← Quay lại trang sách

HÌNH ẢNH GẦN XA

Như nhiều người đã biết, ông Diệm ưa coi tướng mạo nhân viên, và đôi lần vui chuyện, ông đã phê bình trước người thân cận: Tỉnh Trưởng nọ mắt trắng môi thâm; Trung Tá kia có bộ ‘’thủy chung’’ Giám Đốc đó cổ dài đầu dài như rắn ‘’tête de serpent...’’

Phải chăng lâu dần tôi cũng lây phần nào thói quen của ông? Nên rồi có lúc tôi tự hỏi: Thế còn chính ông thì sao?

Và thỉnh thoảng, hễ có dịp qua ông hay gần ông, là tôi nhìn nhiều hơn nghe. Nhìn ông cũng là một cách trốn khỏi những câu chuyện rất dài mà ông hay kể, bên cạnh những vấn đề phải trình lên ông. Nhiều vị đã đành lắng tai hàng giờ, đến nỗi tê chân, mỏi lưng, muốn ngáp mà cố ngậm miệng. Tôi đã mách bí quyết của tôi, và vài bạn có nhận là hiệu nghiệm, để hiện diện mà vẫn thoát ly, ở trong gang tấc mà ngoài quan san...

Xét thoáng qua, thì lắm người đã coi ông là nhân vật tiêu biểu một cách điển hình nhất cho quan to thời trước, mà ông là hiện thân cuối cùng.

Người đẫy đà, bụng nở nang, mặt to tai lớn: Dưới mắt những vị thuộc thế hệ 1920 trở về xưa, thì ông đầy vẻ ‘’đường bệ’’ của nhiều Tổng Đốc Thượng Thơ, một vẻ rất khó chịu đối với thần kinh của lớp người ít tuổi hiện nay; vẻ đó còn lộ rõ hơn, với bộ quốc phục khăn xếp áo dài. Đó là một sự thiệt thòi lớn cho người lãnh đạo, vì bề ngoài của ông không thể gây thiện cảm cho thanh niên.

Một số người lớn tuổi đã so sánh ông với Cựu Quốc Trưởng: Hai người đều có diện mạo sáng sủa. Nhưng ông Bảo Đại ‘’bạt nhĩ’’ còn tai ông Diệm ‘’có thành, có quách, có đuổi dày dặt hơn nhiều’’ nên ông Diệm thắng là phải?

Mấy vị khác bàn tán khá nhiều về cái nốt ruồi ở gần sống mũi, dưới mắt bên trái. Vị này cho là rất tốt, tướng ‘’khai quốc.’’ Vị khác chê là dấu hiệu không con, ‘’vô tự.’’ Tôi chỉ thấy lãnh tụ Kroutchev của Nga Sô cũng có nốt ấy, mà khối con.

Có người còn cắt nghĩa chức vị Tổng Thống bằng tướng ‘’ngũ đoản’’ thân ngắn, chân tay ngắn, chân tay ngắn, trán ngắn...Tôi có bẻ lại: Thế thì lầm rồi, có lẽ ông Diệm lục, thất, bát đoản, mới phải; lạ nhất là bàn tay ông mập mạp, mà những móng lại rất nhỏ rất ngắn, chỉ bằng phần ba của người thường.

Điểm khác được nhiều người chú ý là dáng đi. Một chính khách đối lập đã kêu: Chân lạch bạch, hai cánh tay bơi như rùa. Thực ra, ông đi rất mau, dẫu người nặng cân. Có Bộ Trưởng phàn nàn rằng khó theo kịp ông khi tháp tùng đi kinh lý. Một thày tướng khen là ‘’long hành hổ bộ.’’

Tôi nhĩ ông đi mau vì hay mắc cở, muốn tránh những con mắt tò mò. Từ trên lầu xuống phòng họp Dinh Độc Lập, từ phi cơ xuống phòng khách sân bay, khi thăm một trường học Đà Lạt...ông cũng rảo bước tuy chẳng có cớ gì phải vội vàng. Ông dễ đỏ mặt và hay ngượng nghịu khi phải qua những hàng ngũ đón chờ, nhất là nếu có dăm bảy phụ nữ.

Ông thẹn mà cố cười, thì tôi liên tưởng đến một kẻ ngây thơ Simplet, một trong bảy anh Lùn chạy quanh cô Bạch Tuyết của Walt Disney. Thật khác hẳn khi ông nổi giận: Mặt bừng bừng, đôi mắt đầy oán trách, có lẽ vì lòng trắng nhiều hơn lòng đen, dung mạo dữ như của người hung tợn vì say rượu.

Thực ra, tôi không đồng ý với nhiều người chỉ căn cứ vào chi tiết mà khen chê, hoặc vào sách tướng Tàu mà phỏng đoán huyền hoặc. Tôi vẫn muốn nhìn bao quát, vì phân tích chỉ để giải thích chớ không để thông cảm, vả lại ở con người cũng như ở pho tượng, toàn diện toàn thể có ý nghĩa hơn là từng bộ phận.

Cảm tưởng của tôi về toàn thân ông cũng tương tự như về trí não ông: Một khối vững chắc nhưng nặng nề, đầy chặt nên khó cởi mở, co tròn và chìm lặn vào trong thì dễ hơn phơi bày rộng rãi. Ông thường ngồi cả buổi hay suốt ngày trong phòng, ít khi ra ngoài đi lại tuy ở giữa một vườn thênh thang. Ông suy nghĩ rất nhiều, mà nói không lưu loát.

Tôi hay so ông với những nhân vật cùng hàng, nhất là với các Nguyên Thủ Á Đông. Ông không ngắc thước cương kiện như Tưởng Giới Thạch, không có khuôn khổ cân đối và võ cách Tây phương như Ayub Khan, không có phong độ thanh lịch và trí thức của Nehru. Song ông quang nhuận hơn Lý Thừa Vãn, đĩnh đạc hơn Sokarno, phương phi hơn Phibul Songgram hoặc Satrit Thanarat...

Một bạn trẻ ở ngoài chính giới, đã bảo tôi:

- Coi bộ thì cũng không đến nỗi nào, nhất là bức ảnh Âu phục chụp nghiêng ¾ thấy treo ở nhiều nơi.

Tôi cho biết là chính ông ưa bức đó hơn cả, nhưng anh ta lại càu nhàu luôn:

- Chỉ phải cái rất bực và rồi phát ghét, là cứ phải chào! Sao lại đem in tròn giữa Quốc Kỳ để bắt đứng dậy chào khi xem xi nê? Thà tới chậm, mấy hẳn đoạn phim thời sự, còn hơn phải ngắn mặt mũi, bảnh bao mấy cũng bỏ đi!

Tôi không thể chỗi cãi, vì chính là trường hợp tôi mỗi khi muốn coi phim...tôi còn nhớ ra: Có những dáng vẻ đáng đưa lên màn ảnh hơn, khi bóng Tổng Thống họ Ngô tạm khuất cho con người Ngô Đình Diệm hiện rõ. Như lúc ông vuốt ve hỏi chuyện mấy trẻ em, tha thẩn trước con chồn Sở Thú, lúi húi lau chùi máy ảnh, ngồi bệt xuống sàn vặn cho đoàn xe lửa tí hon chạy vòng quanh...Phải chăng ông như một người ham đồ chơi vì bị thiếu thốn trong thời niên thiếu, một kẻ cô đơn cần tìm những an ủi rất thường đối với bao người khác?

Trong những giờ khánh tiết, ông trịnh trọng uy nghi đến nỗi một bận có bạn đồng sự ghé tai tôi: Ai làm gì mà mặt ông sát khí đằng đằng như Đức Ông trên đến thế kia? Nhưng lúc tiếp ngoại giao đoàn, và nói với một nữ Đại Sứ, thì ông cười rất nhũn nhặn, điệu bộ rất e dè, mặc cảm đối với đàn bà lại một phen làm cho Ngô Tổng Thống hiện nguyên hình lúng túng.

Sự trái ngược ở nơi ông, là đặc điểm mà tôi luôn luôn bắt gặp. Ông quắc tắt, dằn từng tiếng răn dạy để đáp lại chúng văn nhân dịp tất niên. Ai tưởng tượng rằng ông khiến tốn chắp tay và cảm tạ nhẹ nhàng với vẻ mặt rất hiền từ những cao cấp vô phòng ông chia buồn khi được tin bà chị ông qua đời...

Năm 1957, sau khi thăm Hoa Kỳ, ông rất hài lòng, và một buổi chiều, ông cho hỏi vài nhân viên trong Phủ lên nghe ông kể chuyện. Ông nhấn mạnh rằng người Mỹ khâm phục ông, cả Quốc Hội đứng lên vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt bài diễn văn của ông, và nhiều chính khách cho hay: Chưa từng thấy Quốc Trưởng nào đưa ra những tư tưởng cao siêu như Tổng Thống Ngô Đình Diệm...Tôi không mong gì hơn, nhưng tôi biết rằng hầu hết nội dung bài đó là của ông Nhu, với ít nhiều gia giảm của cố vấn Mỹ. Nay ông Diệm cứ cười ành ạch, nói thao thao, với một vẻ đắc chí và một giọng tự hào mà tôi không chịu nổi. tôi đành nhìn xuống tấm thảm, ngắm từng nét hoa thêu để quên bớt lời lẽ và dáng điệu của ông.

Tôi nhớ lại cảnh kia, buổi trưa ngày 18 tháng 2 năm 1959, có lẽ vì nó trái hẳn cảnh trước mắt. Hôm ấy, ông cho với các nhân viên cùng vợ con tới túc trực dưới thang lầu Dinh Độc Lập, để cung nghinh Đức Hồng Y Agagianian, mà Tòa Thánh mới cử cang chủ tọa một đại lễ. Ông muốn rằng nhân dịp hiếm có này, người ngoại đạo cũng được ban phép lành. Ông đứng bên Đức Giáo Chủ, một ông già đẹp nhất và hiền nhất mà tôi được thấy, có phải vì thế mà ông Diệm cũng có vẻ dễ chịu hơn ngày thường? Hình như Tổng Thống họ Ngô biến đi đâu, chỉ còn một người thuần nhã, khiêm cung, với một nụ cười soi sáng gò má hồng hào và làm nở nét mặt khoan dung. Tôi có cảm tưởng là trong những phút đó, xin gì ông cũng cho, có tội gì ông cũng xá. Nên tôi xá liền cho những cử chỉ cùng diện mạo của người đã kể chuyện công du...

Trước mặt ông, sự kính cẩn tự nhiên đối với cấp lãnh đạo, thường biến thành những thái độ khó hiểu ở một số khá đông người, trình việc mà không dám phân trần; nhận lịnh nhưng không dám hỏi lại dù thấy thắc mắc; dự định bày tỏ hùng hồn trước khi vô phòng ông, nhưng rồi chỉ im lặng nghe dạy và cố ghi chép từng câu, từng tiếng; thậm chí có những chỉ huy rất hách dịch mà không dám ngồi khi ông giơ tay ra hiệu, hoặc chỉ kéo ghế lùi xa rồi mới co ro khép đùi chắp tay; có người được triệu, thì tỏ ra bối rối, điện thoại hỏi lại văn phòng xem có thể xin miễn để nhường cấp trên lên trình thay không? Tôi có trả lời nửa đùa thật, rằng cứ lên vì Cụ không ăn thịt đâu...

Thực ra, cũng có những vị khéo đóng kịch. Một đồng sự bị tôi chất vấn sao quá khúm núm lúc gần ông, đã cho hay:

- Ông làm quan lâu năm, quen không khí triều đình quan liêu, thì mình chiều lòng ông một chút có sao? Chứ có chi phải sợ.

Song ngoài trường hợp giả vờ như thế, vẫn có những trường hợp toát mồ hôi và ấp úng xưng ‘’con’’ chỉ vì ông hỏi vặn rồi cau mày bảo: ‘’xin chi mà việc chưa cứu xét kỹ?’’

Tôi nghe nói có người bị quở, hãi quá, sụp lạy liền hai lạy. Vì không mục kích, tôi không dám tin, nhưng vẫn cảm thấy trong tôi có cái gì muốn trỗi dậy...

Nên tôi rất hả dạ, khi thấy có nhân viên thân cận dám đi ngược đường của nhiều vị.

Một hôm ông trách anh ta.

- Ai mà dám cho kẻ đó ra nước ngoài làm bậy mang tiếng?

- Thưa, chính cụ.

Ông trừng trừng.

- Tôi mà cho!

- Vâng, chính Cụ cho.

Rồi anh thảm nhiên tìm hồ sơ, ung dung trở vào trình lại bản có phê chữ Y đỏ lòm.

Ông không nói được gì nữa, ngồi phịch xuống ghế, mái tóc bơ phờ.

Thì ra ông đã trót tin lời đề nghị của một nhà ngoại giao được ông tín nhiệm.

Tôi thấy nhiều thú vị, vì một tính tình quen nẩy lửa phải chịu thua một thái độ lạnh như đồng và vững như đá.

Nhưng sau đó, tôi lại nghĩ đến tình trạng e sợ của nhiều người, coi như một vấn đề tâm lý cần phải nghiên cứu...Dần dần, tôi đi tới một kết luận:

Người ta sợ Staline vì lãnh tụ đỏ hiếu sát; sợ Bismark vì Thiết Tể Tướng không ngần ngại loại trừ bằng mọi cách những kẻ đối lập, sợ Nã Phá Luân I vì đôi mắt đại bàng sáng quắc, trí thông minh chói lọi qua nhỡn quan, và uy thế bao trùm vỉ chiến công rực rỡ...

Ông Diệm đâu có đặc tính ấy? Nên sợ ông, chắc vì không biết rõ ông, mà chỉ tưởng tượng ở nơi ông những phản ứng gì khủng khiếp, cũng như kẻ sợ ma hoảng vía chính vì không hiểu con ma nào.

Hoặc có những người không yên tâm vì có lỗi, ngại rằng ông biết hay có thể biết lắm. Với tâm trạng này, hẳn khó giữ bình tĩnh khi gặp ông với vẻ nghiêm khắc của người xử án, hay với đôi mắt nhìn thẳng của người tự tin vào nhân phẩm mình.

Sau ngày trưng cầu dân ý năm 1955, hình ảnh ông Tổng Thống được treo ở nhiều nơi. Công Sở, Phòng Thông Tin, nóc gác chuông Tòa Đô Sản, đúng chỗ đóng khung chân dung Quốc Trưởng Bảo Đại vừa bị truất phế; hơn nữa còn thấy trên nhiều trang tạp chí được chánh quyền nâng đỡ, trên những cuốn lịch với lời Ngô Chí Sĩ và đáng chú ý nhất, là ở hầu hết các tiệm buôn của Hoa kiều.

Các ảnh đó dĩ nhiên đã phải trình ông trước để ông lựa chọn những tấm đáng cho phổ biến: Hình mặc, hình nghiêng, Âu phục, Quốc phục. Ông bắt sửa rất kỹ. Bức lớn ở trước Bộ Nội Vụ đã bị ông chê là không giống. Hẳn là ông muốn được chiêm ngưỡng.

Nhưng tục truyền rằng: Một hôm ông đi kinh lý, gần vùng biên giới Việt-Miên, ông ghé thăm một Phòng Thông Tin Xã, chỉ lên bức hình ông mang khăn xếp và áo dài đen, mà hỏi một đồng bào sở tại: Có biết ai không?

- Thưa, đó là ông Bảo Đại!

Có lẽ nào nhân viên chuyên trách lại sơ xuất đến nỗi không giới thiệu ông với bà con cô bác?

Trái lại, hình như có sự khuyên nhủ kín đáo thế nào chẳng biết, nhưng rồi trong các buổi hội thảo, đại hội, học tập chánh trị v.v...sự trang trí các phòng họp đều theo một lối: Ở giữa, treo là Quốc Kỳ lớn, bên dưới, ảnh Ngô Tổng Thống được đặt trên bàn phủ phủ cờ vàng ba vạch đỏ, hai bên là đôi bình bông hoặc chậu lá dừa, vài khi có cả chiếc lư đồng...không khác nào những bàn thờ hoặc những án thư vông bái vua quan thời trước.

Nghi tiết, thường là: Chào cờ, nghe quốc thiều, mặc niệm; và sau đó, trước khi vào chương trình nghị sự, còn phải đứng nghiêm nghe bài nhạc suy tôn với lời ca ‘’Ngô Tổng Thống muôn năm.’’

Để cho toàn dân và hậu thế ‘’ghi ơn’’ thân thế và sự nghiệp của ông được nhiều người đem ra ca ngợi công nhiên, trong những hội trường chật ních: ‘’Người’’ đã chống Pháp nên phải lui về ẩn dật; ‘’Người’’ đã quen thân Cụ Phan Bội Châu; Cụ Cố xưa kia cũng cương quyết phản đối chính sách phế lập và đầy ải vua chúa, nên đã có câu khẩu truyền: Đày vua không Khả. Đào mả không Bài...

Những điều đó không có chi bất thường, vì người lãnh đạo nào cũng cần cho biết tiểu sử và thành tích. Sự đáng thắc mắc, là lề lối phơi bày. Một cột báo hay vài trang tạp chí chưa đủ, phải có những buổi thuyết trình và tán tụng, như ở dưới nhiều chế độ độc tài. Ngoài ra, trên các bản thông tin, chúc từ, biểu ngữ, bích chương, thể môn v.v...thường thấy những tiếng vang dội: Tri ân Ngô Chí Sĩ, Lãnh đạo anh minh, Cứu tinh dân tộc...Tại trụ sở Bộ, có nhân viên thông thái giải thích rất công phu cho hàng trăm đồng sự hiểu đặc tính và ý nghĩa cao quý của giống trúc, biểu hiệu của Chí Sĩ: Tiết trực tâm hư. Có lẽ vì thế mà cây trúc được nêu cao và thành mỹ thức tô điểm, ở bàn ghế, ở bát đĩa, bìa an bom dán ảnh, chắc song sắt cửa sổ...nếu trúc là cây quân tử của thời xưa, thì quả thật trúc đã bị lạm dụng ở thời nay.

Khi mới gần ông Diệm, coi phong thái của ông, tôi thấy ông bình dị và hồn nhiên. Nhưng chẳng bao lâu, Thủ Tướng thành Tổng Thống, tôi đã phải ghi nhận những sự biến cải âm thầm mà chắc ông không hề ý thức. Trái tim ông dần dần bị thổi phồng do những luồng gió dâng hương ngào ngạt, để chứa và nuôi mà ông chẳng biết, những ảo tưởng kiêu kỳ về sứ mạng và quyền uy.

Không một văn kiện hay một huấn thị vào ấn định hay khuyến cáo những nghi thức và cử chỉ đối với người lãnh đạo; tôi chỉ thấy ông ra lịch: Không được gọi ông bằng Cụ. Ông không hề ngỏ ý bắt đứng dậy chào ông trước khi coi phim hay nghe hát. Không bao giờ ông đòi hỏi tổ chức Lễ Thánh Bổn Mạng hay sáng tác cho ông bản nhạc suy tôn: Ông không hiểu và không ưa nhạc như bà Nhu.

Nhưng ông không biết rằng khi đưa ra các lệ kia, người ta đã dẫn ông không biết rằng khi đưa ra các lệ kia, người ta đã dẫn ông vào đường lối Thống Chế Pétain...Và không cấm, là mặc nhiên cho phép. Ông nỡ nào từ chối để phụ cả những thịnh tình mà ông tin là thành thực? Có yêu quý ông, người ta mới đến chúc tụng ông, cũng như dân có mong ông cứu vớt mới ‘’xô nhau đi bỏ phiếu cho ông mặc dầu việt cộng ngăn cản.’’ Ông sẵn lòng nhận những tặng phẩm tinh thần đó, với niềm hân hoan của một người lớn tuổi đã nhận bộ hỏa xa nhi đồng.

Người ta cũng thừa thông minh để hiểu rằng muốn cho vị lãnh đạo tăng nhiều uy tín, thì phải cố gắng và chỉ cần cố gắng giúp ông thực hiện những việc có ích cho đất nước. Nhưng người ta còn đem khôn ngoan ra chiều lòng ông để mong được thấm nhuần mưa móc. Lại có người cho là chỉ cần tô điểm bàn thờ và cúng vái linh đình, là ông thần trở nên tối linh và được tin tưởng. Khốn thay, dân trí đã đổi khác nhiều, và đòi hỏi những phép nhiệm mầu cho yên ổn và ấm no, chớ không còn sùng bái vì nghe thổi kèn khua trống. Căng biểu ngữ hoan hô, làm vè lục bát ghi ơn, ca hát muôn năm...chỉ có hiệu lực đưa thần tượng vào cõi mê hồn, và thay vì lôi cuốn tín đồ, lại gieo rắc hoài nghi và khiến chế độ nhuộm màu phong kiến.

Từ năm 1959 tôi đã cảm thấy thanh danh của ông bị giảm khá nhiều, mà chẳng thấy ai hay Viện Gallup nào đo lường hộ ông cái đà xuống dốc.

Tôi nhớ rằng thời Pháp thuộc, trong các bản tường trình do các Thanh Tra Hành Chánh Trị gửi lên Toàn Quyền, lần nào cũng có mục về dân tình, dân ý (état d'esprit de la population) trong đó được kể cả những nỗi bất mãn của giới này giới khác, và thái độ đối với chánh quyền thuộc địa.

Trái lại, trong các tờ trình của mỗi địa phương, năm nào tháng nào cũng vẫn một điệp khúc du dương: Toàn dân tinh tưởng mãnh liệt vào Ngô Tổng Thống, và nguyện đứng sau lưng Người...

Nhưng đêm 11 tháng 11 năm 1960, và ngày hôm sau. khi Dinh Độc Lập bị vây hãm, khi ông lạm vào cảnh nguy khốn, chẳng thấy một giới nào hay nhóm nào can thiệp. Dân chúng kéo tới quanh những đoàn Nhảy Dù trên đường Thống Nhất, nghe, nhìn, cười nói, bán quà bánh, tấp nập như trong ngày hội...

Chỉ sau khi bão đã qua cơn, thì lòng trung thành mới lại biểu lộ, trong những buổi Lễ Tạ Ơn long trọng, và những giờ phút bùi ngùi vấn an.

Duy đàn nai nhỏ, - đàn Ca tông của ông, - biến đi đâu hết? Trước kia chúng thường tung tăng nhảy nhót, lần vô bụi trúc, rồi lại ló ra cho ông nhìn hoặc máy ảnh chụp từ lầu cao. Làm bạn với ông, họa chăng có chúng? Chúng đi rồi, chắc là điềm không hay cho ông?

Sự không hay lại xảy ra lần nữa, sớm ngày 27 tháng 2 năm 1962; bom đâm ầm ầm trút xuống Dinh, trúng mái lầu của ông Nhu, làm sụt cả Phòng Bộ Trưởng ở tầng dưới. Nhiều cánh tủ sắt bị mở toang, ô kéo bị cháy xén, giấy tờ khô nỏ đến nỗi mó vào thì ta vụn, gạch ngói đổ sập thành đống...Lúc 8 giờ, ông Tổng Thống còn tạm trú trong một căn nhỏ ở một tầng dưới cùng, với cả Đức Cha Thục.

Chợt thấy tôi đến thăm, ông cau mày hỏi:

- Anh và anh Bộ Trưởng, chắc phải theo dõi tình hình, việc này biết trước cho mà không trình chi tiết?

Dĩ nhiên là tôi sửng sốt: Ông nghi ngờ có sự khuất khúc ở nơi chúng tôi?

Tôi đã toan thưa: Đó là việc của mật vụ và quân báo, không thuộc nhiệm vụ của tôi, còn ông Bộ kiêm Phụ Tá Quốc Phòng thì đã đi dự Hội Nghị Đài Bắc từ hôm trước.

Nhưng tôi nụt đoán ra: ‘’Ông Bộ vừa đi khỏi, thì xảy ra việc dữ. Tính ông Tổng Thống lại rất đa nghi, có thể một câu hỏi ghê gớm đã lảng vảng trong đầu óc ông: Biết mà không nói vì có ẩn tình? Biết trước mà xin đi để tránh?...’’

Bỗng dưng tôi phát bực, thấy nóng cả đầu: Phải chăng ông thành người bịnh hoạn?

Thấy tôi im lặng, ông và Đức Cha cùng nhìn tôi:

- Sao?

Ông hỏi lại tôi, với một giọng rất trầm, hình như giọng khàn vì ông mỏi mệt? Dù sao, âm hưởng rất buồn, có cái gì như bi thiết.

Chính cái bi thiết này làm nguội sức nóng trong huyết mạch tôi.

Nói làm gì? Đầu ông bù rồi, và lần thứ nhất, tôi không rõ mấy sợi trắng ở một mái tóc đã cầm cự rất lâu với màu sương của tuế nguyệt.

Thôi, phải rồi, đương lúc này, tất ông oán giận, và cần có kẻ nào để buộc tội. Bởi thế, vừa gặp tôi, là ông trách hỏi, như muốn trút hận, nên câu hỏi của ông có thể hiểu là: Ngay đến các anh còn chẳng lo gì cho tôi cả, để tới cơ sự này!...

Nhân lúc một sĩ quan cấp Tướng hối hả đến tham ông, tôi lặng lẽ rút lui ra vườn, và thở dài để thoát áp lực đã đè nặng lên ngực tôi. Tôi thấy nhẹ mình, và một lần nữa, tôi nhận ra là sự tha thứ không phải là đặc quyền của các bề trên.

Tôi vừa nghĩ vừa ngó lại ông giữa đống gạch đổ tro tàn.

Hình dạng ông khi ấy khác hẳn của người tự chủ và bình tĩnh, ngay sau giây phút bị bắn hụt tại Hội Chợ Ban Mê Thuột sớm ngày 22 tháng 2 năm 1957; thảm nhiên bước lên bục, dõng dạc đọc diễn văn khai mạc, dẫn ngoại giao đoàn xem xét ung dung từng gian hàng, rồi còn vui vẻ uống rượu cần trước ba trăm voi của đồng bào Thượng.

Một tràng đạn liên thanh, một đêm một ngày súng nổ, rồi lại cơn sấm sét không ngờ... Chẳng hay ông có cho là những cảnh cáo hay không, của một Hóa Công mà ông thường kêu gọi sự phù trì linh diệu?

Ít ra thì lòng người đã tỏ, nếu ý trời chưa được cảm thông.

Nhưng bà Nhu đã bị thương, và đường lối của ông Nhu càng đanh thép hơn. Những sự xảy ra bị coi như hậu quả tai hại của một chính sách dùng người không xứng, và một sự lãnh đạo chưa đủ cương quyết trước các âm mưu, tham vọng và áp lực của ngoại nhân. Nên phải thanh trừng hàng ngũ, tăng cường tình báo, xúc tiến thực hiện Quốc Sách Ấp Chiến Lược, củng cố Thanh Niên Cộng Hòa, bành trướng Phụ Nữ Bán Quân Sự, thiết lập một Lực Lượng Đặc Biệt...

Nên càng ngày càng nhiều tin đồn rằng Cố Vấn Thủ Lãnh sẽ phải lên thay ông anh để cứu nguy chế độ.

Rồi vụ Phật Giáo bùng nổ, với những biến chuyển dồn dập của một tình thế vượt quá sức người.

Ông Tổng Thống nghĩ thế nào? Họa chăng chỉ có vài người ở luôn bên ông mới rõ. Riêng tôi chỉ còn dịp gặp ông chốc lát, trong vài buổi lễ mà thôi.

- Chế độ này tuy còn nhiều khuyết điểm, cũng còn hơn nhiều chế độ khác. Người ta chê là độc tài, nhưng chỉ ngại còn những thứ độc tài khủng khiếp hơn...Tôi tiến thì theo tôi, tôi lùi thì bắn tôi, tôi chết thì trả thù cho tôi...

Câu sau là của một người Âu thời trước, ông chỉ nhắc lại mà thôi, song nhiều bạn và tôi nghe hơi rợn. Tôi thấy như tinh thần ông bị giao động quá nhiều vì mọi sự rối ren, nên hóa ra ảm đạm nói ngược lại: Thần Ám thì họa lai?

Tôi chợt nhớ hồi này, ông Nhu gầy sọm đi, nét mặt chảy dài và đen sạm, trông già hơn mấy tuổi...Nhìn quanh dãy ghế phòng khánh tiết, tôi còn liên tưởng đến đồ đạc tương tự, ngổn ngang trong phòng vàng son của Vua Faycal xứ Irak, và hình ảnh được in lớn trong một số tuần báo Paris Match tháng 7 năm 1958, nhà vua bị giết thảm hại trong vụ đảo chính...Tôi không dám tưởng tượng nhiều hơn, nên chạy ra ngoài chào hỏi mấy bạn.

Sớm ngày 30 tháng 10 năm 1963, ông Diệm lững thững xuống vườn, tới gần cửa trước Dinh Gia Long, coi mấy chậu non bộ nhỏ mới đắp xong và đặt ở gốc cây. Ông bận đồ màu xám nhạt, đội mũ len, chóng chiếc ba toong như khi đi thăm địa điểm Dinh Điền.

Ông ngắm núi vài phút, rồi lên thềm, qua phòng tôi. Ông không nói gì, nhìn quanh vài giây, ngó lên bức ảnh lớn của ông treo cao đàng sau bàn giấy; ông mỉm cười rồi lên lậu.

Bốn hôm sau, khi được Chánh Phủ Cách Mạng cho trở lại Dinh để dọn đồ, tôi thấy ảnh kia bị bắn vỡ tan tành, mất cả mặt ông. Chỉ còn khăn xếp và áo dài đen...

HẾT

.