Chương 1 Đưa ma
Trong tủ đặt một pho tượng bọc vải đen, trông như xác ướp, lộ ra mỗi cái đầu. Thoáng liếc qua, tôi đã nhận ra nó phỏng theo đầu Viên Trận. Như vậy là sao? Tôi nghi hoặc nhìn Tần Nhất Hằng, hắn gật đầu, không sai, chính là Viên Trận, còn có cả tay nữa này.
Tôi cúi xuống nhìn qua khe hở của miếng vải đen, quả nhiên trông thấy vài đầu ngón tay, lòng càng thêm rầu rĩ. Chúng tôi từng nhìn thấy thi thể Viên Trận, hai tay gã đều bị chém đứt, còn nghi ngờ rằng phải chăng lòng bàn tay Viên Trận ẩn giấu thông tin gì, giờ pho tượng to bằng người thật lại xuất hiện ở đây, hẳn là muốn cung cấp cho chúng tôi thêm manh mối.
Nghĩ vậy, tôi định xem lòng bàn tay của pho tượng, nhưng Tần Nhất Hằng lại nói có xem cũng vô ích, hình như đã có người động vào pho tượng, hai lòng bàn tay đều được mài bóng bằng giấy nhám. Tôi miết lên, quả nhiên nhẵn mịn như thủy tinh, không hề có chỉ tay.
Thật kì lạ. Tần Nhất Hằng cũng không hiểu nổi, đành nói lấy tượng ra rồi phân tích. Hai chúng tôi chuyển tượng ra ngoài, hì hục dùng kéo cắt bỏ tấm vải đen vừa nhờn vừa nhẫy, không rõ đã được ngâm vào thứ gì. Nhưng pho tượng bên trong lại sạch bong, không có vết bẩn nào. Tôi nhìn kĩ, thấy pho tượng trần như nhộng, giống hệt Viên Trận.
Tần Nhất Hằng xem kĩ một lượt cũng không phát hiện được gì nên chúng tôi lật nó lại, xem tiếp mặt sau. Đằng lưng pho tượng là mấy đường nét như bảng biểu, có vẻ được khắc lên ngay từ lúc nặn. Tần Nhất Hằng đưa tay sờ, im lặng hồi lâu.
Bảng biểu không lớn, chỉ bằng khoảng hai bàn tay, đường kẻ ngang dọc xiêu vẹo. Tôi càng nhìn càng thấy quen, nghĩ một hồi mới nhận ra trông giống bàn cờ tướng, định nhắc Tần Nhất Hằng, nhưng chưa kịp nói thì nhớ ra mình từng nhặt được một quân cờ ở nhà Vạn Cẩm Vinh, giờ lại nhận được một bàn cờ, chẳng lẽ chúng liên quan đến nhau?
Nghe tôi nói, Tần Nhất Hằng không khỏi kinh ngạc, hai chúng tôi ngồi thụp xuống thảo luận. Lúc ấy tôi có xem qua ván cờ, nhưng vị trí các quân cờ ra sao thì không nhớ rõ.
Cuối cùng, cả hai trở lại sofa hút thuốc, hút hết điếu thuốc vẫn chưa tìm ra thêm manh mối nào. Tần Nhất Hằng cho rằng nên nghỉ ngơi một lát, chỉ vào tủ quần áo bảo, bên trong hai cánh cửa này đều có hình vẽ bằng mực tàu. Tôi cũng từng dựa theo hình vẽ trên cánh tủ trước đây mới tìm ra từ đường của ngôi nhà.
Lúc mở tủ tôi không để ý lắm, chỉ thấy quả thật phía trong cánh tủ có vài hình vẽ nguệch ngoạc. Tủ cách bóng đèn hơi xa nên tôi phải né người sang một bên để ánh sáng rọi vào, mới thấy rõ dường như đây là một bức tranh.
Thoạt trông như tranh trẻ con, thật ra bút pháp thể hiện rất rõ, nét mực khá dày, song nội dung lại trừu tượng, như một nhóm người túm năm tụm ba khoa chân múa tay, chẳng biết đang làm gì. Tôi chỉ thấy giống các bà lão tập dưỡng sinh trên quảng trường. Trang phục của họ cũng không cho thấy đặc điểm gì, càng không biết ở thời đại nào.
Cánh tủ còn lại cũng tương tự, bút pháp có vẻ chỉn chu, nhưng nội dung lại chẳng ra sao, trong tranh không có người, trông như tranh phong cảnh. Tôi đoán đây là hình vẽ một con sông lớn như Trường Giang hay Hoàng Hà, vài nét vẽ trông rõ ràng là phác họa hướng dòng chảy.
Tôi không kìm được liền quay lại hỏi Tần Nhất Hằng, có ý gì nhỉ?
Tần Nhất Hằng bối rối nói, nếu cái tủ quần áo được làm từ quan tài thì đây có thể là những hình vẽ có sẵn trong đó. Tôi từng thấy hình vẽ ở một chiếc tủ quần áo khác, tuy không giống hai bức tranh này nhưng cách vẽ thì y chang, có thể do cùng một người vẽ, đại khái miêu tả cảnh một nhóm người nâng bài vị đưa tiễn linh hồn người chết. Lạ một điều là trong tranh ngoài những người nâng bài vị, còn lại đều mang vũ khí, không hiểu định làm gì.
Hơn nữa, quan trọng nhất là, Tần Nhất Hằng ngừng một lát rồi tiếp, ở một góc bức vẽ có nhiều kí hiệu can chi xếp thành dãy, xem chừng phức tạp. Tôi lấy điện thoại chụp lại rồi mang về bệnh viện, dùng la bàn đối chiếu thì phát hiện ra đây là một bản đồ bát quái được vẽ khá tỉ mỉ.
Nghe đến đây, tôi chợt vỡ lẽ, bản đồ bát quái nhất định là thứ dùng để định vị từ đường. Có điều tôi thực sự không hiểu, mặc dù chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy những quan tài cổ được khai quật, nhưng ít nhất cũng từng xem trên ti vi hoặc internet, rất hiếm khi tôi thấy bên trong quan tài có hình vẽ, nếu có thì cũng là hình rồng phượng, chứ không phải tranh trừu tượng thế này.
Tần Nhất Hằng không suy luận được gì thêm, chỉ nói rằng trông đường nét thì thấy tranh được thực hiện rất vội vàng, hơn nữa người vẽ chắc hắn đang ghi lại một chuyện quan trọng nào đó. Còn người ấy rốt cuộc muốn ghi lại điều gì thì chúng tôi chưa thể kết luận. Những hình vẽ trên cánh cửa các tủ quần áo hẳn từng là một chỉnh thể, nếu chúng tôi thực sự muốn tìm hiểu, chắc phải xem qua toàn bộ số tủ.
Nói xong, Tần Nhất Hằng trở lại sofa ngồi hút thuốc. Tôi cũng châm một điếu. Lượng thông tin thu thập hôm nay khá nhiều, khó mà tiêu hóa hết trong phút chốc. Có lẽ Tần Nhất Hằng cũng giải thích đến phát mệt nên hồi lâu chẳng nói gì nữa. Tôi nhắm mắt thầm tổng kết lại, cảm thấy như đang đặt mình vào một nghi vấn lớn. Tâm trạng rất khó tả, kiểu muốn hét lên mà không mở được miệng.
Đêm dài trôi rất nhanh, hút xong điếu thuốc, tôi nhìn đồng hồ, thấy sắp đến 5 giờ, bên ngoài trời đã tờ mờ sáng. Trước đó, tinh thần tôi luôn căng như dây đàn nên không có cảm giác gì, giờ mới thấy mệt mỏi. Tôi bàn với Tần Nhất Hằng, định bụng về nhà đánh một giấc. Tần Nhất Hằng cũng ngáp dài, kêu tôi về nghỉ ngơi để mau chóng lên đường.
Vất vả cả đêm, tôi quả thật không còn sức lực, về đến nhà, toàn thân rã rời, tôi nằm xuống ngủ ngay, lúc tỉnh dậy đã là buổi chiều. Hai ngày sau đó, tôi gần như chẳng làm gì, chỉ nằm ì trong nhà ngủ. Tới ngày thứ ba, Tần Nhất Hằng gọi điện nói đã đặt xong vé máy bay, tôi nhanh chóng thu dọn hành lý rồi tới sân bay gặp hắn.
Mấy ngày qua ngủ quá nhiều, đầu óc tôi cứ u u minh minh, không muốn trò chuyện. Sắc mặt Tần Nhất Hằng cũng có vẻ nặng nề. Trên đường đi, hai chúng tôi gần như không nói với nhau câu nào. Tôi hơi hoảng sợ, bởi lẽ trước đây tôi làm việc đều vì lợi nhuận, không có cảm giác gánh vác sứ mệnh, không đi không được như lần này, vì vậy tôi cứ cảm thấy nơm nớp không yên, như chưa kịp ôn kĩ bài đã phải vào phòng thi vậy.
Điểm đến là một thành phố loại một tôi chưa từng tới. Trước đó, tôi đã có thông tin của vài căn hộ trong khu vực, nhưng vì mức giá không hấp dẫn nên tôi không muốn đến xem. Xuống sân bay, tìm khách sạn xong xuôi, Tần Nhất Hằng dẫn tôi đi thuê xe, lại mua thiết bị định vị GPS ở chợ điện tử, sau đó lái xe chở tôi đi theo GPS.
Loanh quanh hơn nửa ngày, chúng tôi mới tìm được đúng địa điểm. Theo đánh giá của Tần Nhất Hằng, đây quả nhiên là một dự án xây dựng cực lớn. Hai chúng tôi ở quầy giao dịch nghe tư vấn, được biết toàn bộ khu đô thị rất rộng, giá tiền mỗi căn cũng không hề rẻ. Theo bản đồ quy hoạch thì có cả biệt thự và chung cư, bên ngoài là vành đai thương mại, giống như một khu đô thị phức hợp quy mô lớn. Tuy nhiên khu số 1 tới giờ vẫn chưa hoàn thành, mới chỉ xem được đại khái qua ảnh, mai sau xây xong thế nào cũng chưa thể nói trước.
Sau khi nghe cô nhân viên tư vấn nhà đất lải nhải nửa ngày, chúng tôi lái xe một vòng trong khu đô thị sắp hoàn thiện. Tần Nhất Hằng cứ cau mày, còn tôi không nhìn ra được gì nên lại thành thảnh thơi vui vẻ.
Trên đường về khách sạn, tôi hỏi Tần Nhất Hằng có phát hiện gì không, bởi nghe nhân viên giới thiệu, phần chính của khu đô thị mới bắt đầu khởi công, chỉ có một bộ phận nhỏ là nhà cũ bị di dời đi nơi khác, dường như không dính dáng đến ngôi nhà ma nào cả. Hơn nữa, chúng tôi cũng không hề nghe ngóng thấy thông tin tìm được đồ cổ trong lúc đào móng.
Tôi lo Tần Nhất Hằng tìm sai vị trí, thế nhưng hắn quả quyết mình đã nghiên cứu kĩ tọa độ, không thể sai được. Vừa nãy hắn quan sát khu đô thị, cũng nhận ra chút vấn đề, nhưng có vẻ không liên quan đến chúng tôi. Tần Nhất Hằng hỏi, lúc nãy anh có thấy mấy tòa nhà trơ trọi không?
Tôi nhớ lại, công trình chính của khu số 1 đều là những cao ốc ba mươi hai, ba mươi ba tầng, mật độ xây đựng khá dày nhưng vẫn có hai, ba tòa biệt thự xen giữa. Lúc đó, tôi rất ngạc nhiên nên giờ vẫn còn ấn tượng, liền hỏi Tần Nhất Hằng, thì sao.
Tần Nhất Hằng nói, theo bố cục kiến trúc hiện đại, ánh sáng là yếu tố chính quyết định chất lượng ngôi nhà. Số biệt thự kia được xây giữa các tòa nhà cao tầng chứng tỏ chủ nhà muốn tránh ánh mặt trời. Dù điều này không ảnh hưởng nhiều đến người sống ở đó, nhưng trong phòng tối tăm, dễ khiến người ta cảm thấy ngột ngạt.
Hắn chưa nói xong, tôi đã liên tưởng tới căn biệt thự chúng tôi tiếp nhận khi mới vào nghề. Phải chăng nhà cửa ở đây cũng để làm chuyện gì mờ ám? Người mua được nhà ở khu đô thị cao cấp thường không giàu có thì cũng quyền thế, mà ngày nay càng là người có tiền lại càng tin vào phong thủy huyền học. Vì vậy, các nhà đầu tư bất động sản thường mời thầy phong thủy tới xem, thậm chí có những khu đô thị còn công khai quảng cáo rằng đã mời thầy bà đến chọn đất xây nhà. Mấy ngôi nhà thiếu ánh sáng này ngay cả tôi cũng thấy có vấn đề về phong thủy, còn ai dám đến hỏi mua? Tôi bèn hỏi Tần Nhất Hằng, nhà đầu tư ở đây cũng không phải kẻ ngốc, chẳng lẽ lại có liên quan đến “âm trạch”?
Câu trả lời của Tần Nhất Hằng làm tôi bất ngờ. Trái lại thì có, các ngôi nhà này là của nhà đầu tư làm cho mình hoặc tặng bạn bè. Phong thủy có một thuyết là “dựa núi, nhìn nước”, núi ở phía sau giúp gia đạo vững chắc, nước ở trước mặt khiến tài vận lưu thông, nếu hợp với mệnh chủ nhà có thể xem là thượng phẩm. Đằng sau biệt thự toàn là cao ốc, phía đối diện tuy chưa hoàn thành nhưng không chừng sẽ đặt một pho tượng phong thủy lớn.
Các ngôi nhà này và cả công trình khu 1 sẽ hợp thành trận đồ đổi vận, mà trong đó đã bao hàm vài huyền thuật phong thủy. Khi hoàn thiện nội thất, họ sẽ bày thêm những đồ vật phong thủy để các chủ biệt thự làm ăn phát đạt, dựa vào tài vận của hàng trăm hộ dân sống trong chung cư phía sau.
Hơn nữa, vì phải làm nền cho những căn biệt thự kia, dù tài vận của chủ hộ trong chung cư không suy giảm rõ rệt nhưng ít nhất vận may trong tương lai sẽ bị người ta lấy mất. Tần Nhất Hằng cười nhạt, người mua nhà chung cư chắc chẳng hay biết gì. Ngày nay, nhiều khu đô thị thật ra đều bị nhà đầu tư nhúng tay vào, về cơ bản đều là loại trận đồ mượn vận may, chưa bàn đến việc nó có tác dụng hay không, nhưng ý đồ của mấy tên gian thương đã lồ lộ ra rồi.
Tôi chẳng ngờ còn có chuyện như thế, nên thấy hơi không đành lòng. Dù sao mua nhà cũng không phải chuyện nhỏ, rất nhiều gia đình tích lũy cả cuộc đời để đối lấy một chiếc chìa khóa, vui mừng phấn khởi dọn vào, hóa ra lại bị mắc bẫy. Nghĩ vậy, tôi không khỏi đồng cảm.
Tần Nhất Hằng khuyên tôi, dù có tìm chủ hộ để mách nước thì chưa chắc họ đã tin. Tôi đành văng tục rồi hỏi hắn xem tiếp theo định làm thế nào. Tần Nhất Hằng có vẻ chưa nghĩ ra, bèn đưa tôi về khách sạn trả phòng, sau đó chuyển sang khách sạn gần khu đô thị ngồi tính kế tiếp.
Bàn bạc mãi chẳng đi đến đâu, Tần Nhất Hằng đành gợi ý, cứ đợi xem, vì dưới dãy số còn có giờ giấc, chúng ta cứ loanh quanh gần khu đô thị vào khoảng thời gian đó, không chừng sẽ có phát hiện mới.
Đã le lói lối ra, tôi thở phào một hơi, nhẹ nhõm thì chưa nhưng ít nhất cũng đỡ căng thẳng.
Trong hai ba ngày tiếp theo, chúng tôi kiên nhẫn chạy xe quanh khu đô thị vào tầm giờ ghi dưới dãy số, tức là tờ mờ sáng, chừng hơn 4 giờ. Chạy xe lòng vòng thì không sao, nhưng ngày nào cũng phải dậy sớm nên cả hai mệt phờ.
Ngày thứ ba vẫn không có kết quả gì. Cuối cùng, Tần Nhất Hằng sốt ruột, bèn đưa vài trăm tệ cho ông chủ tạp hóa đối diện khu đô thị, dặn hễ có động tĩnh gì bất thường thì gọi điện báo với chúng tôi ngay, ông ta ngạc nhiên, nhưng thấy chỉ là việc vặt lại kiếm được tiền, nên cũng không từ chối.
Thú thật, chúng tôi không hi vọng nhiều vào cơ sở nằm vùng này, nhưng tới ngày thứ tư, chủ tiệm tạp hóa đột nhiên gọi điện, giọng điệu hăng hái. Lúc đó gần 11 giờ đêm, ông ta sắp đóng cửa thì nghe thấy pháo nổ lốp bốp bên khu đô thị, cũng không rõ đây có phải việc bất thường không, nhưng cứ gọi báo cho chúng tôi đã.
Tần Nhất Hằng nhận điện, tôi ngồi cạnh nghe, bụng bảo dạ, khu số 1 tuy chưa chính thức hoàn thành nhưng một vài công trình xung quanh về cơ bản đã xây xong, không chừng là tiểu thương nào đó chuyển tới trước, đốt pháo cầu may, ăn mừng chỗ mới.
Mấy ngày liền ngủ không đủ giấc, tôi đã lờ đờ, lúc này thấy thà đi tắm rồi ngủ cho xong.
Nhưng chưa kịp nằm xuống đã bị Tần Nhất Hằng lôi dậy, giục giã, mau mặc quần áo vào, đi thôi! Trông hắn rất nghiêm túc, tôi bèn hỏi tại sao.
Tần Nhất Hằng buông một câu chắc nịch, anh thấy có ai dọn sang chỗ mới giữa lúc khuya khoắt không?
Tôi giật mình, xem ra mấy ngày nay quá mệt, tư duy trì trệ, nhất thời bỏ sót chi tiết phi lý. Đúng, hiện không phải lễ tết, đang đêm đốt pháo làm gì? Tôi nhanh chóng mặc quần áo, cùng Tần Nhất Hằng tới khu đô thị.
Trên đường, chúng tôi không nói năng gì. Khu đô thị quy hoạch khá tốt, đèn đường sáng choang, nhìn từ xa đã thấy đẹp, có điều các tòa nhà đều tối om, khiến người ta có cảm giác lợn cợn.
Chúng tôi lái xe thẳng vào khu số 1. Xuống xe, Tần Nhất Hằng dẫn tôi dạo quanh một vòng, quả nhiên nhìn thấy những mảng lớn xác pháo trên đường chính dẫn vào nội khu, áng chừng đã đốt khá nhiều. Tần Nhất Hằng cân nhắc một hồi rồi gọi tôi lại, hai chúng tôi men theo đường chính chạy vào.
Khu nhà vắng lặng như tờ, dù có đèn đường nhưng càng chạy càng xa đèn, khiến tôi hơi bồn chồn. Chạy khoảng mười mấy phút thì nghe thấy một tràng pháo nổ, có vẻ còn cách rất xa. Tôi ngẩng đầu trông ra nhưng vẫn không thấy nơi nào có ánh sáng. Tần Nhất Hằng dừng lại, nói thầm, lát nữa nghe tôi hô thì tắt đèn pin đi. Không đợi tôi đáp, hắn lại tiếp tục chạy.
Chạy thêm một lúc, trán tôi bất đầu lấm tấm mồ hôi. Được gần mười phút, đèn đường cũng không còn, song Tần Nhất Hằng vẫn chưa dừng lại. Tôi nhìn kiến trúc xung quanh, cố nhớ lại bản đồ quy hoạch xem ở quầy giao dịch, đoán mò rằng chúng tôi đã chạy sang khu số 2 số 3 rồi. Chỗ này vừa mới thi công, chỉ có một khoảnh đất nhỏ đã đổ móng, còn lại đều là đống đổ nát. Bây giờ chưa quá muộn, nhưng cũng có thể coi là đêm khuya, nửa đêm ai lại tới nơi vắng vẻ đốt pháo chứ?
Tôi hơi lo lắng, song Tần Nhất Hằng chạy quá nhanh, khiến tôi đuổi theo hụt cả hơi, không có cơ hội hỏi. Đèn đường không có, tầm nhìn cũng không tốt, lại thêm đường gập ghềnh mấp mô, cả hai buộc phải chạy chậm lại, lúc này tôi mới hỏi được Tần Nhất Hằng rốt cuộc có chuyện gì.
Tần Nhất Hằng không đáp, giơ đèn pin quét quanh một vòng. Tôi lia đèn theo, thấy mặt đất vẫn còn xác pháo. Hắn bước tới quan sát kĩ đống xác pháo rồi nói, việc đuổi tà cầu may dù theo phong tục hay huyền thuật đều dùng tới pháo. Nhưng giờ không thấy người đốt pháo thì chưa thể làm rõ mục đích của người ta.
Ý hắn rõ ràng là vẫn phải đuổi theo. Chạy từ nãy đến giờ, tôi đã mỏi nhừ chân, phải tranh thủ ngồi xuống nghỉ lấy sức. Tần Nhất Hằng cũng không giục, lom khom lia đèn pin soi dưới đất. Lưng hắn quay về phía tôi, khiến tầm mắt tôi bị che khuất. Tôi tò mò dịch sang một bên mới phát hiện hắn đang chăm chú nhìn một chiếc bát sứ trắng bên đường. Nghe tôi gọi, Tần Nhất Hằng quay lại, trỏ vào cái bát.
Tôi hơi hồi hộp, vội chạy qua. Chiếc bát nằm cách chúng tôi không xa, giữa đêm tối chiếu đèn pin vào chỉ thấy ánh sáng phản chiếu loang loáng, lại gần mới nhận ra là một chiếc bát sứ trắng cỡ lớn, trông rất bình thường, kiểu dáng khá cũ kĩ, thời nay hiếm ai dùng. Tuy nhiên không phải đồ cổ, đáy bát đọng một lớp màu đen, trông như vết dầu mỡ sót lại sau khi đựng thịt kho tàu hay đại loại thế.
Tôi thấy Tần Nhất Hằng không tỏ vẻ gì khác lạ, chắc hẳn thứ này cũng không nguy hiểm. Do dự một hồi, tôi vẫn không dám sờ thử, chỉ vỗ lên người hắn rồi trỏ vào cái bát, đưa mắt nhìn hắn như muốn hỏi.
Tần Nhất Hằng hạ giọng đáp, cái bát này rõ ràng do người đốt pháo để lại, trước khi tôi xác định được thì chớ nên manh động, thứ đựng trong bát có khả năng là máu khô. Hắn lại hỏi, có dám gõ thử một cái không? Đoạn rút trong túi một thẻ gỗ nhỏ đưa cho tôi.
Định đem tôi ra làm chuột bạch hả? Tôi chỉ muốn chửi cho hắn một trận, xua tay ý bảo hắn đi mà làm. Tần Nhất Hằng cười, dùng thẻ gỗ gõ nhẹ hai cái vào miệng bát, lập tức vang lên hai tiếng lanh canh. Tần Nhất Hằng nhíu mày vẻ không cam lòng, lại gõ thêm hai cái khá mạnh, chiếc bát vẫn đáp lại bằng hai tiếng lanh canh.
Đứng bên cạnh, tôi không nghe ra điều gì bất thường. Theo lời Tần Nhất Hằng, chiếc bát này có máu, chẳng lẽ nó là vật cô hồn dã quỷ dùng để đựng thức ăn? Nghĩ vậy, tôi đổ mồ hôi lạnh, hất cằm về phía chiếc bát, dùng ánh mắt dò hỏi.
Tần Nhất Hằng kéo tôi đến bên kia con đường đất rồi nói, chiếc bát này người trong nghề gọi là “đà”. Đà chính là quả cân ngày xưa. Theo sự tiến bộ của thời đại, ngày nay người ta thường dùng cân điện tử nên hiếm khi nhìn thấy loại cân này. Mà theo huyền thuật, đà còn được dùng như vật nặng để chặn bóng.
Vào thời xưa, rất nhiều gia đình không thờ cúng tổ tiên hoặc thần linh, mà có đối tượng thờ cúng riêng, gọi chung là gia thần. Các gia thần này đều vô cùng kì quặc, lai lịch mỗi thứ một khác. Ví dụ, có nhà gia chủ gặp nạn, được động vật nào đó cứu mạng, hoặc lúc xây nhà chuyển mộ đào được xương người, sẽ coi chúng là thần linh mà thờ phụng, thậm chí có nhà còn thờ cả vật cũ dùng lâu ngày. Việc thờ gia thần của các gia tộc này khác với thờ cúng tổ tiên. Tổ tiên phù hộ con cháu đời sau tuy là đạo lý hiển nhiên, nhưng dù sao vẫn chỉ là người phàm chết đi, năng lực sẽ hơi yếu, trong khi các vị thần linh thông thường lại quá bận rộn, dù có linh nghiệm cũng phải vài đời thành tâm cúng bái. Gia thần thì khác, không chỉ hiển linh kịp thời mà còn rất hiệu nghiệm, hôm nay vừa thắp hương dâng đồ cúng, ngày mai đã đạt được ý nguyện, cho nên các gia tộc này tin tưởng vào sự chở che và phù hộ của gia thần hơn. Tần Nhất Hằng sợ tôi không hiểu nên giải thích rất rõ ràng, nghe như đang đọc tấu nói [37] .
Tôi bèn hỏi, việc thờ cúng thần tiên mà người xưa còn so đo hơn thiệt vậy ư? Theo cậu nói thì gia thần có bản lĩnh lớn, lại dễ linh nghiệm, thế thì ai cần lao động nữa. Mỗi người tìm một thứ để thờ trong nhà là muốn gì được nấy rồi!
Tần Nhất Hằng nghe vậy bèn khoát tay, ý bảo tôi đừng ngắt lời hắn rồi tiếp tục cắt nghĩa, không ngon lành như anh nói đâu. Trước tiên, chưa bàn tới việc gia thần là thứ ngẫu nhiên tìm thấy chứ không phải cứ muốn là được, thì xét riêng năng lực thôi cũng rất hạn chế rồi. Cái gọi là linh nghiệm cũng chỉ ở mức tương đối, cùng lắm là ban cho đứa con, ban mưa móc hay phù hộ cho phụ nữ trong nhà sinh đẻ thuận lợi. Thứ người thờ cúng cầu mong vốn không quá cao xa, huống hồ, có khả năng việc họ cầu mong được linh nghiệm cũng không phải nhờ công của gia thần, mà là việc đó đã được định sẵn trong đời họ. Gia thần chỉ suy đoán qua vận mệnh, biết trước kết quả và thể hiện ra thôi, phỏng chừng còn thay cho thầy bói nữa. Nhưng người thờ gia thần không ý thức được điểm này, nên đã mù quáng tin tưởng nó, từ đó mới nảy sinh một thứ như “đà”.
Về lý mà nói, gia thần không chỉ thuộc một gia tộc, hiển nhiên trong lòng người thờ cúng cũng biết rõ. Nhưng vì tư lợi bản thân, muốn giữ lại những gia thần linh nghiệm, họ đã tạo ra cái đà này. Tương truyền, đặt một ngọn đèn thờ trước bài vị, sau đó dùng đà đè lên bóng của bài vị đó thì có thể trói buộc gia thần trong nhà, khiến nó không rời đi được. Như vậy gia thần chẳng khác nào bị giam, chỉ có thể phục vụ gia đình ấy. Không rõ ai phát minh ra thuật này, nhưng nó vẫn được lưu truyền đến ngày nay, đủ thấy nó rất hiệu nghiệm. Về sau, thuật này còn sản sinh ra nhiều biến thể, ví như người giàu dùng đà đè lên bóng của phòng cất tiền để tài lộc không thất thoát; có nơi lại dùng đà chặn lên khăn đội đầu của nữ giới khi kết hôn để phòng cô dâu vượt rào... Chiếc bát này ban đầu phải đựng máu hươu đực, mùng một và ngày rằm hằng tháng thêm máu một lần, về sau người ta dần dần không xem trọng ngày tháng nữa, chỉ cần đựng máu là được.
Nghe một hồi, tôi vẫn thấy mông lung, nơi đây tuy không thể coi là vùng quê hoang vu hẻo lánh, song cũng vắng vẻ. Chưa bàn đến việc có bài vị hay không, dù có chăng nữa thì chẳng phải gia thần được thờ phụng trong nhà hay sao? Ở đây làm gì có ngôi nhà nào? Bất chợt tôi rùng mình, ngôi nhà chết tiệt ấy, có lẽ nào đang nằm dưới chân chúng tôi? Nghĩ vậy, tôi suýt nữa kêu thành tiếng, hóa ra là một cái xác trong mộ đang thờ cúng gia thần!
Tần Nhất Hằng vội vàng khuyên tôi đừng lo lắng, sau đó hắn giải thích, đà không nhất thiết dùng để trấn áp gia thần, hiện tại có thể thấy, mục đích của người đặt đà rất đơn giản. Sở dĩ đà có thể trói buộc gia thần là bởi nó nặng, sức nặng này không phải trọng lượng về mặt vật lý mà là cách gọi trong huyền học, giống như nói một người nặng vía vậy. Vì đà nặng cho nên thần tiên, quỷ quái đều rất khó di dời nó, đem đặt làm mốc chỉ đường rất tốt, có lẽ những người đốt pháo lo rằng họ không ra khỏi đây được.
Không ra khỏi đây được? Nơi này không phải mê cung, cũng chẳng phải chốn rừng rú, sao lại không thể ra khỏi? Tôi rọi đèn pin về phía trước, ánh đèn chiếu đến cuối đường thì bị bóng tối nuốt chửng. Thấy vậy, tôi càng hoảng sợ. Tần Nhất Hằng cũng do dự giây lát mới kêu tôi tiếp tục lên đường, nói rằng nãy giờ đã lãng phí nhiều thời gian, phải nhanh lên mới được.
Trên đường đi, tôi bước từng bước trầy trật, hễ tăng tốc lại lo giẫm phải cái hố nào rồi trẹo chân hoặc bị thương thì càng mệt. Cắn răng đi thêm vài trăm mét, Tần Nhất Hằng dùng đèn pin chỉ cho tôi xem, trên đường lại xuất hiện một cái bát sứ trắng giống như cái trước, xem ra thứ này quả nhiên là một mốc chỉ đường.
Tôi quên không để ý thời gian, cũng chẳng rõ đã đuổi theo bao xa, người mệt lử lả. Chúng tôi vẫn thỉnh thoảng nghe thấy tiếng pháo nổ phía trước, xem chừng lượng pháo đốt đang ít dần. Có điều, do khoảng cách thu hẹp nên tiếng pháo càng lúc càng lớn.
Hai chúng tôi tắt đèn pin. Ánh trăng đêm nay cũng tàm tạm, ít nhất không tối đến mức làm người ta lạc đường. Ban đầu, do mắt chưa quen với bóng tối, chúng tôi phải đi chậm lại. Nhờ đó, tôi mới kịp hỏi Tần Nhất Hằng ban nãy dùng thẻ gỗ gõ lên bát nhằm mục đích gì.
Tần Nhất Hằng giải đáp, trước hết, cái bát này là vật thường dùng trong huyền thuật, một là dễ kiếm, lại có kích thước vừa phải, khi dùng cũng dễ bề thao tác; hai là khá bền so với những dụng cụ dùng trong huyền thuật khác, tránh được việc nứt vỡ trong lúc bày thế cục phong thủy, khiến người dùng rước họa vào thân. Đáng nói là, nhiều bộ phim truyền hình thường chiếu cảnh các hộ nghèo thờ cúng người đã khuất, trước bài vị đặt bát đựng đầy cát hoặc gạo, đây là điều tối kị, chẳng khác nào gọi ma quỷ vào nhà. Dù hộ đó nghèo đến mức không mua nổi bát hương thì cũng không thể dùng bát ăn cơm, có dùng đồ gốm trông giống bát ăn cơm thì miệng cũng phải gập vào trong. Nếu miệng hướng ra ngoài thì chẳng phải ngụ ý đưa bát cơm nhà mình ra bên ngoài sao?
Chính vì có rất nhiều thế cục trong huyền thuật liên quan đến bát nên vừa rồi Tần Nhất Hằng nhất thời không nhìn ra ý đồ của kẻ sắp đặt. Thông thường, loại bát đặt bên đường thế này đều úp xuống, bên trong chèn bùa. Những kẻ có người thân lâm bệnh nặng quá lâu hoặc trúng tà sẽ tìm người giỏi phong thủy bày trò này nhằm trút vạ cho ai đó hiếu kì hay vô tình lật nó lên. Vậy mà cái bát lại đặt ngửa, để đề phòng đáy bát có vật nguy hiểm, Tần Nhất Hằng bèn dùng thẻ gỗ đào gõ thử vài cái kiểm tra. Thẻ gỗ đào vốn có tác dụng trừ tà, nếu thực sự có thứ gì bên dưới thì khi gõ lên bát sẽ phát ra âm thanh bất thường. Lúc nãy, âm thanh phát ra như thường nhưng độ rung của thẻ gỗ lại rất lạ, vì vậy hắn phải gõ thêm vài lần nữa mới xác định được đây là một cái đà.
Trong lúc nói chuyện, chúng tôi cũng đi nhanh hơn, phần vì mắt đã thích nghi dần với ánh sáng, phần vì trước đó đi chậm cũng đã phục hồi thể lực. Đã đến khá gần đối phương, chúng tôi không dám chạy huỳnh huỵch nữa, chỉ có thể rảo bước thật nhanh. Đi thêm mười mấy phút, chúng tôi lại gặp hai cái bát sứ trắng to, tiếng pháo cũng ngắt quãng vài lần, cuối cùng đã nhìn thấy ánh lửa. Không biết có phải do ảnh hưởng tâm lý không, tôi thậm chí còn có thể nhìn thấy vài bóng đen thoắt ẩn thoắt hiện gần chỗ đốt pháo.
Đám người này không hề soi đèn, ra là lần mò hành sự trong bóng tối, hèn chi di chuyển chậm như vậy. Tôi bèn hỏi Tần Nhất Hằng, cứ tưởng chúng ta tắt đèn pin là họ ở ngoài sáng, ta ở trong tối, nhưng giờ hai bên đều ở trong bóng tối cả, tiếp cận kiểu gì đây?
Hắn mím môi ngầm nghĩ, quan sát động tĩnh xung quanh rồi nói, chúng ta không cần tới gần quá, chủ yếu bám sát xem họ muốn làm gì thôi. Dứt lời, Tần Nhất Hằng lấy thẻ gỗ đào đưa cho tôi, dặn tôi bỏ vào túi áo, tắt điện thoại đi rồi trấn an, hiện tại hắn không cảm nhận được luồng oán khí nào, đám người này đều là người sống, chắc chắn trong số họ có kẻ am hiểu phong thủy huyền học, bảo tôi giữ thẻ gỗ đào chỉ vì lo có tên quỷ sứ qua đường nào kinh động đến dương khí, lỡ hắt hơi lại lộ tẩy. Nói rồi, hắn bảo tôi cúi thấp người, mò mẫm đi tiếp.
Cúi người đi còn vất vả hơn bò, tôi cứ đi lom khom đến suýt đứt hơi. Cũng may chúng tôi đã đến khu số 3, mặt đất có nhiều cọc để lại sau khi đào móng nên thi thoảng còn có chỗ nấp để nghỉ lấy hơi. Đi tiếp khoảng mười phút nữa, đến phía sau một cái cọc, Tần Nhất Hằng bảo tôi dừng lại. Tôi thò đầu ra nhìn, dù không rõ lắm nhưng cũng thấy đại khái động tác của mấy người kia. Vừa nhìn, tôi đã sợ tới mức suýt tè ra quần, vội nghiêng đầu hỏi Tần Nhất Hằng, họ là người thật đấy à? Chết tiệt, sao chẳng giống tí nào cả!
Đoàn người này đông hơn tôi tưởng, chắc phải trên hai chục người. Lạ nhất là mấy kẻ đi trước giơ lá cờ màu trắng, khá nổi bật, tôi vừa trông đã chú ý ngay. Đi sau là một toán người túm tụm, cũng không rõ định làm gì, trông mà rợn cả gáy.
Tôi bảo Tần Nhất Hằng xác nhận hộ xem đây có phải người sống không. Hắn nhìn chằm chằm hồi lâu mới lên tiếng, vẻ kinh ngạc, xem ra đây là một đám đưa ma, phía trước có người cầm phướn dẫn đường cho linh hồn, những người đi sau đang khiêng quan tài.
Hắn nói chưa hết câu, lông tơ trên người tôi đã dựng đứng. Ai lại đưa ma nửa đêm? Thông thường, hoạt động này đều diễn ra vào sáng tinh mơ, bọn họ không tranh thủ bình minh để tiếp dương khí, lẽ nào không sợ dính phải thứ gì dơ bẩn? Hơn nữa, đưa ma sao không dùng thiết bị chiếu sáng, lại lần mò đi xa giữa đêm hôm thế này?
Tôi vô cùng hoang mang. Tần Nhất Hằng cũng chưa đoán ra điều gì. Do dự một lát, hắn hạ giọng bảo tôi nán lại đợi để hắn đến gần xem thử. Nói thật, thấy tình hình như vậy, tôi chẳng còn gan đi tiếp cùng hắn. Tuy nhiên ở một mình cũng không khỏi kinh hồn bạt vía, chi bằng đánh liều mà đi, ít nhất còn có người hỗ trợ. Tần Nhất Hằng bèn căn dặn tôi lát nữa có gì bất thường thì phải chạy thật nhanh, rồi hắn tiếp tục lần mò đi trước.
Rời khỏi cái cọc, trước mặt bỗng trở nên trống trải, tôi không còn chỗ nấp nữa. Cũng may, hôm nay hai chúng tôi đều mặc màu tối, dù đối phương có phát hiện ra hay không cũng tự thấy an toàn hơn. Lò dò đi thêm mười mấy mét, Tần Nhất Hằng bảo tôi nằm sấp xuống rồi trườn tiếp, quả thật đã rất gần với họ.
Tim tôi gần như vọt lên cổ họng, đám rước kia đang tạm nghỉ, xem chừng vẫn chưa đến đích. Vị trí hiện tại là ở rìa ngoài khu số 3. Tôi nhớ lại bản đồ quy hoạch, có vẻ đây là vành đai thương mại bên ngoài khu đô thị.
Lẽ nào họ muốn qua bên đó? Như vậy là muốn ra khỏi công trường rồi. Tôi hạ giọng nói với Tần Nhất Hằng, hắn bèn thì thầm, đám người này hình như có quan hệ với nhà đầu tư bất động sản. Dù là khu đô thị chưa xây xong nhưng ít nhất ở đây cũng phải bố trí người canh giữ hoặc nhà ở cho công nhân, trong công trường hẳn có không ít vật liệu xây dựng cốt thép, vậy mà không ai trông coi thì thật quá vô lý.
Tôi như tỉnh mộng, trước đó quả thật đã bỏ sót điểm này. Trong lúc chúng tôi nói chuyện, đám người kia lại đi tiếp, vẫn giữ tốc độ vừa phải. Hai chúng tôi đợi họ đi được một đoạn đáng kể mới đuổi theo.
Vừa đi vừa bò khoảng mười mấy phút, khắp người tôi bắt đầu đau như dần. Đám người nọ quả thật đi đến tận khu thương mại chưa xây xong rồi dừng lại cạnh tòa nhà. Hai chúng tôi kiên nhẫn đợi một lúc mới rón rén khom người áp sát góc tường.
Ở vị trí này, chúng tôi có thể quan sát đối phương rõ hơn. Nhưng vì sợ bị phát hiện, cả hai đều không dám tùy tiện thò hẳn đầu ra, mười mấy giây mới dám liếc một lần. Tần Nhất Hằng dòm một lát thì hạ giọng hỏi, anh nhìn kĩ xem, có cái gì đó đang bò ra khỏi quan tài, đúng không?
Hán nói nghe thật nhẹ nhàng, nhưng vào tai tôi chẳng khác nào sét đánh, vừa hoảng hồn vừa tò mò, tôi bạo gan ngó đầu nhìn.
Quả nhiên, một bóng người đang bò ra khỏi quan tài, đã bò đến đoạn thắt lưng rồi. Tôi hít mạnh một hơi, ngoái lại Tần Nhất Hằng, định hỏi han cho rõ mà lời nghẹn cứng trong cổ.
Tần Nhất Hằng liền cười bảo, không phải sợ, người kia chắc chắn còn sống. Theo tình hình hiện tại, tất cả những việc này đều là một thế cục, người trong quan tài hoặc là cực kì mê tín nên mới làm theo cách thức được mách cho, hoặc là mắc bệnh nan y sắp chết. Thế cục này thường thấy trong phong thủy và huyền thuật thời xưa, được gọi là đưa tang hoặc thọ rẽ ngang, dùng để kéo dài tuổi thọ, tuy nhiên nghe nói hiếm ai thành công. Sở dĩ gọi đưa tang là bởi các bước giống hệt đưa tang thật, nhưng cuối cùng thứ đem hạ huyệt chỉ là tóc của người trong quan tài, làm vậy nhằm lừa lũ quỷ bắt hồn, để chúng tưởng rằng người này đã chết, hồn phách cũng tiêu tan. Trong lúc chúng chưa phát hiện ra, người nọ có thể sống thêm vài năm hoặc vài tháng nữa. Cách gọi khác là thọ rẽ ngang, ý chỉ sinh mệnh đã rẽ sang một khúc ngoặt, có thể kéo dài thêm một thời gian.
Cách này thật ra không thể xem là huyền thuật chính thống, tuy phổ biến ở nhiều nơi nhưng càng ngày càng giản lược, phần lớn chỉ cho người thân trong gia đình giả bộ khóc tang để an ủi tâm lý, tất nhiên là chẳng có tác dụng gì. Đây là lần đầu tiên Tần Nhất Hằng chứng kiến cách làm kì lạ như thế kia.
Nói tới đây, hắn lại liếc đám người rồi tiếp, còn về chỗ pháo, giờ chỉ có thể suy đoán rằng chúng được dùng để xua đuổi ma quỷ, có nhiều nơi trước khi đưa tang cũng đốt pháo. Việc này được gọi là “kinh đề”, một là để nhắc nhở lũ ma quỷ nhường đường, đừng gây chuyện phiền phức, hai là để chào hỏi những linh hồn lang bạt gần đó, để họ theo sau dòng người đưa tang và lĩnh tiền âm phủ. Tiền âm phủ thường được rải dọc đường tới tận nơi hạ huyệt, chính là bắt nguồn từ việc này. Nhưng đám người kia không hề rải tiền âm, không rõ đã được sắp xếp từ trước hay do sơ suất, vốn dĩ nếu đã giương phướn dẫn hồn thì càng phải đốt pháo mở đường mới đúng.
Nghe Tần Nhất Hằng cắt nghĩa một hồi, tôi tổng kết được rằng, đám người kia không định giả thần giả quỷ. Nhưng dù chỉ làm cho đủ thủ tục thì cũng không thể mang quan tài đến chỗ này chứ, hay họ chỉ đi ngang qua thôi?
Tôi hỏi Tần Nhất Hằng, hắn lắc đầu, đành đợi xem sao. Liếc một cái, hắn lại tiếp, nghe nói sau khi chết, người dùng biện pháp này sẽ phải chịu cực hình dưới cõi âm, kiếp sau cũng không thể làm người. Tuy nhiên đây chỉ là suy đoán, dù sao cũng chưa ai tận mắt nhìn thấy Diêm vương.
Nếu đối phương là người sống thì tôi không sợ, cùng lắm bị phát hiện thì nhanh chân chuồn là xong. Tôi nhìn lại, thấy đám người vẫn ở nguyên chỗ cũ, chẳng biết có trò chuyện gì không, trông cứ như đang đứng đờ ra đó. Trút được sợ hãi, tôi tự nhiên lại có thể tĩnh tâm quan sát. Đồ đạc họ mang theo cũng khá đầy đủ, người, ngựa, xe bằng vàng mã không thiếu thứ gì, chất thành một đống nhỏ. Tôi nghĩ bụng, mau châm lửa đốt đi, như vậy có thể nhân lúc lửa cháy nhìn rõ mọi thứ.
Lại qua một lúc nữa, bằng thời gian hút hết điếu thuốc, đám người mới bắt đầu hành động, khiêng quan tài lên rồi ngang nhiên đi vào tòa nhà. Tôi quay lại gọi Tần Nhất Hằng, nhưng hắn không hề sốt ruột, bảo tôi kiên nhẫn đợi thêm lúc nữa, dù họ khiêng quan tài rỗng nhưng cũng không nhẹ hơn là bao, chẳng đi nhanh được đâu.
Tôi bèn ngồi dựa hẳn vào tường nghỉ ngơi, tranh thủ hút điếu thuốc. Sau đó cùng hắn lén lút bám theo, đến cửa thì ngó vào tòa nhà, ánh trăng không chiếu tới nên bên trong tối om, phải dựa sát vào cửa tò vò mới thấy được thấp thoáng. Tôi nheo mắt gắng nhìn, láng máng vài đốm trắng nhờ nhờ, chính là ngọn phướn dẫn hồn đang giương cao. Trái lại, tiếng chân của họ nghe rõ mồn một, hẳn là bởi tòa nhà rộng thênh thang và trống trải. Tần Nhất Hằng nhắc tôi nhẹ chân, rồi rón rén dẫn đường. Đi chưa bao xa, tôi phát hiện tòa nhà này rộng hơn tưởng tượng, bên trong cũng không thấy tường ngăn, có thể xây xong sẽ được trưng dụng thành siêu thị lớn hoặc trung tâm thương mại.
Như vậy cũng tiện, chúng tôi khôi lo phải lần mò rồi để ý ngã ba ngã bảy trong đêm tối, đổi lại việc bám theo sẽ khó hơn, vì không có chỗ nào để tạm thời ẩn núp. May thay lát sau, đám người kia cũng dừng lại, không nghe tiếng bước chân nữa, chỉ còn tiếng sột soạt. Hai chúng tôi ngồi xuống đợi, bỗng thấy phía trước sáng bừng. Họ đột nhiên bật đèn pin, mấy luồng sáng loang loáng quét qua đằng trước chúng tôi.
Lúc nãy dò dẫm trong bóng tối tôi không hề sợ hãi, vậy mà giờ có đèn lại luống cuống vô cùng. Ban đầu, tôi còn nghĩ chúng tôi đã bị lộ, vừa định chạy thì bị Tần Nhất Hằng ấn xuống, bảo tôi nằm sấp theo hắn rồi rỉ tai, đối phương chưa có ý định quay lại, có lẽ chưa phát hiện ra chúng ta đâu, vì ở đây quá tối nên họ cũng không đi tiếp được đấy thôi.
Con người ở trong trạng thái căng thẳng cao độ khó tránh khỏi trông gà hóa cuốc. Nằm sấp xuống, tôi mới thấy quả thật đám người kia chưa có ý định quay lại. Ánh đèn khiến mọi thứ hiện lên rõ ràng hơn, cách ăn mặc của họ đều rất bình thường, không nhìn ra ai đặc biệt. Lúc này, quan tài đang đặt trên mặt đất, nắp quan đóng kín, chẳng rõ kẻ khi nãy bò ra đang nằm bên trong hay đã đứng ở ngoài cùng cả đám.
Trong hai, ba phút, cả đám thi thoảng khom lưng làm gì đó, thực sự không thể nhìn ra. Tôi gõ tay lên người Tần Nhất Hằng, định hỏi hắn. Hắn ra hiệu nhưng tôi không hiểu. Cuối cùng, hắn bất đắc dĩ chỉ tay về phía trước, có vẻ muốn bảo tôi tự xem.
Tôi kiên nhẫn quan sát tiếp mấy giây thì vỡ lẽ. Vừa rồi tầm mắt bị cản trở, hơn nữa tôi cũng không suy nghĩ theo hướng này, giờ đây những người kia đứng lên, tôi mới nhìn rõ, hóa ra bọn họ chuẩn bị xây tường! Điên à, một đám công nhân nửa đêm tăng ca sao? Chẳng lẽ lại yêu nghề đến mức ấy?
Tôi chăm chú theo dõi, miệng há hốc cả ra. Đối phương bắt tay vào việc rất nhanh, chỉ vài phút sau là tất bật hẳn lên. Hình như đã dặn nhau trước nên họ cứ rón ra rón rén, dùng thứ gì cũng nâng lên đặt xuống nhẹ nhàng. Kì lạ nhất là chẳng ai nói năng câu nào, thậm chí một tiếng thở hắt ra cũng không nghe thấy. Chứng kiến cảnh đó, lòng tôi ớn lạnh.
Họ thoăn thoát làm khoảng mười phút, áng chừng sắp xong, đột nhiên lại có mấy người bước ra khiêng cỗ quan tài lên, những người bên cạnh lập tức nhường dường. Mấy người kia chậm rãi khiêng quan tài đi vài bước rồi dừng lại.
Tôi không thấy rõ phía trước quan tài là gì, trông qua các khe hở loáng thoáng thì hình như là một bức tường. Tôi càng khó hiểu, trông họ như đám binh sĩ thời cổ đang ôm gốc đại thụ tông vào cửa thành, chẳng lẽ họ định tông thủng bức tường? Không để tôi kịp nghĩ tiếp, đám người này nghiêng một đầu quan tài lên, chúc đầu kia xuống đất. Ban đầu, tôi tưởng họ muốn dựng đứng chiếc quan tài, lát sau mới nhìn ra, bức tường trước mặt họ có một lỗ hổng cao bằng người, họ đang dồn sức đưa quan tài lấp vào lỗ hổng đó.
Mồ hôi lạnh từ trán chảy xuống mũi, tôi không sợ hãi, chỉ căng thẳng tột độ vì khi đám người hợp sức đỡ quan tài, tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng gầm nhẹ như đang vận hết sức lực.
Trước đây tôi từng thấy ti vi đưa tin hung thủ sau khi giết người đã vùi thi thể trong tường, chẳng lẽ đám người này đều là sát nhân? Đêm nay tới đây để phi tang chứng cứ? Nhưng cớ gì lại đặt thi thể vào quan tài? Tôi hơi lùi lại theo bản năng, khi thấy bả vai Tần Nhất Hằng trong tầm mắt mới bình tâm lại.
Tôi vừa di chuyển, Tần Nhất Hằng đã quay lại nhìn, vẻ mặt hắn như sắp lâm trận, thấy vậy tim tôi đập càng nhanh. Đám người kia đang túm tụm lại trát tường, nom rất thuần thục, chưa tới vài phút, bức tường đã được trát xong, nhìn bên ngoài chẳng ai biết bên trong còn có một cỗ quan tài!
Tôi chưa kịp cảm thán, Tần Nhất Hằng bỗng giật lui, nói nhỏ vào tai tôi, mau rút thôi, có vẻ lát nữa họ sẽ châm lửa đốt vàng mã! Đoạn hắn chuyển sang tư thế bò, lùi lại vài mét rồi khom lưng trượt ra ngoài, không hề đợi tôi.
Mẹ kiếp, đúng là chẳng có tình nghĩa gì, tôi chửi thầm rồi vội vàng rút theo. Động tác của hắn trông thì đơn giản nhưng không dễ bắt chước. Cơ bắp tôi căng ra vì sợ đối phương phát hiện, bò được vài bước thì cánh tay đau ê ẩm, may mà đã có thể lồm cồm lùi về sau. Được khoảng hai mươi mét, chúng tôi lủi vào một góc tối cạnh tường rồi ngồi xuống.
Vừa ngồi yên chỗ, phía bên kia quả nhiên sáng lên, ánh lửa tỏa ra bốn phía. Hai chúng tôi tuy đã ở trong xó tối nhưng chưa yên tâm, lại lùi thêm vài mét nữa. Bấy giờ tôi mới có cơ hội hỏi, những người này định làm gì vậy?
Tần Nhất Hằng lắc đầu nói, tôi cũng đang suy nghĩ, bọn họ hành động rất kì lạ, quả thật khó đoán. Sau đó, hắn nhìn chằm chằm về phía có ánh lửa, rồi lại lắc đầu. Đến hắn cũng chẳng nghĩ ra thì tôi càng bó tay.
Đám người nọ đốt vàng mã, rồi cho nốt phướn dẫn hồn vào làm ánh lửa dần tối lại. Tiếp đó, một người giơ tay lên, ném mạnh một thứ xuống đất, nghe tiếng có vẻ là đồ đựng, rồi tất cả cúi xuống mò tìm. Khoảng cách quá xa, lại thêm đống vàng mã đã cháy gần hết, chúng tôi không nhìn được dưới chân họ có gì.
Tần Nhất Hằng thấy thế định kéo tôi chạy đi, song đám người kia sau khi đứng lên lại vội vã đi về hướng khác, không hề quay đầu lại, khiến hai chúng tôi vô cùng sửng sốt. Một lúc lâu sau, Tần Nhất Hằng chợt biến sắc, toi rồi, dấu hiệu họ để lại dọc đường vốn không phải mốc đánh dấu đường ra mà nhằm chỉ đường cho một thứ tới đây.
Tôi nghe mà kinh hồn bạt vía, dẫn thứ khác tới đây sao? Khỏi nghĩ cũng biết không phải thứ hay ho gì rồi! Tần Nhất Hằng trấn tĩnh, cúi đầu nghĩ một lúc rồi nói, bây giờ chỉ có hai cách, thứ nhất là đi theo đám người nọ, nhưng lúc này rất khó theo kịp. Giờ họ không còn cỗ quan tài lỉnh kỉnh kia, hơn nữa lộ trình chắc đã được vạch sẵn, có thể đã chạy khỏi đây rồi. Thứ hai là chúng ta tự tìm đường, dù sao khu nhà này cũng gần đô thị, lát nữa chỉ cần cẩn thận một chút là thoát ra nhanh thôi.
Ý hắn là chúng tôi nên tự tìm đường ra. Tôi nhìn trước ngó sau, thấy bốn bề tối đen như mực, rờn rợn khó tả, nghĩ bụng dù sao cũng phải nhanh chóng rời khỏi đây, vội giục hắn dẫn đường. Tần Nhất Hằng ừ một tiếng, đưa mắt quan sát xung quanh. Không biết hắn có nhìn thấy lối ra nào trong căn phòng tối om này không, nhưng vẫn đưa tôi chạy theo hướng đám người nọ.
Ngang qua bức tường kia, chúng tôi dừng lại xem kĩ mới phát hiện ra đây không phải tường mà có vẻ là một cái cột vuông to nằm chính giữa tòa nhà. Tần Nhất Hằng bước đến gõ lên đó vài cái rồi cúi đầu nhìn đám tro tàn vàng mã. Cuối cùng, hắn nhặt một mảnh tro đen thui lên ngửi, buột miệng chửi thề, chó má thật, tôi hiểu ra rồi, đây là vị trí “mắt thần” được thầy phong thủy lựa chọn, chắc định dùng thế cục phong thủy để dụ dỗ vài thứ quanh đây đến, khỏi gây vướng bận đường tài lộ của các chỗ khác! Nói xong, Tần Nhất Hằng vỗ đùi hét lên, nguy thay, mau chạy thôi!
Nghe tiếng hét bất thình lình, chân tôi mềm nhũn. Theo lời hắn, chúng tôi có vẻ lành ít dữ nhiều. Thế nhưng, nhờ những kinh nghiệm phong phú trước đây, chỉ lát sau tôi đã định thần trở lại, vội hỏi Tần Nhất Hằng rốt cuộc phải làm gì bây giờ.
Suy tính một hồi, hắn dùng tay miêu tả đại khái đường hướng rồi dặn tôi nhắm mắt nín lặng, đặt hai tay lên vai hắn, xảy ra chuyện gì cũng không được mở mắt hay bỏ tay ra, kể cả cảm thấy có người kéo quần áo. Dứt lời, chẳng đợi tôi kịp hỏi duyên do, Tần Nhất Hằng đã đặt cánh tay tôi lên vai hắn rồi móc một thứ trong túi ra sờ nắn, xong xoay người đi ra ngoài.
Lòng tôi thấp thỏm không yên. Nghe Tần Nhất Hằng nói, tôi biết chắc mình sắp gặp ma. Trước đây cũng không chỉ một, hai lần phải nhắm mắt đi lại trong nhà ma, nhưng rõ ràng lần này căng thẳng hơn nhiều. Tôi đặt tay lên vai Tần Nhất Hằng rồi nhắm chặt mắt, di chuyển theo nhịp bước chầm chậm của hắn.
Không rõ Tần Nhất Hằng có mở mắt hay không nhưng tốc độ di chuyển của chúng tôi cực kì chậm, đi mãi mà tôi vẫn có cảm giác chưa được bao xa.
Độ năm, sáu phút, dường như mới tới cửa tòa nhà, Tần Nhất Hằng dặn, cẩn thận cầu thang. Tôi bước theo hắn, cảm giác từ lòng bàn chân cho tôi biết mình đang trở lại con đường đất ban đầu. Mặt đường lỗ chỗ toàn hố, tôi rất sợ sẩy chân bước hụt nhưng không thể mở mắt, mỗi lần đặt chân xuống lại chần chừ nên đi càng chậm.
Tần Nhất Hằng không hề thúc giục tôi, dường như ngầm hiểu nên cũng cố ý đi chậm lại. Được khoảng mười, hai mươi mét nữa, hắn bắt đầu lảo đảo.
Đi sau vịn vai Tần Nhất Hằng, tôi có cảm giác bờ vai hắn lắc lư, lúc sang trái, lúc lại sang phải. Ban đầu, tôi còn cho rằng hắn tránh những cái hố trên mặt đất, thế nhưng hắn cứ đi như vậy một lúc lâu. Tôi bám theo rất vất vả, chỉ muốn lên tiếng hỏi nhưng lại sợ phạm quy, đành nín nhịn không hé nửa lời.
Lại đi thêm vài bước, tôi bỗng cảm thấy hông bị va chạm, không đau nhưng khá mạnh, suýt nữa làm tôi buông tay. Tôi không nhìn được, cũng chẳng biết Tần Nhất Hằng đang làm gì, theo cảm giác từ tay thì dường như hắn đang luồn lách né tránh thứ gì đó. Nếu buộc phải hình dung, tôi thấy giống như đang chơi trò bịt mắt bắt dê thuở nhỏ vậy.
Tôi nghi hoặc nhéo Tần Nhất Hằng, nhưng hắn không hề phản ứng, tôi hơi hoảng, chẳng lẽ hắn bị cái gì nhập vào rồi? Đang định nhéo hắn thêm lần nữa, vai tôi lại bị đụng một phát. Lần này còn mạnh hơn lần trước, khiến tôi đau nhói, cánh tay bị va tuột khỏi vai Tần Nhất Hằng.
Trong cơn hoảng loạn, tôi vội vã bám lại vào vai hắn, nhưng đưa tay lên lại cảm giác đầu ngón tay cọ phải một vật cưng cứng. Không biết Tần Nhất Hằng đang dẫn mình đi đâu, tôi thử huơ huơ tay thăm dò, nhưng chẳng sờ thấy gì.
Vừa rồi vô thức duỗi tay sờ, giờ mới sực nhớ Tần Nhất Hằng dặn không được buông ra, tôi vội vàng đặt tay lên vai hắn như cũ. Đúng lúc đó tôi nghe cả người lạnh toát, vì một đôi tay khác vừa đặt lên vai tôi. Cơn lạnh chạy luồn theo cổ, cột sống, rồi lan ra toàn thân. Vào thời khắc này, ở nơi này, tôi dám khẳng định kẻ đằng sau mình không phải người sống.
Đã lâu lắm rồi tôi không sợ hãi như vậy, chỉ muốn hét lên thật to, nhưng tiềm thức vẫn nhớ lời dặn dò của Tần Nhất Hằng, đành bóp mạnh vai hắn để nhắc rằng tôi đang gặp chuyện. Thế nhưng, dù tôi bóp mạnh thế nào, hắn cũng chẳng mảy may phản ứng. Tôi không nhịn nổi nữa, chỉ lo hắn dính đòn, chưa biết chừng bây giờ có một đôi tay khác đang bóp cổ hắn cũng nên!
Nghĩ vậy, tôi liền cất giọng hét thật to tên hắn rồi bất chấp tất cả mở mắt ra, muốn xem xem rốt cuộc mình đang ở nơi nào. Vừa mở mắt, cả người tôi bỗng cứng đờ. Dù tôi đã vào khá nhiều nhà ma, nhưng vẫn không khỏi kinh hoàng. Trước mắt tôi có khoảng vài chục bóng đen đang đi tới, trông dáng vẻ có cái giống người, có cái lại giống súc vật. Dù khoảng cách đã rất gần nhưng tôi chỉ có thể thấy một đám mơ hồ lẫn lộn. Bấy giờ tôi mới hiểu tại sao ban nãy Tần Nhất Hằng phải vừa đi vừa lách trái né phải. Vì chúng tôi đang đi ngược chiều với những bóng đen kia, nên hắn phải luồn lách né tránh chúng!
Lòng tôi lạnh buốt, tự nhủ lần này phải bỏ mạng ở đây rồi, nhiều tà vật như vậy, Tần Nhất Hằng chắc cũng bó tay. Con người một khi đã mất hi vọng thì không còn thấy sợ hãi nữa, tôi cắm cúi đi theo Tần Nhất Hằng, phớt lờ tất cả những thứ trong tầm mắt, song đôi tay trên vai tôi vẫn còn đó, dường như đối phương cũng đang đi theo nhịp bước của chúng tôi.
Tôi vốn đã buông xuôi, cứ đi như sắp tới thẳng điện Diêm La. Đột nhiên, Tần Nhất Hằng kêu ai da một tiếng. Hắn vừa cất lời, những bóng đen xung quanh đều tan biến, có cảm giác ngay cánh tay đặt trên vai tôi cũng biến mất.
Tần Nhất Hằng ngồi phịch xuống đất, quay sang mắng tôi, mẹ kiếp, dặn sao không nghe? Nếu không phải trời đã sáng thì lần này thực sự bị anh hại chết rồi!
Dù hắn mắng té tát nhưng tôi vui mừng còn chưa hết, bụng dạ nào mà giận dữ. Cảm giác nhặt lại được cái mạng khiến tôi suýt chút nữa thì òa khóc. Tôi ngẩng đầu, tuy mặt trời chưa ló dạng nhưng bầu trời đã bắt đầu xuất hiện những tia sáng bàng bạc.
Thần kinh vừa nãy căng như dây đàn, giờ đây mới được thả lỏng khiến cả người tôi mềm nhũn. Tôi cũng ngồi bệt xuống đất, hỏi Tần Nhất Hằng khi nãy xảy ra chuyện gì. Hắn không trả lời, chỉ nhổ phì phì, mặt mày nhăn nhó. Chẳng lẽ hắn lại ngậm phân dê? Tôi chưa kịp hỏi, hắn đã chửi tiếp, chết tiệt, tôi đã liều mạng ngậm “nến muối”, hai tay còn phải che cho sợi bấc không tắt, chẳng lẽ anh không để tôi yên tâm một chút được sao. Nói xong hắn lại phun phì phì, dường như trong miệng còn không ít vụn nến.
Tôi vội vàng lấy bình nước trong túi đưa cho Tần Nhất Hằng. Hắn xua tay, tự châm một điếu thuốc rồi nói tiếp, lần trước tôi từng kể cho anh nghe về Quỷ Môn Quan rồi, không cần ôn lại nữa chứ? Đám người này hành động rất kì lạ, ngay cả tôi cũng bị lừa. Mãi tới khi phát hiện ra thứ họ ném cuối cùng chính là chậu tang, tôi mới vỡ lẽ.
Chậu tang còn gọi là chậu âm dương, chính là vật để đốt tiền vàng khi dựng lều tang canh linh cữu, khi bắt đầu đưa tang, con trưởng hoặc cháu đích tôn phải ném vỡ nó. Theo phong tục dân gian, vật này tượng trưng cho nồi của người chết, càng vỡ vụn thì người chết càng dễ mang đi, về cõi âm sẽ tiếp tục dùng để nấu nướng. Có điều, trong huyền thuật có nói, đây là vật dụng để người chết nhận vàng mã của người nhà, nói trắng ra là hòm thư gia đình. Nếu ném không vỡ, người chết ở cõi âm không những bị tuyệt đường hương khói về sau, mà người nhà ở cõi dương cũng dễ gặp tai bay vạ gió, chưa biết chừng còn mất mạng. Vì vậy, chậu tang thường được làm bằng gốm hoặc ngói bởi hai chất liệu này dễ vỡ, tránh trường hợp tới lúc cần vung tay ném mà chậu không vỡ, thành rước họa vào thân.
Vậy mà những người kia cố ý làm ngược lại, cử hành một loạt nghi thức đưa tang và chôn quan tài xong xuôi mới đập chậu tang, trình tự đảo lộn hết cả. Lũ cô hồn dã quỷ mong được phát tiền sẽ bị lừa dụ đi theo đám rước. Nhiều khả năng là trong quan tài cũng giấu thi thể hoặc đồ vật mang tính chất dị biệt, chôn nó ở “mắt thần”, đồng nghĩa với việc dẫn lũ cô hồn dã quỷ trong vòng mấy cây số xung quanh kéo tới, tạo nên một thế cục phong thủy. Đến khi tất cả các công trình được xây xong, trung tâm thương mại này ắt sẽ thua lỗ, thậm chí khuynh gia bại sản trong khi các tòa xung quanh làm ăn phát đạt. Một thế cục lớn như vậy phải là kẻ đạo hạnh thâm sâu mới có thể nghĩ ra.
Nhà đầu tư bất động sản hẳn đã suy xét rất kĩ, tính toán từng bước một. Đám người nọ đã mò tìm một thôi một hồi trước khi rời đi, anh nhớ không? Giờ nghĩ lại, tôi đoán bọn họ giắt thứ đó trong giày. Không tận mắt nhìn thấy nên tôi không thể nói chính xác là gì, nhưng xem chừng họ đã sử dụng mánh lới trừ tà cho miếng lót hoặc dây giày, như vậy lúc bước đi không sợ đụng phải tà ma nữa. Đúng ra chúng ta cũng có thể áp dụng phương pháp đó, hoặc đi giày trái là được, nhưng tôi sợ làm vậy bất tiện nên đành dùng “nến muối” mở đường, may sao vẫn chạy thoát.
Tần Nhất Hằng nói liên tục một hồi, có vẻ rất mệt mỏi. Ban nãy tôi vô tình để ý thấy lòng bàn tay hắn nổi bọng nước, có thể trong lúc che cho sợi bấc, áp tay quá gần ngọn lửa nên bị bỏng. Tôi vô cùng áy náy, bèn quay đầu lại xem, ban nãy nhắm mắt nên không biết chạy được bao xa, giờ thấy trung tâm thương mại đã cách chúng tôi rất xa rồi.
Trời đã sáng, tôi cũng bình tĩnh lại, châm điếu thuốc lên mới sực nhớ ban nãy có một bàn tay đặt lên vai, vội kể với Tần Nhất Hắng. Hắn lắc đầu bảo không sao, cơ thể người vốn có ba ngọn lửa, một ngọn trên đỉnh đầu và hai ngọn ở hai vai, có lẽ thứ kia còn luyến tiếc nhân gian nên định nhân cơ hội này nhập vào người tôi, cũng may trời sáng kịp lúc, trở về phơi nắng là không việc gì.
Cả hai chúng tôi bận rộn thâu đêm, lưng vai đều mỏi nhừ. Nghỉ ngơi tại chỗ một lát, chúng tôi mới gắng gỏi đứng dậy quay trở về. Dọc đường Tần Nhất Hằng liên tục khạc nhổ cho thanh cổ họng. Thấy vậy, tôi bèn đưa nước nhưng hắn không nhận, hỏi nguyên do thì hắn đáp, thứ nến muối hắn ngậm trong miệng lúc trước khô