VẪN LANG THANG TRÊN CÁC ĐỊA HẠT
Một điểm chính yếu trong chương trình của ông Diệm khi mới chấp chánh, là cải cách điền địa để chinh phục các tầng lớp nông thôn.
Thực ra, quyền tư hữu đã bị hạn chế, và quyền lợi của tá điền đã được bảo vệ nhiều hơn xưa, do những Đạo Dụ năm 1853 của Quốc Trưởng Bảo Đại, song chánh quyền hồi đó chưa kịp thi hành vì còn phải đợi tái lập an ninh.
Dù sao, các văn kiện trên được thay thế bằng Dụ 57 ngày 22 tháng 10 năm 1956 nhằm mục đích xa hơn, là giúp cho bần nông thành tiểu địa chủ, phát triển sản xuất nông nghiệp, đồng thời hướng dẫn các đại địa chủ qua hoạt động kỹ nghệ.
Chính sách này kết hợp nhau chủ trương. Thực hiện công bằng xã hội nhưng tránh đường lối đấu tranh giai cấy, truất hữu mà vẫn có bồi thường (lý tưởng xã hội công giáo của Cố Vấn Nhu) song nhân dịp này, tìm cách buộc giới tư bản tham gia công cuộc kỹ nghệ hóa, vậy thì trả các chủ ruộng đất một phần bằng những trái phiếu có thể đem làm vốn hùn vào các công ty kỹ nghệ (kế hoạch cải tiến kinh tế của cố vấn Mỹ).
Ông Diệm chỉ can thiệp về số tối đa để lại cho các địa chủ. Có người đề nghị 200 mẫu, người 150 mẫu, người 120 mẫu v.v...Điều này được xét đi xét lại nhiều lần, rút cuộc, ông Tổng Thống quyết định là 100 mẫu.
Ngoài ra, không thấy có chỉ thị hay hoạt động nào đáng kể. Ông duyệt ký khá mau lẹ các dự thảo sắc lịnh 1957 thiết lập tòa án điền địa, hay ấn định thể thức bồi thường. Qua năm 1958-1959, ông chẳng còn chú ý mấy đến các biên bản hay tờ trình về Hội Đồng Cải Cách. Hình như tâm trí ông sớm lãng hoặc bị thu hút sang địa hạt khác. Phải chăng vì thế mà việc không tiến được nhiều? Ngay đến một công tác liên hệ tối yếu là kiến điền để phân rõ ranh giới ruộng đất, cũng chỉ được quy định rất chấm, do một sắc lịnh ngày 31 tháng 5 năm 1962.
Việc đồng ruộng được ông quan tâm hơn cả, là dinh điền và vấn đề sản xuất tại các nơi định cư. Ông vẫn muốn vượt các Chúa Nguyễn trong công cuộc khẩn hoang; những cơ sở mà ông năng đi lại thăm nom, phải được phát triển gấp mấy các đồn điền thuở trước.
Lựa chọn các địa điểm, lập các khu các vùng, đặt tên cho những trung tâm được địa phương hóa, thường do chính ông quyết định. Ông chỉ thị trồng nhiều cam quít, khuyến khích trồng cao su và cả ca cao, thúc đẩy mạnh việc trồng kénaf đến nỗi có hồi sợ cây này bị ứ đọng. Ông bảo trồng thử cả cây sơn miền Bắc.
Ông nóng lòng chờ đợi hoa mầu. Có nhà chức trách quá khôn, bắt dân đào hẳn từng cây chuối cây cam mọc sẵn từ lâu, đem cắm vội tại nơi ông sắp tới thị sát. Ông khen là tốt, và nhiều người tưởng rằng ông bị mắc lừa. Cách đó ít lâu, trước một trường hợp tương tự, ông bình thảm hỏi một Tỉnh Trưởng cam này đào đâu mang tới?
Tháng 10 năm 1963, khi coi dự thảo thứ tư bản thông điệp gửi Quốc Hội, ông thắc mắc về những con số kê khai, bắt kiểm lại hai lần, không chịu là chỉ có 190 địa điểm. Quả thiệt là 198; chẳng rõ người viết đã chép sai hay người đánh máy đã lầm sau bao lần sửa gọt từng đoạn từng câu giữa một rừng tài liệu.
Ông rất ưa giống thông, muốn giữ vẹn các rừng thông, khi lên Đà Lạt, thấy thông bị chặt bừa bãi, ông nổi giận đùng đùng và rầy la mãi các cấp chuyên trách. Sau đó, ông bắt xét lại hết các thể lệ đốn rừng chặt củi, và còn yêu cầu các phái đoàn chuyên viên Tây Đức, Đài Loan xem lại giúp chương trình quản lý và khai thác lâm phần. Ông bảo: Cây cỏ với non sông là một. Nên ông chấp thuận dễ dàng sự thiết lập những khu bảo vệ thiên nhiên (parcs nationaux), cho lấy Trảng Bom làm thí điểm.
Ông đòi trồng thật nhiều dương liễu ở các bờ biển miền Trung, ông chê cựu Khâm Sứ Trung Kỳ Graffeuil, anh ta chỉ thích sọ dừa, bắt dân trồng la liệt dừa, mà quên giống quý hơn. Năm 1961, bỗng dưng một hôm ông bảo: Tại các công sở, các ngã ba đường lớn, nên kiếm cây ngô đồng mà trồng, nó xum xuê nhiều bóng mát. Thế là mọi cấp đua nhau trồng cây này; một Bộ Trưởng đích thân đi xin về trồng trước tư thất, ngay ở bờ rào, bên một đại lộ mà Tổng Thống hay qua lại. Có người làm thơ vịnh ngô đồng, viết tạp chí kể điển tích ngô đồng. Một vị còn hỏi tôi: Có phải cây ngô đồng tiêu biểu cho họ Ngô không?...
Trí não ông Diệm hướng về thực nghiệp, nên ông dễ nhận rõ ích lợi của sự huấn luyện kỹ thuật hơn là sự giảng dạy lý thuyết cao xa.
Đối với ông, đào tạo chuyên viên là việc cần cấp nhất. Ông chỉ cho phép xuất ngoại du học, nếu chọn những ngành chuyên môn có công dụng trực tiếp trên bình diện phát triển kinh tế. Có quốc gia bạn muốn biếu một số học bổng: Ông cho nhận về những môn đánh cá, chế đường cát, xây đập nước, nhưng bác bỏ và còn dặn cấm hẳn những môn Nghệ Thuật Nội Trợ (Arts Ménagers)...
Dự án Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ đã gặp trở ngại vì nhiều người tỏ ý dè dặt trước sự khiếm khuyết giáo sư. Ông bảo: Có nhiều học nhiều, có ít khọc ít, đợi đến bao giờ? Và cứ cho phép mở.
Việc Đại Học Đà Lạt được thành lập dễ dàng với sự nâng đỡ đặc biệt của ông. Ông trợ cấp nhiều cho Đại Học Huế, tặng tiền dịch sách để tiến tới một Cơ Quan Dịch Thuật, và khuyến khích lập một Viện Hán Học.
Ông hoan nghênh sự cố gắng chấn hưng Nho Giáo của Hội Khổng Học, và dặn Bộ Giáo Dục tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm Khổng Tử. Trong một bản diễn văn đọc nhân dịp này, ông có ý minh xác lập trường vì theo Công Giáo: Đạo giáo dạy cho con người sống cả ở cõi bên kia, triết lý nhân văn bản của Phu Tử dạy con người sống ở đời này, tuy phải bổ túc, vẫn rất cần thiết.
Về văn chương nghệ thuật, ông không có ý niệm gì rõ rệt, không hề tỏ ra thích hay không thích. Năm 1958, khi chủ tọa lần đầu phát giải thưởng văn chương toàn quốc, nét mặt ông quá nghiêm khắc, nên cho cảm tưởng là chẳng thiết tha. Ông chỉ cười, không nói gì, khi xem tranh tại phòng triển lãm hội họa quốc tế 1962 tổ chức lần thứ nhất tại Việt Nam.
Duy kiến trúc được ông tìm hiểu phần nào, qua những bộ sách đầy tranh ảnh nhà cửa; ông phân biệt nổi cột kiểu Dorique với cột kiểu Corinthien và chê cột Dinh Độc Lập chẳng Corinthien cũng không Dorique. Năm 1962, sau vụ ném bom, ông dặn: Nếu chữa lại Dinh, thì trần và tường ở phòng ông phải cao mười thước, cho khỏi vướng mắt vướng ý khi ông suy nghĩ: Tôi cho là ông nghe ngẩng đầu lên nóc giáo đường. Ông trách kiến trúc sư quên như cầu ứng dụng, chưa ‘’fonctionnel’’ vì phòng giấy Bộ Trưởng trong Phủ lại thiếu cả căn vệ sinh bên cạnh.
Cũng như trên địa hạt văn hóa, con người ông Diệm chỉ biểu lộ cho tôi dưới vài khía cạnh đáng ghi trên lãnh vực quốc phòng và an ninh, mặc dầu lãnh vực này trực thuộc quyền ông. Lý do, là có nhiều việc quá mật mà tôi không biết, còn phần tổ chức tuy được ông quyết định, lại không nên coi là sáng kiến của ông.
Như sự trưởng thành của Quân Đội, từ những tiểu đoàn bộ binh hay khinh binh thời Bảo Đại tới một lực lượng hùng hậu với đủ các quân chủng và binh chủng, là kết quả nỗ lực của mọi cấp chuyên trách Việt Nam với sự giúp đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ.
Sự phân phối quyền hành giữa Bộ Quốc Phòng và Bộ Tổng Tham Mưu, sự thiết lập các Vùng, các Khu, các Tiểu Khu và Biệt Khu Chiến Thuật...đều theo đề nghị của các cấp hữu trách quân sự. ông Diệm chỉ châm chước ít nhiều mà thôi, chớ không có chủ ý riêng.
Ngay đến sự can thiệp của người Mỹ, và sự chuyển hướng từ quân sự lối pháp sang quân sự lối Mỹ, cũng phần do thời cuộc, phần do chủ trương của Cố Vấn Nhu: Đòi quân đội Pháp và phái đoàn quân sự Pháp rút lui trong thời gian tối thiểu, rồi mới sắp đặt lại được, mặc dầu ngưiờ Mỹ đã khuyên Thủ Tướng Diệm cố chịu đựng một thời gian chuyển tiếp và sự cộng tác pháp-Mỹ trong việc viện trợ Việt Nam.
Tuy nhiên, ông Diệm tin rằng ít ra ông cũng tiết chế được quân lực, bằng sự sử dụng quân đội và quân nhân, như ông đã giải thích vài lần, năm 1956-1957, cho một cao cấp về nội an.
Theo ông Tổng Thống, thì ngay trước khi người Mỹ tới giúp, ông đã cho Quân Đội những dịp chiến thắng để tự tín và tự cường, trên các mặt trận thủ đô 1955, trong các chiến dịch mà ông ra lịnh mở: Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Huệ, Thoại Ngọc Hầu, Trương Tấn Bửu v.v... (...mais c'est moi qui ai donné à cette l'occasion de vaincre pour croire en elle-même).
Bận khác, ông bảo:
- Mình bây giờ còn phải đánh dẹp. Mà quân đội, là trừ loạn an dân. Trừ loạn, thì khá rồi, cho về bớt cũng có thể. Nhưng an dân. Trừ loạn, thì khá rồi, cho về bớt cũng có thể. Nhưng an dân, thì chưa đâu. An dân là việc ông quan văn. Ông quan văn lại nhát lắm, chỉ muốn bồng vợ con dạo phố. Có ông, bắt viết cả ngày thì viết, nhưng hễ muốn cho một tỉnh, thì kêu đau bao tử chi đó. Nên an dân, lại cũng phải dùng người trừ loạn. Hỏi ông quan võ, hắn dạ liền, hắn quen kỷ luật, không đau bao tử. Anh ở Bắc, biết Tây xưa dùng quan Ba quan Tư trị nhậm Hà Giang Lao Kay, Territoires Militaires; cũng tốt, nếu không gá bạc. Các nơi đó có nhiều giặc cỏ. Giặc nó sợ súng, không sợ bài ngà, bắng cấp, ông Tá ông Úy thiếu luật lệ, thì cho một hành chánh làm Phó, được rồi. Kêu rằng bị người không hiểu biết người ta sai phái mình. Muốn sai phái lấy, thì mình phải dám lãnh trách nhiệm. Trách nhiệm mà trốn, thì cho biết thân mà dám, rồi coi lại sau. Ngày xưa, Nguyễn Công Trứ là quan văn, mà đi đánh giặc được. Nhưng ông văn không làm nổi, thì ông Gia Long giao ông võ, cho ông Tả Quân Duyệt làm Tổng Trấn Gia Định Thành. Xưa có Trấn Thủ, vừa đáng giữ, vừa cai trị. Bây giờ cho Tiểu Khu Trưởng kiêm Tỉnh Trưởng, cũng vậy, chỉ có danh từ thay đổi...
Sự biệt phái sĩ quan vào các chức vụ chỉ huy địa phương là một trong những biện pháp nội trị mà chính ông Diệm tìm lấy, ông Nhu chỉ có ý kiến về những cá nhân được chọn mà thôi.
Cơ cấu tổ chức các miền trong nước, từ Xã đến Phần do chính ông Tổng Thống thay đổi. Dự thảo các văn kiện căn bản, như Dụ 57-a ngày 24 tháng 10 năm 1956, do ông sửa chữa từng chữ: Như Cai Tổng thành ra Chánh Tổng.
Song ở phạm vi này, ông chịu ảnh hưởng sâu và nặng của các thời trước, nên vẫn theo quan niệm lâu đời về một hệ thống mà chưa ai xét lại tận nền móng. Ấp hay Thôn Xã, Tổng, Quận hay Phủ Huyện, Tỉnh và Phần hay Kỳ.
Hệ thống đó đã được chấp nhận ở những thời chánh quyền chỉ cần giữ yên xứ sở. Người hữu trách Quốc Triều cũng như Thuộc Địa, đều nhằm một mục đích tiêu cực, vô sự. Nhưng nếu mong có tiến bộ trong dân gian, nhất là muốn nắm vững dân trong thời loạn, thì chánh quyền phải có mặt với nhiều nhân viên và phương tiện ở ngay cấp Xã và cấp Quận, thay vì ở cấp Tỉnh.
Muốn kiểm soát, viện trợ và hướng dẫn, người của chánh quyền phải thị sát và can thiệp tại chỗ, hoặc tỏa về từ nơi gần nhất, là Quận lỵ chớ không phải Tỉnh lỵ vỉ Tỉnh lỵ còn quá xa. Nên Quận phải thay Tỉnh mà thành trung tâm nội trị, với những cơ quan hành chánh và chuyên môn, cùng những thẩm quyền xưa nay chỉ dành cho Tỉnh. Tỉnh Trưởng, với một số nhân viên tối thiểu, sẽ chỉ còn giữ nhiệm vụ thanh tra và cố vấn mà thôi.
Kế sách này, được trình lên ông Diệm từ khi ông mới chấp chánh: Ông có chú ý và xem xét vài lần. Ông nhận là phải, song theo ý ông, chỉ có thể thực hiện dần dần, vì phải có nhiều tiền và người. Hơn 200 Quận sẽ được tổ chức như Tỉnh, nên phải chờ một thời gian khá lâu mới mong cung cấp cho mỗi Quận ít nhất một kỹ sư với dăm bảy cán sự mỗi ngành chuyên môn, một số mà các Tỉnh cũng chưa có.
Song ông hướng về mục tiêu đó, và trong khi chờ đợi, ông nghĩ cách đem chính quyền lại gần dân hơn, tổ chức các Đoàn Cán Bộ Công Dân Vụ cho lưu động khắp các nơi, khi chưa tăng được nhân viên cho Quận, và khi chưa huấn luyện được người cho Xã; mặt khác, chặt các địa hạt quá rộng lớn thành những đơn vị nhỏ, thành nhiều Tỉnh hay nhiều Quận.
Bởi vậy, Công Dân Vụ được đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống, và do ông điều động, cho tham gia các chiến dịch, bình định, tuyên truyền, vận động tuyển cử, cải tiến dân sinh v.v...
Vấn đề thứ hai cũng do ông đích thân cứu xét. Ông phân chia lại lãnh thổ, thay đổi nhiều địa giới và địa danh, đặt ra những Tỉnh, Quận, hay cả những Tổng mới. Hình như nhân dịp này ông muốn in sâu dấu vết của ông trên bản đồ xứ sở.
Ngay từ năm 1956, song song với cuộc cải tổ hành chánh, ông ký các sắc lịnh ngày 22 tháng 10, ngày 23 tháng 10, và 24 tháng 10, đặt Cao Nguyên thuộc Trung Phần, gọi miền Trung cũ là Trung Nguyên, Sài Gòn-Chợ Lớn là Sài Gòn, định số tỉnh Nam Phần là 22, cắt Biên Hòa làm 4, để lập thêm Long Khánh, Bình Long và Phước Long.
Sau đó, ông lại lập các Tỉnh Tuyên Đức (ngày 19 tháng 5 năm 1958) Phước Thành (ngày 23 tháng 1 năm 1959) Quảng Đức (ngày 23 tháng 1 năm 1959) Chương Thiện (ngày 24 tháng 12 năm 1961) Quảng Tính (ngày 31 tháng 7 năm 1962) Phú Bổn (ngày 1 tháng 9 năm 1962) Hậu Nghĩa (ngày 14 tháng 10 năm 1963). Ông lập cả những quận mới như Đôn Luân tại Đồng Xoài, Phước Long (ngày 24 tháng 7 năm 1961) Đôn Nhơn (ngày 7 tháng 3 năm 1963) những Tổng mới như Hỏa Điền, Kiến Hòa (ngày 7 tháng 2 năm 1963)...
Với dụng ý Việt hóa những địa danh khó đọc hoặc có thể gây hiểu lầm đối với ngoại nhân, ông bắt bỏ những tên nôm na, thay bằng những tên được coi như nhiều ý nghĩa hơn, với những âm hưởng thời xưa, nghe như những tiếng thường thấy ở Đại Nam Nhất Thống Chí hay Khâm Định Việt Sử: Quận Núi Sập thành Quận Huệ Đức (An Giang) Cái Nhum thành Minh Đức (Vĩnh Long) Bãi Xâu thành Trang Kỉnh (Ba Xuyên) Bà Rịa thành Phước Tuy, Sóc Trang thành Ba Xuyên, Cà Mau thành An Xuyên v.v...
Việc này đã gây bất mãn và bị chỉ trích khá nhiều: Dân ta vốn tha thiết với những gì liên quan trực tiếp đến quê hương, người nào quen thuộc vùng ấy, không muốn liên lạc với những tỉnh lỵ quận lỵ chưa từng qua lại, hơn nữa, ai cũng tự hào về vùng mình, rất ngại mang tiếng bị sáp nhập vào quận hay tỉnh khác. Như khi ông Tổng Thống dự định lập Tỉnh Quảng Tín, một số nhân sĩ Quảng Ngãi khiếu nại rằng. Hạt chúng tôi là nơi sinh trưởng của nhiều danh nhân, là đất khoa hoạn, có thời được năm ông tiến sĩ đồng khoa, vua khen là ‘’ngũ phụng tề phi’’ nay bắt thành dân Quảng Tín, thì đâu còn phương danh ngũ phụng?
Ông Diệm bảo người chung quanh: Mặc mấy ông già kêu la, đặt tỉnh mới là việc lâu dài, người trẻ tuổi sau ngày cần chi ngũ phụng bát phụng, quen đem đơn lên Quảng Ngãi, thì rồi cũng quen đến Tam Kỳ, khó chi?
Lại có người trách sự đặt tên chữ, cho là cầu kỳ, cứ để nguyên tên nôm nghe thân mật hơn, càng quê mùa càng gợi nhiều kỷ niệm và tình cảm riêng của người dân địa phương. Bà Rá, Bến Tre khó nghe đối với tai ông Tổng Thống, song nhắc cho người sở tại những sự những chuyện mà ông không biết, còn Phước Bình và Trúc Giang, chỉ thỏa mãn những người thích văn tự cổ như ông. Mà nếu đổi, thì cần chi đổi hoài? Đã gọi là Mộc Hóa, sao còn đổi ra Kiến Tường, chẳng chữ Hán cả hay sao? Đổi Trà Vinh ra Vĩnh Bình, sao cứ để nguyên Kontum, Pleiku, Darlac? Và Sài Gòn thì Nho hay Hán đâu sao không thay?
Được vài bạn hỏi về vấn đề này, tôi đã ngỏ ý riêng như sau: Những tên gì thuộc thổ ngữ và đã bị người Pháp phiên âm, nghe lai căng lắm, cũng nên được Việt hóa. sự cải danh còn có chút hiệu lực về tâm lý, khiến cho danh hiệu chánh quyền nghiêm chỉnh hơn, mà phải nghiêm chỉnh mời có uy tín. Tỉnh Trưởng Phước Tuy hay Quận Trưởng Sùng Hiếu nghe chững chạc hơn là Tỉnh Trưởng Bà Rịa và Quận Trưởng Cái Bè.
Tuy nhiên, sự thay đổi cần dừng lại ở cấp Quận, và nên duy trì những tên được nhiều đời chấp nhận một cách hồn nhiên, có tiếng dội sâu xa ở tâm thần người thôn dã. Như quê tôi ở ngoài Bắc, giả thử có ai đổi thành Ngọc kiều chăng nữa, chiếc cầu Tó của tổng tôi, chắc không bà con nào của tôi bằng lòng, vì cầu Tó nhắc cho chúng tôi không biết bao nhiêu cảnh đời chỉ có thể được nhớ tiếc do người đồng hương với tôi. Ai đã từng ăn bánh dầy Quán Gánh hay bánh rán Cầu Khâu, mới muốn giữ Cầu Khâu và Quán Gánh.
Cũng may mà ông Diệm chưa kịp nghĩ đến những Bà Quẹo, Ông Cộ, Ông Tạ v.v...Tôi chẳng quen biết các ông bà này, nhưng cũng đoán nổi những ý nghĩa và thú vị riêng của các quý danh đối với đồng bào địa phương.
Về phương diện đối ngoại, kế hoạch chung thường do ông Nhu phác họa:
Hạn chế và kiểm soát quyền lợi của Hoa kiều; buộc họ nhập Việt tịch và muốn vậy, cấm họ làm một số nghề nếu giữ quốc tịch Tàu; bỏ Lý Sự Hội Quán và đặt cơ quan Trung Hoa Sự Vụ - giành lại chủ quyền đối với Pháp, song cứ cho Pháp hưởng những quyền lợi sẵn có về kinh tế và văn hóa, nhận viện trợ Pháp - trong sự giao thiệp với Hoa Kỳ, tuy cần được họ giúp đỡ, không để cho họ noi vết cũ của Pháp mà lấn quyền; cầu thân với Thế Giới Tự Do, với dân chúng cũng như các chánh phủ, vì thế, lập những hội thân hữu Việt-Phi, Việt-Mỹ, Việt-Nhật, Việt-Pháp v.v...
Ảnh hưởng của ông Nhu trên lãnh vực ngoại giao rất mạnh. Nhiều người biết rằng ý kiến của ông thường là yếu tố quyết định của ông Diệm, ngay về sự bổ nhiệm các đại diện Việt Nam và thuộc viên.
Thành thử điều nên xét đối với tôi, là trong khuôn khổ một chính sách đối ngoại như trên, chính ông Diệm đã giữ vai trò mình xử sự như thế nào?
Tôi thấy vẫn có những đặc điểm phân biệt hai anh em, nghĩa là tuy đồng ý trên nguyên tắc, lắm khi địa vị và cá tính của ông Diệm vẫn khiến ông có thái độ và phản ứng khác của ông Nhu.
Như khi chọn Đại Sứ, ông Nhu căn cứ vào thành tích mà xét có đủ trung thành là điều kiện ưu tiên không. Ông Diệm cũng đòi như vậy, nhưng ông còn xem tướng mạo...
Cử cựu Bộ Trưởng ra nước ngoài phục vụ: Ông Nhu cho đi để khỏi ở nhà nuôi ngầm bất mãn. Ông Diệm coi là sự đền công, vì đã giúp ông một hồi, thì dẫu thấy không đáng lưu nhiệm vì một vài lý do nào đó, ông cũng không nỡ bỏ. Ông ngại mang tiếng là bạc. Biết thế, có người được lên Bộ Trưởng, là nhắm sẵn một chân Trưởng Nhiệm Sở Ngoại Giao: Ba-lê, Đông Kinh, Bonn v.v...
Ông Nhu rất nghi kỵ người Tàu về cả hai mặt chánh trị và kinh tế: Chợ Lớn và nhất là các trường Tàu cần được kiểm soát chặt chẽ đề phòng sự trà trộn của Trung Cộng và sự toa rập với việt cộng, những vụ đầu cơ tích trữ và thao túng thị trường phải được chấm dứt. Ông Diệm nhìn nhận vấn đề Hoa kiều với con mắt lạc quan hơn, và thay vì bài trừ, ông nghĩ đến liên kết: Người Tàu thuở xưa đã định đồng hóa ra để sống chung yên ổn. Ông Tổng Thống muốn họ học Việt ngữ, mặc quần áo ta; với thói quen thay đổi tên gọi, ông bắt phiên âm theo giọng Việt những danh hiệu xí nghiệp Quảng Đông hay Phúc Kiến. Ông thông Hán tự, trọng Khổng Học và văn hóa cổ tuyền Trung Quốc, phục Tưởng Giới Thạch, thích thú cuộc phát triển mau lẹ của Đài Loan mà ông đã chứng kiến khi thăm xứ này. Ông hoan nghênh sự hợp tác của chuyên viên Tàu, và thúc đẩy Phong Trào Hiệp Hội Nông Dân, một tổ chức phỏng theo Nông Hội của Chánh Phủ Đài Bắc.
Sự dị biệt giữa ông Nhu và ông Diệm cũng dễ nhận trong sự bang giao Việt-Pháp và Việt-Mỹ. Cả hai người đều không thân Pháp, trên cương vị chánh quyền. Song ông Nhu là người hiểu biết sâu rộng và ưa chuộng văn hóa nhân bản của pháp, lại ít cảm tình đối với văn minh cơ xảo của Hoa Kỳ: Ông chẳng buồn học tiếng Mỹ. Tâm hướng của ông lộ ra trong một câu đã nói thủng thẳng năm 1955.
- Một thằng rất hiểu mình thì chỉ tính xỏ mình, một thằng muốn giúp mình thì chẳng hiểu mô tê chi cả.
Các trường Pháp và cơ quan văn hóa Pháp vẫn được tiếp tục hoạt động điều hòa, tuy đã có người khuyên ông Diệm nên liệu cách giảm bớt ảnh hưởng tinh thần của Pháp. Song ông Nhu cách giảm bớt ảnh hưởng tinh thần của pháp. Song ông Nhu thấy không nên xáo trộn huấn luyện và chánh trị; theo ông, chừng nào mình đủ trường hãy hay, mình còn thiếu thày, thì để họ dạy giúp, ở nhiều xứ khác, vẫn có trường Pháp; mình học quen tiếng Pháp thì cứ học, ngôn ngữ chỉ là phương tiện, xưa kia những người nổi lên đánh Tàu giành lại độc lập, lại chính là những người giỏi chữ Tàu văn Tàu.
Nên các con ông vẫn học trường Pháp, với gần 10.000 đồng bào trẻ.
Ông Diệm không phản đối, nhưng thường tỏ vẻ lạnh lùng hoặc nghiêm khắc. Cố vấn Pháp mà ông Nhu cho giữ lại trong Phủ để tiện liên lạc với Tòa Đại Sứ Pháp, ít khi được ông Tổng Thống hỏi han, chỉ hay bị kêu lên để nghe trách: Pháp kiều này buôn lậu, Pháp dụ dỗ thanh niên Việt Nam ở lại Pháp chớ không buộc về nước phục vụ v.v...Chính vì lý do này mà trong nhiều năm ông không cho qua Pháp du học; đi công cán hay tu nghiệp ở nước ngoài, mà xin ghé qua Pháp, thì khó lòng được phép; có lần ông diễu: Vẫn coi Ba-lê là thiên triều hay sao mà cứ phải sang chầu? Về phần ông, ông dửng dưng khi vài nghệ sĩ Pháp và cả một Tổng Trưởng Pháp ngỏ ý rằng Chánh Phủ Pháp muốn mời ông qua thăm nước Pháp (1959-1960).
Sự lãnh đạm của ông có thể giải thích bằng nhiều lẽ. Ông đã chịu đựng mọi nỗi khổ tâm của một ông quan cứng rắn trong thời Pháp thuộc, đã chống chính sách của Toàn Quyền Pasquier, và bị cách chức Thượng Thơ: Ông Nhu không từng trải cảnh tình đó. Ngoài ra, ông Diệm quên sao được, rằng năm 1955, quân đội Pháp đã giúp ngầm những lực lượng đối lập để mưu lật đổ ông? Sau hết, ông theo học Pháp ít hơn ông em, nên không nặng tình với một văn hóa mà ông Nhu đã thấm ngay trên đất Pháp, đến nỗi quen nghĩ và viết bằng tiếng Pháp.
Ông Diệm được người Mỹ giúp đỡ ngay trong hồi bôn ba hải ngoại. Ông tin cậy vào thiện chí viện trợ không vụ lợi của Hoa Kỳ, và do đó đã sẵn lòng tìm hiểu văn minh Mỹ. Ông có học tiếng Mỹ, tuy phải dùng thông ngôn, vẫn nghe được nhiều câu nói chuyện; ông chịu tập đọc cho đúng giọng Mỹ những bài diễn văn phải đọc trước Quốc Hội và nhiều đoàn thể Mỹ. Năm 1957, sau hai tuần công du tại Hoa Kỳ, ông vui vẻ thuận lại tỉ mỉ cho nhân viên thân cận những điều mắt thấy tai nghe, và tỏ ý khâm phục những người đã gặp cùng những cảnh đã xem.
Vài cố vấn Mỹ, thân hữu của ông Diệm, đã nhận rõ tâm trạng hai anh em. Họ tới gặp ông Tổng Thống luôn. Có khi dùng bữa điểm tâm với ông, nhưng rất ít khi thăm hỏi Cố Vấn. Ngược lại, ông Nhu cũng tỏ ra lạnh nhạt. Cố biết rằng đã có lần họ khuyên khéo ông Diệm nên để ông bà Nhu rời khỏi Việt Nam hay ít nhất cũng ra khỏi Dinh Độc Lập: Cái gì, chứ điều đó thì Cố không thể nào tha thứ. Cố oán trách ngoại nhân đã nói xấu ông và bà khá nhiều. Cố cho là họ đã bị tuyên truyền đầu độc và cần được giải độc. Rồi Cố còn thấy là nhiều nhân vật Mỹ có khuynh hướng xen lẫn, dùng áp lực mỗi ngày một nhiều hơn để buộc ông Diệm đi tới một chế độ mà họ cho là dân chủ hơn và thích hợp hơn. Đến năm 1962, Cố không ngần ngại tuyên bố nhiều lần, rằng thà khổ còn hơn chịu nhục, phải tìm cách thoát ly việc trợ, tự túc, tự cường và tự lập.
Trong khi đó, ông Diệm vẫn giữ thái độ hòa nhã đối với Mỹ; ở cương vị Tổng Thống, chắc ông không thể nào khác. Ông cũng rầu rĩ vì biết nỗi khổ tâm của ông Nhu. Ông không muốn chính sách thân thiện Việt-Mỹ bị tổn thương. Lòng thương em và tính cả nể của ông đưa ông tới một tình trạng rất khó xử.
Một cố vấn Mỹ, được ông tin dùng lâu năm, quyết xin về nước, sau nhiều phe tỏ ý chán nản.
Tôi lấy làm lạ:
- Tổng Thống vẫn quý ông, sao ông lại bỏ?
- Tôi không bỏ. Tôi vẫn quý ông Diệm. Nhưng ông Nhu muốn tôi đi, tôi có trình như vậy.
- Chắc Tổng Thống giữ ông lại?
- Không. Ông Diệm chỉ nói là ông tiếc lắm, very sorry, và hỏi tôi có muốn điều gì trước khi chia tay không? Tôi trả lời: Tôi chỉ mong rằng, dù thời cuộc biến chuyển ra sao, ông hãy giữ mãi cho tôi một chút tình xưa.
- Ông đã cáo biệt ông Nhu chưa?
Cố vấn Mỹ cười lạt:
- Tôi đã được ông ấy tiếp trong hai phút rưỡi.
Cách đó ít hôm, người Mỹ này rời Sài Gòn. Trước khi lên mày bay, ông ta rưng rưng nước mắt mà dặt tôi:
- Ông Tổng Thống chẳng nghe điều gì của chúng ta. Nhưng tôi vẫn chúc cho ông thành công. Giữa ông Nhu và tôi, tất nhiên ông không thể chọn tôi. Ông chỉ bắt tôi hứa rằng: Hễ khi nào ông cần thì tôi lại phải đến với ông. Tôi mong có thể gặp ông vào dịp Noël 1963...