mai bắt chúng lao động, sản xuất, trong tù, có lợi cho xã hội hơn. Bố dặn, phải chú í ở phía Tình Bốp”. Thế là còn ít phút nữa, chúng tôi sửa, và bổ sung kế hoạch đã bàn. Buổi tối tràn xuống bao la, buổi tối rét buốt và lồng lộn gió. Chúng tôi chờ, để xuất phát.

Hôm ấy hình như thứ ba. Tôi tìm được hơn 30 trang, ghi chép sự kiện trong hồ sơ lưu trữ, chỉ riêng cho một ngày thứ ba ấy. Cậu Dưỡng ngay từ đầu giờ tối, đã nằm dưới sự giám sát của chúng tôi. Lúc Dưỡng ngồi trong nhà Ngỡi, trinh sát của tôi mặc thường phục, súng ngắn giắt trong người, đã lảng vảng bên ngoài. Cậu trinh sát, tên là Quỳnh, cũng chính là người đã để xổng tay Nhọn-cằm, ở ngôi nhà ba cổng, vào cái đêm nọ. Lúc đồng chí Trần B giao nhiệm vụ, cậu Quỳnh thấy lạ lắm. Nêu tôi nhớ không nhầm, cậu nói: “Tôi phải theo sát thằng tàu bò? Theo sát, nghĩa là vừa ngăn cấm nó làm bậy, vừa phải bảo vệ nó. Nhưng vì nhiệm vụ, iên trí, sớm mai tôi sẽ trao trả thằng tàu bò lại, cho các anh. Nguyên xi, một cái lông không suy chuyển”. Đồng chí Trần B nói: “Không được để thằng tàu bò đi đâu, không có giám sát. Và được phép sử dụng súng”. Sớm hôm sau, cậu Quỳnh về báo cáo. Cậu đã theo Dưỡng, bằng xe đạp, xuống tận bệnh viện Bạch Mai. Cậu Quỳnh thấy lạ nhất, là cậu đi theo sát sạt như thế, mà Dưỡng không hề để í có người đi theo. Dưỡng đạp xe ngoằn ngoèo, rất nhanh trong phố, làm cậu Quỳnh không còn cách nào, cũng phải bám sát theo sau, có lẽ không được bí mật cho lắm. Tôi cũng mường tượng được, những khó khăn, mà cậu Quỳnh đã gặp. Ví dụ, để lọt qua cổng bệnh viện, mà không xuất trình giấy tờ, cho gác cổng, và không được để mất dấu cậu Dưỡng. Ví dụ, để theo được Dưỡng, vào tận hành lang phòng mổ, là cả một bí mật lớn, của nghề trinh sát phản gián. Cậu Quỳnh báo cáo, không có đối tượng nào tìm cách tiếp cận Dưỡng, như một dấu hiệu không may cho trinh sát, giống hệt như buổi đêm không may, trước cửa ngôi nhà ba cổng, lần trước. Không có gì xảy ra cả. Khoảng 11 giờ 30, Dưỡng rời bệnh viện, đạp xe rất nhanh, nhưng cũng rất ngoằn ngoèo, về nhà. về đến nhà, quá nửa đêm giờ tí. Nhưng chỉ được gần 3 phút, Dưỡng lại đạp xe, lên đập cửa nhà bác Mẫn, sau này tôi biết, là để báo cáo với bác, kế hoạch của cậu với Đoành, buổi tối hôm ấy. Sau đó Dưỡng về nhà, bật điện sáng trưng, rồi đem rượu ra uống. Trong có vẻ trầm tư, trái ngược với bộ quần áo, và dáng vẻ bên ngoài. Đêm ấy, Dưỡng mặc quân tuýp, áo budông ngắn cũn cỡn, tóc càn càn kiểu Đông Đức. Dưỡng hút thuốc, như cái ống khói nhà máy. Nhưng lúc ngồi một mình uống rượu, trong khói thuốc mịt mù, trông lại ngoan ngoãn, như học sinh. Cậu Quỳnh nhận xét như vậy. Tôi hình dung cậu Quỳnh, ngồi trên một cành cây, ngoài vườn, trong đêm rét. Lúc lúc, lại lấy gói bánh mì giò mỡ ra ăn, cho ấm người. Ngoài cửa sổ, cậu Quỳnh nhìn rõ Dưỡng đi đi, lại lại, trong đám khói thuốc, dày đặc và trắng xóa như sương mù, nhưng rất thường xuyên ra đứng soi gương. Không biết có phải là một tật xấu, không bỏ được của Dưỡng? Khoảng 1 giờ 15, Dưỡng vận áo khoác Raclăng, tắt điện, đóng cửa, đi ra phố. Lần này Dưỡng đi bộ. Cậu Quỳnh cũng đi bộ. Xe Quỳnh phải bỏ lại, cho may rủi, mất thì thôi. Dưỡng đi bộ lung tung: Bờ Hồ, vườn hoa. Sau đó ăn phở. Sau đó lại đi bộ lung tung, trong phố Hàng Bạc, ngõ Tạ Hiền, phô Hàng Giầy, rồi ra bờ sông. Bờ sông buổi đêm, gió thổi từ miền đông bắc, về qua sông Hồng, lạnh khủng khiếp. Bờ sông buổi đêm, không một bóng người. Không có gì đặc biệt xảy ra, cậu Quỳnh để chấm hết bản báo cáo, có nhận xét thêm một í kiến cá nhân, là cậu không hiểu, Dưỡng đi bộ như thế, để cho chương trình lãng mạn nào?

⚝ ⚝ ⚝

Tôi không lãng mạn. Nhật kí tiếp tục: thế mà tôi đi thấu sáng. Trong mịt mù khói trắng. Chân tôi đi đâu tôi theo đấy. Chỗ nào cũng khói. Chân đưa tôi lên Giám. Trên Giám có ngã tư Giám. Ngã tư Giám rét. Ngã tư láo nháo khói. Ngã tư láo nháo bóng tối với tường cổ. Ngã tư láo nháo gió và lá. Chân đưa tôi sang ngả bên phải. Bên phải đầy những ngã tư và những cột đèn. Tôi tới Cửa Nam. Cửa Nam có ngã tư Cửa Nam. Ngã tư ngày xưa bây giờ thành ngã sáu. Ngã sáu rét. Chân đưa tôi đến Bờ Hồ. Bờ Hồ có bến xe điện đêm. Có tháp Rùa rét nhập nhòa trong khói trắng. Bờ Hồ không phải ngã tư. Bờ Hồ là cái vòng tròn quay tròn không bao giờ kết thúc. Tôi đi bộ vòng tròn. Thế nào lại thoát được vòng tròn. Nhưng tôi lại gặp ngay một ngã tư. Là ngã tư Hàng Khay. Tôi lại gặp những cột đèn. Nhưng không nhìn chúng. Tôi cứ đi đi. Té ra tôi gặp phố Nhà Thờ. Phố Nhà Thờ có nhà thờ. Nhà thờ láo nháo gió và láo nháo bóng tối. Nhà thờ nhập nhòa trong khói trắng. Tôi vào phố Hàng Bông. Phố vắng. Không vui không buồn tôi không nghĩ gì. Tôi cứ đi đi. Trong lúc đi như thế này Cốm đang nằm bệnh viện. Cái thai đang chết: cái thai đang chết. Cái thai là con tôi. Là con của Cốm. Tôi chưa được thấy mặt nó: để biết nó giống tôi hay giống Cốm. Khổ thân con tôi. Khổ thân Cốm đang nằm nhợt nhạt. Trên bàn mổ nhợt nhạt, Cốm nằm im. Để tôi chọn hoặc mẹ hoặc con. Đời tôi kì lạ đầy tai nạn. Đời mọi người bình thường không biết có nhiều ngã tư. Tối nay tôi đến một ngã tư. Tôi kí tên để con tôi chết. Tối nay tôi đi bộ qua nhiều ngã tư. Nội thành nhiều ngã tư. Đời tôi cũng vậy. Nội thành láo nháo sao mà lắm gió. Sao mà nhiều lá. Sao mà nhiều khói. Tối nay tôi đã chọn sai đường ngã tư. Nếu rẽ ngả khác: tôi đã không nhậu nhẹt với thằng Ngỡi. Nếu chọn ngả khác: tôi đã về nhà trước Cốm. Tôi đã tóm được một trong những thằng thủ phạm. Tôi đã có thể tối nay đi đàng này đàng kia. Đi đàng kia thì ra thế nọ. Mà đi đàng nọ lại ra thế này. Quả là gay go cho những bước chân trên ngã tư. Nếu tối nay chân tôi đi đàng nọ chứ không phải đàng kia: tôi sẽ ở nhà cùng Cốm. Đèn nhà tôi sẽ bật sáng. Kẻ gian sẽ không dám vào. Sẽ không xảy ra chuyện gì. Nhưng biết đâu nếu tôi ở nhà tối nay: tôi đã có lẽ bị thủ tiêu. Cùng với Cốm. Lúc này mấy giờ: không quan trọng. Tôi đã lỡ kế hoạch với Đoành. Lúc này mấy giờ: tôi không xem đồng hồ. Tôi ghé một quán phở đêm. Bởi vì trên phố tôi gặp quán phở đêm. Nhưng cũng chẳng bởi vì cái gì cả. Tôi lại đi. Tôi gặp những nốt chân. Trên những ngã tư khói. Chẳng lẽ tất cả đều nốt chân tôi? Nốt chân người rẽ ngả này: lát sau ôtô thế nào cũng xóa mất. Nốt chân người rẽ ngả kia: biết đâu nốt chân gặp vườn hoa. May rủi hóa ra đều nằm cả dưới đế giày. Để đế giày đưa chân tôi ra tận bờ sông. Tôi đi dọc bờ sông. Gió sông Hồng mới thật sự khủng khiếp. Tôi mà đi mãi thế này thế nào cũng đi hết bờ sông. Thế nào cũng rơi vào biển. Nhưng tôi không đi hết bờ sông. Không đi xem biển khói. Tôi quay lại tìm phố. Tôi nhớ: tôi đã rẽ nhầm một ngã tư. Ngã tư đưa tôi đi ngụy. Ai đã rẽ nhầm một lần thì cứ nhầm mãi. Bởi vì ngã tư này nối ngã tư kia. Nhưng tại sao không thể đi ngược về ngã tư đầu? Tôi đi ngược bờ sông. Về phố. Tôi đi ngược phố. Về một ngã tư. Tôi lại gặp Bờ Hồ. Tôi lại đi đi. Bờ Hồ là cái ngả tròn tròn. Để tôi lại đi tròn tròn xung quanh tháp Rùa đêm. Tháp Rùa đêm nhập nhòa trong khói đêm. Tôi xòe diêm châm thuốc. Khói thuốc bay đi. Lẫn vào phố khói. Tôi lại thoát khỏi Bờ Hồ tròn tròn. Bằng một ngã tư. Nhưng không phải ngã tư Hàng Khay. Ngã tư này nhiều cột đèn Có những cột điện sáng đèn. Có những cột điện không đèn. Những cột đèn nối những cột đèn. Bằng những đường dây điện màu đen. Thành một mạng cột đèn. Cả mạng cột đèn có nhiều đèn. Cả mạng cột đèn có một mạng đèn. Mạng đèn soi soi mạng ngã tư. Không có đèn khó mà tới được ngã tư. Không có đèn thế nào cũng va vấp. Có khi ngã sái chân. Có đèn dễ đi. Dễ đi: nhưng vẫn có người vấp vẫn có người ngã. Người lầm phố. Vẫn có những tai nạn giao thông. Trong một kiếp người, vẫn có những nhầm lẫn ngã tư cũng trong một kiếp người. Bởi vì chiếc xe ấy đã có thể rẽ nhầm ngã tư ấy. Và một người nhầm lẫn đã đến phố ấy trong buổi chiều ấy. Đã nhầm đúng vào giờ ấy. Tôi đưa tay lên sọ. Không phải vì đau đầu. Tôi lại dừng chân bên một ngã tư: tôi rụt rè không định rẽ ngả nào. Biết đâu rẽ ngã tư kia tôi không gặp gió độc? Biết đâu ngả nào không gió thổi? Tôi đưa tay lên sọ. Tôi đứng im: hình như giữa một ngã tư. Tôi không có cả một ai để bắt chước. Tôi đến dưới một cột điện sáng đèn. Nhưng tôi nghĩ lung tung rồi. Tôi giẫm phải bóng tôi trong phố. Bóng tôi đêm nay lúc nào cũng im. Không qua ngã tư: bóng im. Tôi qua ngã tư: bóng im. Rẽ ngả nào bóng cũng im. Bây giờ mấy giờ. Tôi biết: tôi đã lỡ kế hoạch tối nay. Với Đoành. Không cần xem giờ nữa. Bởi vì tôi đi thấu sáng. Không nhìn ai nữa. Bởi vì tôi đi mãi ngoài phố mà chẳng gặp ai. Để nhìn. Nhưng nếu tôi có gặp ai: cũng không ai biết đêm nay tôi mất cái gì. Tôi qua ngã tư Cửa Nam. Ngã tư Cửa Nam đầy khói. Để không thể đếm bao nhiêu nốt chân trên ngã tư. Ai đếm bao nhiêu nốt chân khôn dại. Bao nhiêu nốt chân vui buồn? Ai đếm những ngã tư đời láo nháo nốt chân. Láo nháo cột đèn láo nháo đèn? Đời tôi đã rẽ rồi. Như đã hạ nước cờ không sao đi lại được. Nhưng tại sao tôi cứ ám ảnh: cái ngã tư tại sao ấy. Tôi quên không được. Đi đi không được. Tôi ngồi bệt lề đường. Tôi là đàn ông: tôi không đau khổ. Nhưng tôi muốn khóc. Tôi là đàn ông: tôi không khóc. Nhưng tôi đau khổ lắm. Tôi ngồi bệt mà nhìn láo nháo cột đèn. Láo nháo khói. Láo nháo hàng cây bên đường lá rụng. Tôi nghe gà gáy te te nội thành. Chỗ tôi ngồi không xa có vườn hoa Canh Nông. Tôi lảo đảo dậy: tôi đi tìm vườn hoa Canh Nông. Tôi vào vườn hoa. Tôi ngồi ghế đá. Ghế đá lạnh. Gà gáy te te. Phố bắt đầu mất khói. Vườn hoa cũng bắt đầu hết khói. Là rạng đông rồi. Tôi không mệt. Buồn ngủ cũng không. Tôi đã nói rồi: tôi đi thấu sáng. Bây giờ tôi ngồi. Cùng với rạng đông. Trong một vườn hoa.

Trong một vườn hoa. Qua đêm, nội thành lắng xuống, tất cả tiếng động, và bụi bặm của nó. Rạng đông lên êm ả. Rạng đông trắng nhờ. Tôi bỗng dưng iên tĩnh. Tôi chưa nghĩ gì mạch lạc. Nhưng tôi iên tĩnh. Quanh tôi, nhiều hoa lắm. Hoa đọng đầy sương đêm. Cả lá, cả cành, cả cuống hoa, cũng đọng đầy sương. Cả những luống hoa cũng làm bằng sương. Cả hạt sỏi trên con đường sỏi, cũng làm bằng sương, và bằng ánh sáng của buổi sớm. Sợi cỏ run rẩy. Chim líu ríu. Nhưng tôi không nghe chim líu ríu. Không nhìn sợi cỏ, không nhìn hạt sỏi, luống hoa, không nhìn cả cành, cả lá, cả hoa. Nhưng tôi vẫn biết có tất cả những thứ ấy. Có cả hương sớm của phù dung, hồng đỏ và của rạng đông. Tôi không nghĩ gì cả. Chỉ tự dưng lắng xuống. Tôi ngồi, êm ả trong rạng đông, trong một vườn hoa. 9 giờ khói kết thúc. Tôi cũng kết thúc một ngày dễ nhớ.