← Quay lại trang sách

THÀNH LẬP CỘNG HÒA

Khi một cuộc cách mạng thành công, chế độ mới thường được xây dựng trên căn bản lý thuyết sẵn có của những người hay những nhóm lãnh đạo. Đó là trường hợp Cộng Hòa Xã Hội Pháp 1848, Trung Hoa Dân Quốc 1911, Nga Sô 1917, Ý Phát-xít 1922, Đức Quốc Xã 1933, Dân Chủ Cộng Hòa Cuba 1960 v.v...Giành quyền để thực hiện chính kiến hay chủ nghĩa là mục đích dĩ nhiên và tối hậu của sự tranh đấu.

Nhưng cũng có khi người nhảy ra giằng lấy trách nhiệm, chưa có định kiến chánh trị nào rõ rệt, chỉ vội nhằn một mục tiêu thiết thực hoặc cấp bách, như lật đổ một chánh quyền bất lực hay bạo ngược; rồi nếu cần kiến tạo một chế độ khác thì sẽ liệu sau: Trường hợp Tướng Franco 1938. Khi xuất quân từ Maroc về Tây Ban Nha chống chánh phủ Cộng Hòa, ông chỉ muốn dẹp cộng sản để cứu vãn một tình thế hỗn loạn. Song đến khi chiến thắng rồi, ông bị lúng túng trước vấn đề chế độ.

Tuy ưa quân chủ, ông chưa thể phục hưng triều đại Carlos, mà uy tín đã bị tổn thương quá nhiều, nhưng ông cũng không ưng trả quyền cho dân vì lo nạn Mác-xít. Rút cuộc, chế độ thành lập ba mươi năm nay vẫn chưa thể định nghĩa. Không quân chủ không dân chủ, chẳng có Vua nhưng Quốc Trưởng nắm quyền lớn của Vua thời trước, và cho tới ngày gần đây, dân không được quyền bầu cử. Một chế độ như vậy không thoát thai từ lý tưởng chính trị, nhưng từ những sự kiện thực tế tạo nên hoàn cảnh đặc biệt của Tây Ban Nha.

Sau 1948, Việt Nam đã lâm vào tình trạng nào?

Chế độ Bảo Đại không sinh sản từ một lý thuyết nào hết, chỉ dựa trên một truyền thống lịch sử lỗi thời và một chính nghĩa quốc gia mà chưa ai minh định. Chánh thể thiếu tính cách căn bản đến nỗi Nguyên Thủ không biết tự xưng là gì cho phải, đành mang danh hiệu hàm hồ là Quốc Trưởng. Nền tảng pháp lý cũng chưa đủ nếu không thiếu hẳn. Ông Bảo Đại được thỉnh về do các đại diện của nhiều đoàn thể, song các đoàn thể này chưa phải là đa số quốc dân. Quốc Gia Việt Nam và chánh quyền Bảo Đại được nhiều nước thừa nhận, nhưng sự kiện này, tuy là một lợi điểm về chánh trị quốc tế, vẫn không thay được sự chấp thuận của người dân trong nước, vì theo nguyên tắc dân tộc tự quyết, chỉ người dân trong nước mới có quyền chọn chánh thể và người lãnh đạo.

Năm 1948, không có anh hùng tạo nên thời thế, không có lý thuyết biến thành thể chế, chỉ có những nhu cầu của một cuộc diện xô đẩy tới một giải pháp tạm thời. Các vai trò chính cũng không hề tỏ rõ có chủ trương hay ý thức nào đối với tương lai của quốc gia Việt Nam và xã hội Việt Nam; rồi bị dồn vào công việc cấp bách hàng ngày, chẳng ai còn đầu óc để suy nghĩ về các vấn đề lâu dài. Thời gian qua, qua khói lửa, nên tới 1954, vấn đề cốt yếu về chế độ và chánh thể vẫn còn nguyên vẹn. Hồi đó, nhiều người phàn nàn rằng trên chính trường, có chỗ trống rỗng vì thiếu triết lý, một triết lý không phải Mác-xít mà còn có thể lôi cuốn ra khỏi Mác-xít.

‘’Trước hết phải có triết lý. Triết lý là hồn. Hồn hiện ra Hiến Pháp và Chính Sách. Hiến Pháp định rõ các mục tiêu chung, đặt căn bản tổ chức quốc gia rồi mới đến việc tổ chức guồng máy. Chánh sách vạch rõ đường lối phải theo, để lập kế hoạch, định chương trình và những thể lệ thi hành mà các mục tiêu của Hiến Pháp. Cộng sản nó hơn mình ở chỗ đó. Mình cứ đặt con bò trước cái cày hay con người trước con bò. Hỏi những ông làm luật dựa vào đâu anh làm như thế ni thế khác, thì ấp a ấp úng. Thiết triết lý. Còn về thi hành, hỏi vì sao, thì nói Tổng Thống bảo thế, Tổng Thống dạy thế. Đừng có đưa Tổng Thống ra làm khiên làm mộc. Cho chỉ thị, là cho biết nguyên tắc. Rồi phải xem cần làm sao để đạt nguyên tắc đó, bổn phận thừa hành như vậy. Nếu không biết liệu sao, mà lại thiếu triết lý. Hiểu triết lý, thì sẽ dò ra lấy, mà trúng. Chánh sách là chánh sách chung: Rồi ở Canh Nông khác, ở Tư Pháp khác, ở lãnh vực nào phải tìm cách châm chước cho thích ứng. A la lettre, nhắm mắt vâng dạ rồi làm máy móc, rồi lại đổ cho Tổng Thống. Bảo đừng nêu Tổng Thống nữa, thì đổ cho ‘’Thượng Cấp’’ Công bằng xã hội mà làm giấy miễn cho những anh có học có tiền. Mình có học là bởi cha mẹ ông bà có tiền cho ăn học, chớ mình hơn gì ai. Thiếu triết lý. Bảo sửa soạn Hiến Pháp, thì cố đi tìm mấy Hiến Pháp của Tây. Không hiểu triết lý, thì đem một trăm Hiến Pháp về đọc một trăm năm cũng chẳng tới đâu...’’

Đại khái như trên, là những lời mà ông Ngô Đình Nhu, Cố Vấn Chánh Trị, đã nhắc vài lần từ cuối 1955 cho một ít người, khi vấn đề chế độ và chánh thể đang được chú trọng hơn hết.

Triết lý chánh trị mà ông muốn đưa ra, đã được tóm tắt trong đoạn mở đầu và phần căn bản của Hiến Pháp ngày 26 tháng 10 năm 1956; lại được nhấn mạnh trong nhiều diễn văn huấn từ của nhà lãnh đạo hồi đó, hoặc phổ biến trong các lớp giảng dạy lý thuyết Nhân Vị. Nên nhiều người hẳn không lạ gì những ý tưởng hòa đồng con người với thần linh, cá nhân và tập thể, nhu cầu thể chất và các giá trị tinh thần...để bước tới một xã hội trong đó mọi người mọi lớp đều được những điều kiện tương đương mà tiến...Công bằng xã hội, cộng đồng đồng tiến v.v...đã thành những khẩu hiệu chánh thức.

Tuy nhiên, những ý tưởng này chỉ thể hiện ra hai thiên đầu của Hiến Pháp 1956. Còn ở phần cơ cấu chánh quyền, nghĩa là khi chuyển sang phần ứng dụng, và nếu xét về mặt công pháp, thì rất khó thấy tương quan gì giữa lý thuyết Nhân Vị và các guồng máy quốc gia. Bởi thế, năm 1956, tôi không khỏi hoài nghi, tuy một số người hài lòng vì cho là lần đầu tiên chúng ta mới kiến tạo được trên một căn bản triết lý chính trị vững vàng. Trái lại, tôi chỉ ghi nhận áp lực rất mạnh của thực tế, của nhân vật và thời cuộc, trong việc xây đắp móng nền của chế độ.

Chẳng hạn, có liên hệ nào giữa Tổng Thống Chế và Lý Thuyết Nhân Vị? Không biết Nhân Vị, Hoa Kỳ đã đặt thể chế đó và theo từ ngày lập quốc, gần hai thế kỷ nay. Vậy nên tìm nguyên do ở phía khác, ở tâm lý người trong cuộc và hoàn cảnh 1954-1955.

Hồi đó, nhờ tình thế, ông Ngô Đình Diệm đòi được toàn quyền dân sự và quân sự. Đã quen rộng tay hành động suốt hai năm, chẳng khi nào ông chịu biến thành một Quốc Trưởng chỉ có nhiệm vụ ký giấy, gắn huy chương, hay đi đặt những viên đá đầu tiên. Ông lật đổ Nhà Nguyễn, nhưng không thể còn xưng Đế như Tây Sơn Nhạc, hoặc tự tôn làm một Thủ lãnh độc tài như Hitler. Ông phải thành lập Cộng Hòa, mà ở chánh thể này, thì nhiều quyền nhất, chỉ có Tổng Thống tương tự như ở Hoa Kỳ. Ấy là chưa kể ảnh hưởng của các thân hữu Mỹ và cố vấn Mỹ được ông tin dùng.

Nhưng ngoài sự kiện đó, còn nguyện vọng chung của rất nhiều người, là có một chánh phủ vững mạnh để giúp dân. Xứ sở bị cắt đôi, một phần còn lại bị xâu xé vì nạn tranh chấp đảng phái, thì dù ai phải ai trái, người dân cũng mong muốn một nội tình ổn định để trở về cuộc sinh hoạt điều hòa. Ngót triệu người di cư càng khao khát an ninh vì bỏ quê quán vô đây, tất nhiên không phải để tìm nơi nhiễu loạn. Có những người quá bực vì những sự chia rẽ lục đục, đã nói hẳn ra: Sự ổn định cần được thực hiện bằng mọi cách, nếu không thể đoàn kết, thì đành dùng võ lực; ông Diệm hay ông nào khác cũng được đi, ai khỏe hơn thì giằng được quyền mà làm cho dân đỡ khổ.

Hành Pháp phải mạnh: Trong chánh quyền và giữa dân gian, ý kiến kia được chấp nhận dễ dàng, bởi cả những người không hiểu Nhân Vị là gì hết.

Song dù mạnh, chánh phủ cũng sẽ phải thực thi dân chủ, tới đây, dư luận phân chia theo hai ngả.

Đối với nhiều người ở ngoài chánh quyền, nhất là trong các đoàn thể chính trị, thì người cầm quyền phải mạnh để phục vụ dân chúng, không phải để củng cố thế lực mà phụng sự quyền lợi của mình và của đảng phái mình. Vả lại, muốn mạnh, các biện pháp của chánh phủ phải được sự ủng hộ của các đại diện dân, nhưng sự ủng hộ này chỉ có giá trị nếu thành thực. Nên người thay mặt dân phải tự do phát biểu ý kiến và đối lập được nếu cần. Vậy Quốc Hội phải do dân tự ý bầu lên. Có như thế, chánh sách và luật lệ mới phản ảnh dân nguyện và thích hợp với nhu cầu chung.

Quan điểm này, mà các chuyên viên Hoa Kỳ cũng tán thưởng, lại không được sự đồng ý của nhiều người ủng hộ chánh phủ đương thời; theo họ, về lý thuyết, thì không thể chê trách, nếu thực hiện được, thì còn gì bằng, nhưng trong thực tế, khó chấp nhận lắm.

Vì trong hiện tình, số đảng phái quá nhiều, nếu để dân bầu tự do như ở nhiều xứ khác, thì Quốc Hội sẽ phân tán ra hàng chục phe nhóm, khó thỏa thuận đối với các vấn đề trọng yếu, khó phối hợp thành một đa số cần thiết để giải quyết kịp thời những việc khẩn bách. Tổng Thống Chế không thể đi đôi với chế độ đa đảng, vì sự tập quyền ở Hành Pháp sẽ gặp nhiều trở ngại do sự phân hóa ở Lập Pháp. Chúng ta phải tiến tới chế độ lưỡng đảng như ở Hoa Kỳ hay ở Anh.

Nhưng nguy hại nhất, là nếu cho bầu tự do, thì cử tri ở thành thị dễ bị Thực Dân mua chuộc, và cử tri ở tại nông thôn dễ bị cộng sản lôi cuốn: Không ai có thể phủ nhận sự đe dọa này. Một Quốc Hội gồm đa số tay sai Thực-Cộng, thì đại biểu của các đảng phái khác sẽ bị tràn ngập. Những người ngoại quốc không hiểu nổi thực trạng Việt Nam, mới nghĩ rằng cuộc tuyển cử phải được và có thể được tự do như ở nước họ.

Tóm lại, guồng máy Hành Pháp và Lập Pháp cũng như đường lối cần theo để nắm vững tình thế, chẳng mang dấu vết nào dễ nhận của triết lý chánh trị mà người cầm quyền muốn đem ra thí nghiệm, chỉ thấy những đòi hỏi của thực tế phức tạp, một thực tế không dung thứ lý thuyết? Hay một thực tế được viện dẫn để bào chữa sự trốn tránh những nguyên tắc đã đề cao?

Một số bà con quan tâm đến thời cuộc lại được dịp bàn tán một vấn đề đã bị nêu ra và nhắc tới nhiều lần từ 1946.

Một buổi tối, đầu năm 1956, tôi đã được dự thính một cuộc tranh luận giữa mấy ông bạn già và trẻ, hai người công kích, một người ủng hộ Chánh Phủ, ba người khác không chống không bênh.

- Mình đã không tin được cái Quốc Hội 1946 và chính các anh đã bực và kêu la mãi. Đến lượt các anh, lại muốn dàn cảnh bày trò, thì còn trách ai? Mình tuyên bố, thì toàn là Dân Chủ, Tự Do...

- Chúng ta đều muốn tự do. Nếu không thì vô đây làm gì? Song chính vì để bảo vệ tự do đó, mà ta không thể để cho cộng sản và Thực Dân lợi dụng, nên phải tìm cách tránh sự lộn sòng. Mình chỉ có thể tin được những người của mình đưa ra. Mình phải có một Quốc Hội đáng tin cậy.

- Nếu vậy thì chỉ cần loại bớt những tên bất hảo, còn giữa bọn quốc gia với nhau, sao lại không để bầu tự do được?

- Khó lắm. Chúng trá hình rất khéo, có khi lý luận y như anh. Công An của mình chưa kịp tổ chức đầy đủ, chưa chơi nổi với chúng. Mà ngay những ông không cộng sản, cũng có thể bị lung lạc. Và nếu không chăng nữa, cũng chống đối om sòm làm cản trở công việc.

- Như thế nghĩa là ngoài sự lo ngại Thực-Cộng, các anh còn lo ngại cả với phe nhóm khác. thế thì đâu là Dân Chủ?

- Nói thật đi, mình với nhau, cần gì giọng mị dân? Thực ra, có mấy ai tin rằng trình độ mình đã cho phép hoạt động chính trị tự do? Chính anh trước đây vẫn ngán vì nạn xôi thịt, vì chính khách sa lông, chính anh đã có lần dọa rằng: Hễ có quyền, thì phải cứng rắn, chớ không thể chịu tình trạng không ai bảo được ai. Anh đã phục Mussolini.

- Vậy thì mình cứ nói dối?

- Xin đỡ lời ông bạn. Đừng đặt vấn đề như vậy. Không có chuyện nói dối hay không nói dối. Ai mà không thích tự do? Quần chúng thích tự do, thì làm sao mình nói khác được? Nhưng mình có bổn phận nhìn đúng sự thật hơn quần chúng. Nếu không, thì dẫn đường sao được? Chúng ta đừng quên là đứng trong địa hạt hành động, chớ không nằm trên lãnh vực lý thuyết. Quần chúng quen mơ ước. Mình phải đương đầu, đối phó, tranh đấu. Mình không thể khăng khăng duy lý mà bơi lội trong lý tưởng.

- Tôi vẫn không hiểu: Các anh chấp nhận tự do, mà lại không cho hưởng tự do?

- Dân muốn tự do. Nên mình phải cho thỏa mãn, ít nhất về nguyên tắc. Còn về thực tế, thì sẽ liệu dần dần từng giai đoạn.

- Có khi bề ngoài trái ngược cả mục đích. Như muốn hòa bình đấy, thế mà phải nổ súng mới khổ! Muốn thoát Thực-Cộng để có tự do. Nhưng chính vì thế mà chưa cho hẳn tự do được phải gó ép khác, gần như phải lôi cuốn, phải uốn nắn, phải dìu dắt, nghĩa là gần như không muốn cho tự do.

- Nói thế, nghĩa là rồi lại đủ các mánh lới, đe dọa, mua chuộc v.v...?

- Mình không mánh lới, thì Thực-Cộng mánh lới. Mình không dùng áp lực, thì chúng dùng áp lực. Áp lực của chúng đưa dân xuống dốc. Áp lực của mình nhằm đưa dân ra khỏi hang vực. Bề ngoài, có thể bị trách như Thực-Cộng. Bề trong, mình khác hẳn, vì mục đích, vì thiện chí của mình. Làm việc lớn, không ngó vào tiểu tiết. Anh chọn đi.

- Nhưng dù tình ngay, thì lý sẽ gian. Lý gian, thì dân nào còn tin được? Chỉ có các anh hiểu lấy với nhau, còn người dân đều thấy gian trá, thì đừng mong nêu thiện chí gì ra với ai cả. Rồi anh muốn giải thích, tuyên truyền gì nữa, cũng tốn công mà thôi. Thà các anh bảo quách mọi người: Chúng ta chưa thể dân chủ tự do, hay là chúng ta chưa thể bầu cử trong khi còn cộng sản thực dân quanh mình, rồi cử phăng một Quốc Hội, chọn lấy hộ dân những người xứng đáng.

- Như thế, lại đi vào vết cũ, lại mắc tiếng là không tiến bước nào, so với thời Pháp thuộc và thời Bảo Đại. Anh đừng quên: Mình đương cần ngoại viện hơn lúc nào hết, mà Hoa Kỳ chỉ sẵn lòng giúp nếu mình có một thể chế tương tự phần nào như của họ, dư luận bên họ đòi hỏi một chế độ có tính cách dân chủ, và muốn tỏ rõ thì phải có tuyển cử. Dầu mình có giải thích, họ cũng không chịu hiểu.

- Nói trắng ra, thì đối với dân mình cũng như đối với nước ngoài, mình phải giữ cái bề ngoài, cho yên chuyện. Còn trong thực tế, thì mình vẫn theo lối riêng mà các anh tin là cần thiết, là thích hợp?

Một vị ngồi nghe từ đầu, bây giờ mới ý lo ngại:

- Thôi thì ‘’gặp thời thế thế thời phải thế’’ Cũng được đi, nếu quả là vì dân. Và miễn là làm lợi cho dân. Nhưng tôi xin hỏi: Một khi nắm chắc Quốc Hội rồi, thì ít ra có để cho người ta làm việc đàng hoàng không? Có cho ăn nói không? Có đưa ra sánh kiến hay cảnh cáo về những vụ quá lạm thất sách không? Hay là cứ phải gật như đối với Quan Thống Sứ thời Pháp thuộc?

- Nếu ý kiến xây dựng, và nếu có thái độ hợp tác, thì ai mà gạt bỏ?

- Chưa chắc. Vì những vị mà các anh chọn, thì chọn theo tiêu chuẩn nào? Hiền lành, bảo sao nghe vậy? Có đầu óc, không nịnh bợ? Tôi e nếu chọn hạng này, thì những người được chọn lại nói thật để mất lòng, rồi bị kêu là chống đối?

- Có hai lối chống đối. Chống đối kín đáo thì mới xây dựng, như có điều bất đồng, thì tìm cách nói cho người hữu trách biết để cải hóa, nhượng bộ, hay chấp nhận. Còn nếu chống đối bô bô giữa Quốc Hội, trên báo chí, thì có ý mị dân hóa danh, muốn được tiếng là cương trực, không sợ ai cả, như thế là không xây dựng. Lấy nhân tình khuyên nhau, thì đóng cửa bảo nhau, giặt quần áo bẩn trong nhà chớ đừng đem ra giữa công chúng mà giặt.

- Nếu bảo không nghe thì biết làm sao? Chịu nín thinh là cùng. Như thế thì được việc gì?

- Đã gọi là hợp tác thì ít nhất phải chịu một kỷ luật chung, một sự lãnh đạo chung. Mình có ý kiến hay đấy, nhưng có khi không phù hợp với đường lối chung do cấp lãnh đạo vạch rõ, mà mình đã chấp nhận. Nên khi có sự bất đồng, đành phải có một bên chịu vậy, và cấp lãnh đạo thế nào cũng phải nắm phần quyết định tối hậu. Anh vào đoàn thể nào chẳng thế?

- Như thế, có thể đi tới đảng trị?

- Đảng trị đâu phải là đáng chê ngay? Đảng trị cũng như nhân trị, pháp trị, có phần hay phần dở: Tùy người, tùy đường lối, tùy kết quả lợi hay hại cho dân. Chê sự đảng trị một cách tiên nghiệm, là thái độ của người đối lập cần có cớ đả kích. Ấn Độ từ ngày độc lập, do Đảng Quốc Hội của Nehru chi phối: Đã sao chưa? Đảng Lao Động Anh mấy độ cầm quyền ở Anh? Đảng Dân Chủ hay Cộng Hòa ở Hoa Kỳ, thay phiên nhau trị nước. Dễ chừng các nước đó đều suy sụp cả?

- Chúng tôi chỉ e sẽ đi tới độc tài. Ý anh, thì bảo hãy đợi xem, đừng xét vội. Nhưng với tính nết ông Diệm và anh em ông ấy, nghĩ khó mà tránh độc đoán, ít khi các ông chịu nghe ai. Rồi nếu có sự lầm lẫn, mà Quốc Hội vô quyền, thì lấy gì ngăn cản?

- Lý luận thì vô cùng. Không thể đi tới cùng kỳ lý. Đến một mức nào đó, đành phải tin hay không tin mà hành động.

Cách đấy vài hôm, một trong ba bạn đã không hề nói gì trong buổi họp trước có cho tôi biết vài nhận xét riêng.

Khi ấy, tôi có cảm tưởng là ông bạn hơi bi quan, nhưng cũng ghi ý kiến để nghiệm về sau:

- Chúng ta đứng trước hai quan điểm trái ngược: Tự do và hướng dẫn.

Quan điểm thứ nhất rất hợp lý, nên dễ có ảnh hưởng vào các tâm hồn trong trắng, nhất là của thanh niên.

Quan điểm thứ hai không trái thực tế, và có thể được cảm tình của những người ưa hành động hơn là suy lý.

Quan điểm thứ nhất là của những công dân yêu nước muốn bảo vệ công quyền chính đáng và hướng lên lý tưởng dân chủ. Song cũng có thể là của những nhóm có dụng ý trà trộn, lợi dụng một phương tiện tranh đấu hợp pháp để lôi cuốn vào những cuộc phiêu lưu.

Quan điểm thứ hai là của người hữu trách quen đối phó với những thời sự éo le, luôn luôn phải nhìn nhận sự thật, kể cả sự phi lý, và nhắm đi tới đích hơn là thắc mắc về việc chọn lựa đường lối ngay thẳng hay quanh co. Nhưng ở trường hợp phải lươn lẹo, biết đâu không có những ẩn ý vị kỷ hay độc tài, nghĩ tới quyền lợi mình và phe nhóm mình hơn là quyền lợi quốc gia?

Theo quan điểm nào, cũng vẫn có thể miệng nói vương đạo mà đầu nghĩ bá đạo hay ngược lại, có khi đầu vương đạo, chân đành theo bá đạo. Tất cả vấn đề, là có thành thực hay không, nhưng lòng ngay mà đường không thẳng, thì trước lịch sử lấy gì biện minh? Đứng ở cương vị người quen tranh đấu, thì dễ dứt khoát. Song ở địa vị người dân, ai cũng đòi hỏi một thứ lương tâm chánh trị, thì khó tránh nổi bi đát, bi đát vì hoài nghi.

Những người chấp nhận bầu cử ‘’hướng dẫn’’ nếu chỉ hướng dẫn bằng cách giới thiệu cho quốc dân những nhân vật được coi là xứng đáng, thì cũng không có lỗi gì hơn người quảng cáo mách thuốc bổ thận tốt hoặc ông thầy lành nghề có xương. Song ở trường hợp cử tri cự tuyệt vì không tin, thì chánh phủ sẽ thua, và còn mất thể diện, nên đã đưa ra, thì phải giúp cho thắng lợi bằng những phương tiện mà nhà đương cuộc có thừa.

Dù cấp trên có thành thực hạn chế sự can thiệp để tránh những hành động sỗ sàng, cấp dưới muốn được dịp tâng công sẽ tỏ ra quá sốt sắng. Nên sự khuyên nhủ ủng hộ ứng cử viên X, dễ biến thành sự bắt buộc dồn phiếu cho ông đó, hoặc thành sự đe dọa, ngăn cản, hay gây khó khăn cho các ứng cử viên khác nản lòng rút lui. Thảng hoặc vị tranh cử là người thân tín đặc biệt của nhà cầm quyền, thì cấp thừa hành còn lo lắng bị trừng phạt, nếu chẳng may xảy ra chuyện thất cử; nên bằng mọi cách, họ phải xoay sở để nắm chắc kết quả mỹ mãn và tránh tai họa tầy đình.

Lịch sử đã cho thấy mọi cuộc bầu cử hướng dẫn đều diễn tiến như trên: Ở Pháp, dưới triều Vua Charles X và Hoàng Đế Nã Phá Luân III, ở Thổ Nhĩ Kỳ sau Mustapha Kémal, ở Đại Hàn thời Lý Thừa Vãn, ở Ai Cập khi còn Quốc Vương Farouk hay từ khi Nasser lên cầm quyền, ở nhiều xứ Nam Mỹ, và khá nhiều xứ Châu Phi mới thành quốc gia độc lập...Bộ máy hướng dẫn một khi đã vặn, thì ở đâu và bao giờ cũng chạy theo những hướng đường tuột dốc, với những tốc độ khó lòng kiển soát, đến nỗi nhiều khi vượt cả ước vọng của người điều khiển: giành được 80%, 84%, 91% hay 99% số phiếu cho những nhân vật được cấp trên chỉ định thầm.

Bạn M. kết thúc câu chuyện bằng một câu hỏi mà tôi chờ đợi: Anh nghĩ sao?

Tôi trả lời rằng chỉ có thể có ý kiến sau một thời gian, khi nào dựa được vào một số kết quả của chế độ, vào một số thành tích của chánh quyền thành lập theo chế độ...

- Đợi kết quả mới phê phán là thái độ của nhà nghiên cứu. Song nếu kết quả xấu, thì sự đã rồi, người tranh đấu không thể chờ, nên phải xét đoán mau và định lập trường.

Tôi nhận rằng M. có lý của M. Chắc tôi không có bản lãnh của người tranh đấu chánh trị, song tôi biết rằng những gì đã tạo nên tôi, không cho phép tôi có đường lối nào khác để nhìn nhận người với việc.