HẠ BỆ VÀ SUY TÔN
Khi cử ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng, Quốc Trưởng Bảo Đại giao liền toàn quyền dân sự và quân sự (Sắc Lịnh 38/QT ngày 16 tháng năm 1954).
Sự ủy quyền vô hạn như thế có thể giải thích là một cách gián tiếp thú nhận thất bại, hay một cử chỉ trút gánh của người hữu trách đầu hàng thời cuộc?
Hoặc là vì tình thế bi đát đến nỗi người được phó thác nhiệm vụ quá nặng, thấy cần có quyền hành xứng đáng mới chịu đảm lãnh công cuộc cứu vãn?
Hai giả thuyết đó, tuy thoạt tiên có vẻ hữu lý, đã sớm bị phủ nhận do những sự thật khó lòng che đậy.
Một người quen chi phối qua những trung gian dễ bảo, giữ quyền tối cao với trách nhiệm tối thiểu, lại được sự phù tá đặc lực của vị quân sư khéo tay dàn cảnh: Rồi hễ thấy trái ý, hết lợi, hay không lo nổi việc đỡ đòn, thì bày trận mê hồn, cậy La Sát đẩy Thiên Lôi, vời Long Thần đuổi La Sát...
Bạn S, Bảo tôi:
- Ba họ Nguyễn, một họ Trần đã mắc mưu. Bù nhìn của bù nhìn, thì phải như thế.
- Như thế mãi hay sao?
Các điện tín hay công hàm vẫn được gửi từ Lâu Đài Thorence về Dinh Độc Lập, để khuyến dụ về vấn đề này hay biến chuyển khác, mỗi lần đều theo lối bắn tin, nghĩa là chẳng bao giờ Quốc Trưởng nói thẳng cho Thủ Tướng, mà chỉ để cận thần nhắc lại: Đức Quốc Trưởng nhận xét rằng, Đức Quốc Trưởng nghĩ rằng, Đức Quốc Trưởng yêu cầu rằng...
Rằng cần mở rộng nội các, rằng nên mời Tướng Bảy Viễn tham gia, rằng không nên thay thế Tổng Tham Mưu Trưởng, rằng hãy để nguyên tổ chức Hoàng Triều Cương Thổ v.v...Cứ như rứa, thì còn đâu là toàn quyền đã ủy? Sao Quốc Trưởng không về làm lấy cho xong?
- Ông Khải Định có sống lại mà bảo, chưa chắc dám về. Để cho ở bên nhà lục đục rọ cua, thì mới còn kẻ này kẻ kia đi mách đi tâu và xin can thiệp, chớ nếu anh Bảy hay ông Năm lại ăn cánh với ông Diệm mà huề cả làng, thì chẳng ai cần thủ chỉ tài nữa, lúc đó không khéo nguy...
S đã gán cho nhà lãnh đạo, -lãnh đạo theo lối hàm thụ từ Pháp,- một dụng ý mà chính ông Ngô Đình Nhu về sau cũng nhận rằng không phải là dại, khi đến lượt ông này phải nghe phàn nàn về một số cộng sự hay có chuyện bất hòa, hay mách hay thưa.
Dẫu sao, về phía ông Ngô Đình Diệm, thì đòi toàn quyền là sự dĩ nhiên, giá thử tình thế không nguy nan chăng nữa. Ai đã từng hiểu biết ông, chắc cũng thấy là không thể khác. Đành rằng khi đó ông chưa tin hẳnh và sứ mạng hay thiên chức cứu tinh như về sau này; nhưng đối với ông, Quốc Trưởng không rõ thực trạng xứ sở, lại chịu áp lực của ngoại nhân, hay sự huyễn hoặc của nhiều phe nhóm: Ông chỉ tin ở chính mình, nên mọi việc phải do ông tự ý quyết định. ‘’Bà Nam Phương thì còn tốt, chứ ông ấy thì hư hỏng, chỉ ham chơi, có đức thì mới đáng có quyền.’’ Ông đã phê phán như vậy, thì khi nào chịu ép mình và nhận một phần quyền như các ông Trần Văn Hữu hay Nguyễn Văn Tâm? Vả lại, những người thân tín của ông đều muốn ông được rộng tay hành động để đổi ngược hẳn chính sách cũ mà họ thường chê trách từ lâu. Phải ra khỏi Liên Hiệp Pháp, đi thẳng với Hoa Kỳ, lập một chính thể mạnh mà ai cũng coi là điều kiện ưu tiên để chống Cộng.
Quốc Trưởng Bảo Đại đã thừa biết lập trường của ông Diệm ngay từ khi tiếp xúc tại Hồng Kông vào năm 1949.
Vậy khi với ông Diệm lập chính phủ, phải chăng Quốc Trưởng muốn thay đổi chánh sách theo hướng ông Diệm hay sao?
Chứ đời thuở nào ai giao toàn quyền cho một người có chủ trương trái hẳn của mình, trừ trường hợp bị cưỡng bức?
Sự bất đắc dĩ của Quốc Trưởng Bảo Đại trước sự can thiệp của nước ngoài, đã được gợi trên báo chí ngoại quốc hồi đó, và còn được xác nhận do vài nhà bình luận thời cuộc trong những cuốn sách vừa xuất bản ít lâu nay tại Pháp và Hoa Kỳ.
Song chẳng cần tra cứu, và chỉ nhớ lại những việc đã xảy ra cũng thấy rõ sự miễn cưỡng: Một đàng phải cho thì vội tiếc và cố giành lại; một đàng đã đòi thì lấy thiệt mà không khi nào chịu trả, không hề có sự tương đắc tri ngộ cổ điển giữa hai người chung cuộc.
Điều bất thường ít thấy trong lịch sử, là người thụ ủy ở đây không nhận quyền để tiếp tục hoặc thi hành chánh sách của người ủy thác, nhưng chính là để phủ nhận, biến cải, hay hủy tiêu những gì thuộc chánh sách đó.
Một trong những công việc đầu tiên của Thủ Tướng mới, là gạt bỏ những người được Quốc Trưởng tin dùng xưa nay: Các Thủ Hiến ba Phần (ngày 9 tháng 7 năm 1954 và ngày 4 tháng 8 năm 1954) Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn (ngày 6 tháng 8 năm 1954) Tướng Tổng Tham Mưu (ngày 10 tháng 9 năm 1954).
Những biện pháp quyết liệt đó gây nhiều xúc động. Quốc Trưởng thấy cần chế ngự, nên đòi mở rộng chánh phủ vì lý do đại đoàn kết, nhưng thực ra để đưa vô tham chánh một số người thân tín của mình hoặc đối lập với Thủ Tướng. Có như vậy mới mong chia xẻ bớt quyền hành quá rộng, hay ngăn cản những dự định trái đường lối cũ, nhất là đối với những tổ chức và nhân vật ủng hộ Quốc Trưởng.
Ông Ngô Đình Diệm không chấp nhận các Tướng Lê Văn Viễn, Nguyễn Văn Hinh và Nguyễn Văn Xuân, chỉ mời tham gia nội các cải tổ ngày 24 tháng 9 năm 1955 một số lãnh tụ Hòa Hảo và Cao Đài. Nhưng Thủ Tướng lại vội đặt vấn đề gay go, là sáp nhập vào Quân Đội Quốc Gia những lực lượng riêng mà các đảng phái muốn duy trì bằng môi cách để làm phương tiện tự vệ tranh đấu (ngày 9 tháng 10 năm 1954).
Ngày 19 tháng 10 năm 1954, Thủ Tướng còn gửi điện văn chúc vạn thọ Quốc Trưởng, song không khí mỗi ngày một nặng nề hơn. Quốc Trưởng nhiều lần ngỏ ý muốn chánh phủ hòa hoãn trong việc đối nội và đối ngoại, nhưng nhiều người hiểu rằng Vua Lê 1954 chỉ nhằn nâng đỡ vài phe nhóm để mượn sức chư hầu át bớt thế lực của một Chúa Trịnh quyền khuynh thiên hạ.
Để đáp lại, Chúa ban hành một loạt biện pháp ngăn chặn nguồn lợi chính của các đoàn thể võ trang và cắt xén vây cánh của Vua: Sòng bạc Đại Thế Giới bị đóng cửa từ ngày 15 tháng 1 năm 1955; - trợ cấp mà Quân Đội Pháp trước kia vẫn trả cho các lực lượng giáo phái, không được Ngân Sách Quốc Gia đài thọ;- phái đoàn quân sự Pháp phải nhường từ ngày 12 tháng 2 năm 1955 cho phái đoàn quân sự Mỹ TRIM việc tổ chức và huấn luyện Quân Đội Việt Nam; - bị chấm dứt, nhiệm vụ Khâm Mạng của ông Nguyễn Đệ, và nhiệm vụ Tổng Thơ Ký tại Hoàng Triều Cương Thổ của các Cai Trị Pháp Didelot và Ecarlat (ngày 24 tháng 3 năm 1955).
Quốc Trưởng yên trí là đã trót giao hết quyền rồi, nên cố tìm cách rút lại. Nhưng đối với Thủ Tướng, toàn quyền đó mới có trên giấy tờ và còn chờ thực hiện trên căn bản thống nhất: Thống nhất quân đội, không thể có những lực lượng riêng biệt; thống nhất hành chánh, không thể có địa phương tự trị, thống nhất tài chánh, không thể cho thâu những sắc thuế do mỗi vùng tự động đặt ra (Tuyên bố ngày 21 tháng 3 năm 1955). Khốn nỗi, Chúa Trịnh diệt Mạc và thu giang sơn về một khối, đâu phải để dâng lại Vua Lê? Bên cạnh nhà vua, thiếu chi những ông Nghè thuộc Sử?
Nên cái hố giữa Quốc Trưởng và Thủ Tướng càng bị đào sâu, và có lẽ rộng bằng từ Sài Gòn sang Cannes. Cuộc xung đội bắt đầu bằng tuyên bố, thông điệp và điện văn giữa hai nhà lãnh đạo, được các phe liên hệ ùa theo, lan tràn từ các văn phòng ra các phố phường, rồi cuộc đấu khẩu đưa tới đấu võ, đêm 24 tháng 3 năm 1955, súng nổ dậy Đô Thành.
Quốc Trưởng giục Thủ Tướng thực hiện thực hiện đoàn kết. Thủ Tướng đặt ra Sở Cảnh Sát Sài Gòn, hoàn toàn biệt lập đối với Tổng Nha Cảnh Sát Công An do một yếu nhân Bình Xuyên điều khiển. Các đảng phái nhóm họp và đòi chánh phủ thực thi dân chủ. Hội Đồng Tôn Nhân Phủ ở Huế lại gửi điện ủng hộ Thủ Tướng và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia yêu cầu Quốc Trưởng can thiệp để chấm dứt nạn ‘’thập nhị sứ quân’’ Quốc Trưởng cử một Tướng làm Tổng Tham Mưu Trưởng và triệu Thủ Tướng qua Pháp trình bầy về tình thế, trong khi Công An Xung Phong của Bình Xuyên tấn công ở Sài Gòn. Hội Đồng Các Tướng Lãnh yêu cầu Quốc Trưởng giữ nguyên Tướng Lê Văn Tỵ ở chức vụ Tổng Tham Mưu, và Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng đòi truất phế Quốc Trưởng. Nhiều cuộc biểu tình được tổ chức ở Đô Thành, ở Huế và nhiều Tỉnh lỵ để ủng hộ Thủ Tướng. Hàng chục bài báo công kích Quốc Trưởng và nhiều biểu ngữ khẩu hiệu được treo hay viết trên tường để mạt sát một người không còn được gọi là Đức: ‘’Bảo Đại hại dân’’ hiện nay mấy chữ đó còn có thể nhận ra ở tường bót gác cầu Công Lý, sau tấm bia ghi ranh giới Gia Định-Sài Gòn.
Một Ủy Ban gồm các đại diện mười lăm đoàn thể đề nghị mở cuộc trưng cầu dân ý để truất phế Quốc Trưởng và suy tôn Thủ Tướng (ngày 4 tháng 10 năm 1955).
Để đối phó, Quốc Trưởng từ Cannes ra sắc lịnh -bấy giờ mới ra, - chấm dứt nhiệm vụ Thủ Tướng (ngày 18 tháng 10 năm 1955).
Quyết định này chẳng được mấy ai chú ý, và chỉ có tính cách một cử chỉ tuyệt vọng của người tự vệ đến cùng, hoặc một văn kiện gượng gạo chống án tử hình gửi vào lúc chót.
Vì ngày 23 tháng 10 năm 1955, những con số chánh thức về hàng triệu lá phiếu được Bộ Nội Vụ đưa ra khai nguyên trào mới, cắt đứt một cuộc ép duyên chánh trị hay một vụ ủy quyền không tiền khoáng hậu.
‘’...tôn quân, bảo hoàng, trung thành với Ngài...’’ nếu ông Nguyễn Hữu Trí còn sống, chắc phải rút lại điều đã nói vào tháng 7 năm trước.
Vấn đề trung thành đáng lẽ không nên đặt ra. Vì lòng trung thành của cá nhân đối với cá nhân là mối dây thiêng liêng ràng buộc con người trong đời tư hoặc ở thời phong kiến xa xôi, không còn là bổn phận của chính khách đối với chính khách trên trường chính trị thời nay: Phong tục của chính giới dân chủ Châu Âu đã lan sang Châu Á, nên những thái độ hay hành vi dễ bị người xưa coi như phản bội, được hiểu là sự thay đổi lập trường mà người tranh đấu tin là có quyền quyết định, khi ý kiến không còn được tán đồng, hoặc khi tình thế đã biến chuyển và đòi hỏi sự canh cải thích ứng phụng sự một lý tưởng chứ còn ai phụng sự một con người? Ngụy biện hay không là chuyện khác.
Nhưng ông Ngô Đình Diệm không phải là người có tâm lý chính trị mới mẻ như vậy. sinh trưởng trong một gia đình triều thần, được đào tạo theo nếp giáo dục cổ truyền, rối chính ông lại thừa phụ nghiệp mà thờ Nhà Nguyễn, hẳn ông không phủ nhận những mối liên lạc tinh thần giữa vua tôi và thầy trò thuở trước. Chứng cớ là không thấy ai bắt buộc hơn ông và ông Nhu sự trung thành ở người cộng sự. Trung thành là điều kiện ưu tiên, được đặt trên cả tài năng, như Cố Nhu đã nói: ‘’Giỏi mà làm gì? V.N.G. nó không giỏi đấy sao? Mình có chơi được với nó đâu?’’ Hẳn người dưới thừa hiểu, nên nhiều kẻ thông minh thường không quên nhắc đi nhắc lại trong các công văn hay chúc từ ‘’xin Tổng Thống nhận nơi đây lòng tri ân và trung thành bất diệt của...’’
Như thế, vì sao ông Ngô Đình Diệm đã không ngại truất phế ông chủ cũ trước 1932, và ông chủ mới từ 1954?
Ông già Táo trong họ tôi trả lời hộ:
- Năm xưa ông ấy bị ông Bảo Đại cách chức Thượng Thơ và thu lại cả mề đay kim khánh, chỉ còn để cho hàm Tuần Vũ. Thì bây giờ ác giả ác báo chứ sao?
Nhưng ông khác bẻ:
- Không đúng. Vì ông Diệm cũng biết thừa là Tây bảo cách, đâu phải ông Bảo Đại cách? Ông Bảo Đại không thù ghét gì ông Diệm, cũng như không thù mà còn mến ông Nguyễn Đệ là người cùng bị đuổi về một lúc với ông Diệm. Nên ông Đệ lại được trọng dụng. Vả lại, nếu biết điều, thì ông Diệm nên ơn ông Bảo Đại là khác, vì có bị cách mới có thành tích đáng kể, để ngày nay xuất hiện...
Nếu vậy, giữa Quốc Trưởng và Thủ Tướng, không có tư hiềm? Đã thế, thì vẫn có thể còn tình nghĩa vua tôi?
S. trách tôi ngớ ngẩn:
- Tào Mạnh Đức hơi ngờ là chém. Bọn Hứa Chử, Từ Hoảng mà không trung thành thì bỏ đời ngay. Nhưng Tào vẫn đoạt quyền Hán Đế, và thẳng tay phế lập. Có những kẻ bắt vợ trung thành, nhưng chính mình vẫn đuổi gái. Đòi trung thành không phải là chính mình cũng trung thành, vì có ích kỷ mới đòi, và đã ích kỷ thì chỉ muốn một chiều.
- Hán Đế nhu nhược, bất tài bất lực chỉ nghe xúi giục chia rẽ, nếu bỏ Tào thì lấy ai ngăn cản Tôn Quyền hay Lưu Bị dòm ngó chỗ Tháo? Nên Tháo có lý do...
- Chính thế. Và Tháo không nề hà hai chữ trung quân. Thực ra, không phải Nhà Nho nào cũng bo bo trung thành, dân là quí, xã tắc đứng hàng hai, Vua là hạng bét (Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Vua mà hôn quân vô đạo, thì người ta còn dấy binh hỏi tội. Văn Vương dẹp Trụ là truyện anh đã thuộc, Trung quân, nhưng còn ái quốc hay ái...quyền cũng được...
Khi đó, tôi tạm tin lời S. Nhưng về sau, tôi hiểu là ông Ngô Đình Diệm không lý luận như Mạnh Tử, như Tào Tháo hay như S. nghĩ táo bạo, họa chăng có ông Cẩn hay ông Nhu. Còn về phía ông Diệm, tôi cảm thấy có sự gì phân vân, như đã dám mà không nỡ đi đến cùng?
Việc truất phế thành sự đã rồi, một hôm ông nhắc văn phòng:
- Bà Từ Cung, thì cứ cho dưỡng già, cho tiền nuôi. Bà Nam phương, ‘’không sao’’ Lăng miếu Nhà Nguyễn thuộc về lịch sử.
Cách đó ít lâu, một Nghị Định trợ cấp mỗi tháng 5.000$ cho thân mẫu cựu Quốc Trưởng. Rồi Nha Kiến Thiết được lịnh sửa chữa những cung điện ngoái Huế.
Còn đối với tài sản của cựu Quốc Trưởng, thì mãi chưa thấy quyết định. Nhiều người cho là vì có sự khó khăn về phương diện pháp lý. Của cải chỉ có thể bị tịch thu, nếu có tội trạng rõ rệt, và bị một tòa án tuyên phạt hay một đạo luật cho phép. Nhưng ông Bảo Đại tội gì, và ai xử? Nếu có thể ban hành một văn kiện, thì hà tất trưng cầu dân ý? Lỗi về chánh trị chưa hẳn là tội về hình pháp. Nên ở trường hợp này, cần tìm xem cho những gì đã thủ đắc phi pháp?
Vì thế, một Ủy Ban đã được thiết lập để điều tra. Và mãi tới cuối năm 1957, một Đạo Luật 17/57 do Quốc Hội biểu quyết, mới tuyên bố sung công tài sản của ông Vĩnh Thụy và các bà vợ, hoặc đứng tên ông Vĩnh Cẩn, ông Nguyễn Đệ và vợ.
Mặc dầu những sự kiện kể trên, tôi vẫn không tin rằng sự kéo dài việc này do những thắc mắc về pháp lý:
- Thắc mắc của luật gia không phải là của một người như ông Diệm hay ông Nhu. Nếu cần, thì chẳng phải cử Ủy Ban điều tra hay đợi lập Quốc Hội, trái lại, sự tịch thu có thể quyết định trong khoảng khắc bằng một Đạo Dụ đặt ra ngoài vòng pháp luật như đối với các lãnh tụ Bình Xuyên và Hòa Hảo (Dụ 42 và Dụ 43 năm 1955).
Quốc Hội viện dẫn gượng gạo một lý do rất khó đứng vững: ‘’Chống chánh Thể Cộng Hòa’’.
Nhưng cho tới ngày 23.10.1955, ông Bảo Đại vẫn còn là Quốc Trưởng Việt Nam; chánh thể vẫn là chánh thể do ông sáng lập và qui định trong các Dụ số 1 và 2 năm 1949. Chánh Thể Cộng Hòa chưa thành lập khi xẩy ra các vụ xung đột, thì chống thế nào và chống gì?
‘’Chống Chánh Thể Cộng Hòa...’’ thôi thì cũng không khác mấy ‘’chống cách mạng’’ đối với các tòa án nhân dân.
Những tài sản của vợ chánh thức cũng bị tịch thu nếu thủ đắc sau ngày 8 tháng 3 năm 1949, ngoại trừ những của thừa kế. Nghĩa là bà Nam Phương không mất gì hay không mất bao nhiêu, vì hầu hết của cải thuộc bà đều sẵn có trước ngày ký thỏa ước Élysèe, và do cha mẹ hay cô cậu bà để lại.
Thì cũng phải tịch thu gọi là, trên nguyên tắc. Quyết định của Quốc Hội, kể cũng hợp ý Tổng Thống, bà Nam Phương ‘’không sao’’.
Biện pháp được dành lại cho Quốc Hội biểu quyết, chỉ có tính cách tượng trưng và trong thực tế không có hiệu lực gì đối với người bị trừng phạt. Cung An Định và ngay Biệt Điện Đà Lạt chẳng hề được đoái hoài như mấy nhà săn Ban Mê Thuột; những đồn điền hay Công Ty Cao Nguyên, đứng tên bà này hay ông kia không có hoa lợi đáng kể, và không cần thiết cho đương sự như du thuyền Hương Giang hoặc Lâu Đài Thorence hiện ở ngoài tầm luật pháp Việt Nam.
Nhưng sự trì hoãn lâu ngày một biện pháp chánh trị, - mà biện pháp chánh trị thường được căn dặn là có tính cách quan trọng ưu tiên, - đã vài phen kích thích thói quen tìm hiểu của tôi. Gạt lẽ này, qua lẽ khác, tôi chỉ còn cảm tưởng man mác là trong vụ này, tôi đứng trước một lương tâm đắn đo vì e dè một sự ra tay quá nặng, hoặc không muốn thấy mình nhỏ nhen.
Bởi đã chú ý như trên, tôi lại nhận ra một sự hơi kỳ:
Luật tịch thâu được ban hành ngày 16 tháng 12 năm 1957.
Tới ngày 16 tháng 12 năm 1963 nghĩa là cùng ngày cùng tháng và cách sáu năm sau, một Sắc Luật số 026, tương tự như Luật 1957, lại tịch thu tài sản của người ban hành luật đó và cả gia đình cùng thuộc hạ.
Ông già Táo cười:
- Đã bảo mà! Chẳng qua là chuyện nghiệp báo mà cứ không tin. Này nghe sấm Cụ Trạng: Ma Vương sát Đại Quỷ, hoàng Thiên tru Ma Vương.
Ngày 23 tháng 10 năm 1955, cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức, và ngày 26, kết quả được chánh thức tuyên bố như sau:
- 5.721.735 phiếu thuận truất phế Bảo Đại và công nhận Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lên chức vị Quốc Trưởng.
- 44.155 phiếu không hợp lệ.
- 131.395 người không bỏ phiếu; và chỉ có 63.017 phiếu không chịu truất phế...
Kết quả đó không gây ngạc nhiên đối với người chống chọi cũng như người bênh vực Thủ Tướng.
Hạng thứ nhất yên trí rằng mọi phương tiện áp đảo và cưỡng bách đã được vận dụng để đưa tới những con số của Bộ Nội Vụ.
Hạng thứ hai đã tin chắc vào một thắng lợi lớn lao mà họ chỉ coi như sự hợp thức hóa một hiện trạng được đa số quốc dân thừa nhận từ năm trước.
Sự thật ở phía nào?
Nhiều người tranh đấu chánh trị hồi đó, vì khó tranh cuồng nhiệt, không đòi hỏi bằng chứng cụ thể để theo hay chống, kết án hay ủng hộ, tin là đủ rồi, và đối phương được hiểu là đồng nghĩa với gian trá. Lắm người tin hay không tin vì mến phục hay ác cảm. Ác cảm vì một hai lý do, rồi sau vì nhiều lý do thâu thập lại để nuôi ác cảm, vì trông có vẻ Bang Bạch, vì gia đình trị, vì nói kém ít ai hiểu, vì có người đàn bà khó chịu ở bên cạnh, vì không biết tài mà vời giữ chức vụ lớn, vì tính khắc khổ không thông cảm được với đa số có nhiều nhu cầu, vì làm thiệt hại những quyền lợi mà chính phủ nào cũng kiêng nể, vì thích được ca ngợi như thần thánh v.v...mến phục, thì vì nghe đồn là có đạo đức, vì ghét Pháp ưa Mỹ, vì chống Cộng hay vì cho làm Bộ Trưởng, vì dám đóng cửa sòng bạc, vì yêu nước từ xưa, vì quen thân với ông thân sinh, vì cùng là Công Giáo, vì bây giờ mạnh lắm, chắc có đổ cũng còn lâu, và từ nay tới đó cũng lo đủ tiền ra ngoại quốc sống rồi, vì di cư và được nâng đỡ, vì ghét những người được Quốc Trưởng Bảo Đại trọng dụng và mong cho rơi rụng hết, vì được giữ nguyên ở địa vị cũ khi đã lo bị phú về, vì dựa được vào nhân vật hay đoàn thể mới mà leo thang tiền bạc, vì hy vọng một chân trong Tòa Đại Sự ở Luân Đôn, vì có dịp làm vài việc tưởng là hữu ích, vì xem chừng nhiều người muốn suy tôn v.v...
Dù sao, Tin và Lý ít khi đi đôi. Nhưng đối với những việc sau này thuộc lịch sử, kẻ theo dõi có bổn phận tìm ra sự thật và đặt sự thật lên trên tình cảm. Khốn thay, dầu ở ngay giữa cuộc, trong nhiều trường hợp, cũng phải thành thật nhận rằng thiện chí của mình chỉ làm tham vọng mà thôi, khó biết lắm, chỉ có thể ngờ hay tin. Một phần lớn Sử của mỗi nước mỗi thời nằm trong bóng tối đáy lòng của vài người đã khuất, của một số người liên hệ không muốn nói ra, hay của những giấy tờ chẳng sao tìm lại.
Trong cuộc trưng cầu dân ý 1955, muốn biết có gian lận hay không, cần được sự chứng nhận xác thực và vô tư của từng cấp hữu trách và của đa số người đi bỏ phiếu. Một sự không thể có. Sự chí thành khoa học phải đầu hàng thực tế phức tạp. Hồi đó, tôi đương băn khoăn về sự bất lực này, thì nhận được một mật văn cho hay rằng một người bà con của tôi ở Cao Nguyên đã bỏ phiếu cho cựu Quốc Trưởng và chống Thủ Tướng. Tôi liền mang tới ông Ngô Đình Nhu, xem bản phản ứng ra sao, nhất là để qua việc này mà đoán thực hư trong sự đầu phiếu và kiểm phiếu. Nếu ông bảo điều tra thêm, thì hẳn ông tin phần nào nhân viên Công An sở tại, và như thế là gián tiếp thừa nhận rằng nhà chức trách đã được phép hay được lịnh dòm ngó vào phiếu của mỗi người...
Ông Nhu ngó tờ trình:
- Bậy. Bỏ sọt giấy. Excès de zèle (quá sốt sắng) của cấp dưới muốn lập công. Làm sao nó nhìn được vào phiếu của người ta?
Ông vừa nói vừa quay đi. Tôi đứng bên ông, nên không nhận rõ được vẻ mặt ông lúc đó.
‘’...hợp với ý chí toàn dân, đã tỏ rõ trong cuộc đầu phiếu ngày 23 tháng 10, tôi long trọng tuyên bố Quốc Gia Việt Nam là một nước Cộng Hòa’’.
Trong câu kết Bản Tuyên Cáo của tân Quốc Trưởng đọc ngày 26 tháng 10 năm 1955, tôi đã chú ý nhất đến những chữ ‘’hợp với ý chí toàn dân’’.
Toàn dân, ở mọi bài diễn văn, chỉ có nghĩa là đa số. Miễn sao đa số này có thật, được tự do quyết định, còn chọn đúng hay sai lại là chuyện quốc vận may rủi.
Chỉ có kẻ gàn mới ước mong đem vào chánh trị một tinh thần khoa học khách quan để nhận xét mọi hành động và biến chuyển, khi những sự kiện này lại phát sinh từ những nhiệt tình sôi nổi.
Nhưng thoát khỏi băn khoăn tìm hiểu cũng là động lực thúc đẩy khám phá cho chính mình nếu chẳng cho ai. Và nếu theo lối trực tiếp là thu thập bằng chứng không được, thì đành theo đường gián tiếp, là suy luận từ thời sự tổng quát mà cố đi tới một nhận định nào đó.
Nên tôi đã tự hỏi: Ngoài việc bỏ phiếu, dù gian lận, hay không gian lận, có thể dựa vào những sự thật nào khác để biết là lòng dân hồi đó đã ngả về ai?
Một điều chắc chắn, là ngay từ 1952, chế độ Quốc Trưởng 1949 đã mất nhiều tín nhiệm, vì không thực hiện nổi những công cuộc mà dân chúng đợi chờ, nhất là sự tái lập an ninh và thu hồi chủ quyền. Hại hơn nữa, dù trút trách nhiệm cho các chánh phủ, Quốc Trưởng vẫn mang tiếng là thụ động, nhu nhược và phóng đãng.
Rồi tới khi tình thế ngửa nghiêng và đất nước sắp bị chia xẻ, ông lại cùng những người thân tín rời xa xứ sở, bỏ mặc dân trong hoang mang, ly tán, và nguy khốn. Chính những người đã thực tâm tận tụy với ông, như ông Nguyễn Hữu Trí, cũng phải chán nản vì thái độ tiêu cực của ông. Còn những người hay nhóm theo ông vì thân Pháp và nể Pháp, thì đã lảng xa ông khi biết rằng sắp không còn lợi gì nữa, vì Pháp cũng thất thế và chuẩn bị rút về.
Như thế, ông đã tự mình dọn đường và lui bước cho người khác tiến lên. Một đối thủ, dù chỉ tỏ ra tương đối hơn ông về một hai phương diện, cũng có thể vượt ông và giành chỗ đứng của ông. Huống chi người ấy lại do chính tay ông vời tới thượng quyền, và còn mới mẻ đối với đa số, nghĩa là chưa mắc tiếng không hay, mà còn được một số ca tụng.
Xét về thực lực, điều kiện tối yếu của thắng lợi chánh trị, thì ông đã suy sút quá nhiều. Từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1955, chẳng thấy ai lên tiếng bệnh ông. Trong khi đó, đối phương được sự trợ lực của một thiểu số chịu hoạt động, nhất là ở miền Trung là nơi đáng lẽ ông phải có nhiều uy tín. Đã theo ông Diệm để lật ông, ngay cả một số người sau này chống lại ông Diệm. Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng chủ trương truất phế ông, gồm hàng chục nhân vật mà xu hướng chẳng bao lâu bị chánh quyền mới coi như đối lập. Ấy là chưa kể lực lượng quân đội mà ông đã quan tâm tổ chức từ 1950, nhưng lại không biết cách hoặc bỏ lỡ dịp thu phục để điều động trong giờ hữu sự.
Nên cuộc trưng cầu dân ý, dù có hay không, ngay thẳng hay lắt léo, cũng không thể đảo ngược hộ ông một thế cờ đã bí.
Năm 1948, ông là hiện thân của một sự tất yếu lịch sử (une nécessité historique). Song cũng như mọi người của mọi thời cuộc, ông không thể tồn tại khi xứ sở chuyển sang giai đoạn khác, rồi đến lượt người sau cũng vậy.