Phần 2 BUDO THẤT THỦ
Vua Gianôt đã băng hà. Thái tử còn măng sữa. Quốc gia không có chủ súy. Đất nước giống những gia huy trên đó những con phượng hoàng tức tối chồm lên nhau, cố vươn mình tranh lấy cái vương miện lửng lơ ở giữa.
Nhân dân không còn biết nghĩ thế nào nữa. Chẳng ai biết ách thống trị của bọn Thổ dị giáo đáng sợ hơn hay sự bảo hộ của quân Đức chính giáo đáng sợ hơn.
Vua Đức Phedinan phái tên nguyên soái lẫn cẫn Rôgenđô đến Buđo [43], còn hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ thân chinh lên đường để cắm ngọn cờ nửa vành trăng lên cung điện vua Hung.
Đó là lúc các sử gia viết con số 1511 vào niên biểu.
Một đêm trăng tháng tám, hai kỵ sĩ phóng ngựa lên dốc núi trên đường cái Metsec. Một người gầy, râu cạo nhẵn, mặc áo choàng đen, chắc là cố đạo. Người kia là một công tử trạc mười lăm tuổi, có mái tóc dài.
Ngoài ra còn một gia nhân lưng dài cưỡi ngựa lẽo đẽo theo sau. Sở dĩ lưng y nom dài vì y ngồi trên hai cái bị đầy cứng thay cho yên ngựa. Trên lưng y còn một cái bọc to bằng da mà như bây giờ thì chúng ta gọi là ba lô. Từ trong bọc có ba cái gậy thò ra, một cái cứ thỉnh thoảng lại ánh lên có thể thấy rõ đó là khẩu súng.
Một cây lê dại cổ thụ, đen sẫm đứng gần bên lề đường - có lẽ nó cũng lâu đời như con đường quốc lộ. Tới chỗ đó họ cho ngựa rẽ xuống khỏi mặt đường.
Người mặc áo cố đạo nhìn lên cây hỏi:
- Cây này đây à?
- Nó đấy. – Người trẻ tuổi đáp - Hồi con còn nhỏ, cú thường hay làm tổ trong ấy. Từ đó tới nay hốc cây chắc đã rộng thêm ra, một người có thể vào lọt, có khi cả hai người cũng vừa.
Cậu đứng lên yên và đu mình lên cây lê dại. Thoáng một cái cậu đã ở trên cây. Cậu rút gươm xọc vào hốc cây và chui tọt vào trong.
- Cả hai thầy trò ta cũng vừa. – Cậu vui vẻ kêu lên – Chúng ta có thể ngồi thoải mái trong này.
Rồi cậu trèo ra và nhảy xuống cỏ. Người mặc áo cố đạo bỏ áo choàng ra và nói:
- Thế thì bắt tay vào việc thôi.
Đó là mục sư Gabô và cậu học sinh Bônemixo Gergey.
Từ lúc chúng ta xa họ đến nay, tám năm đã trôi qua. Mục sư không thay đổi mấy, duy chỉ có lông mày của ông đã mọc ra và râu ria cũng đã có thể cạo được từ lâu, và có gầy đi chút ít. Nhưng cậu thiếu niên này thì thay đổi nhiều lắm. Tám năm qua đã biến đổi cậu thành một người lớn. Nhưng chỉ về hình vóc thôi, còn mặt cậu vẫn mang cái vẻ chưa ra đẹp cũng chưa ra xấu, như nét mặt vẫn thường thấy của tất cả những thiếu niên mười lăm mười sáu. Mớ tóc lượn sóng để rủ xuống vai theo mốt của nam giới thời đó.
Gã gia nhân lấy trong bọc ra hai cái xẻng và một cái quốc chim. Mục sư cầm lấy một cái xẻng, cậu học sinh cầm lấy chiếc kia. Họ đào ngay ở chính giữa> đường quốc lộ.
Gã gia nhân bê hai cái bị đến rồi trở lại chỗ mấy con ngựa, gã tháo cương, buộc dây hãm vào chân chúng rồi thả cho chúng gặm bãi cỏ rừng ướt đẫm sương đêm. Sau đó gã cũng bắt tay vào việc. Gã lấy từ trong cái bọc da kếch sù ra nào bánh mỳ, nào bình đựng nước và cả các binh khí nữa. Gã hốt lớp đất cát lẫn đá cuội mà hai người kia vừa đào lên> vào bọc rồi đem rải xuống bên cạnh đường. Khi quay về gã lại mang theo những cục đá to để bên cạnh nó.
Chưa đầy một giờ sau cái hố đã sâu đến ngang lưng.
- Đủ rồi. – Mục sư nói – Gianốt, đưa hai cái bị lại đây.
Gã gia nhân lễ mễ bưng hai cái bị đến.
- Đừng để sung bị ướt sương! – Mục sư bảo gã rồi lại tiếp – Ngươi cầm lấy cái quốc chim, xẻ một cái rãnh từ hố này đến chỗ cây lê dại đằng kia kìa. Ở trên mặt đường, rãnh phải sâu độ một gang, còn dưới bãi cỏ chỉ sâu bằng nửa thôi cũng thể thấm ướt đủ. Lược lấy lớp đất cỏ cho khéo để có thể lấp lại y như cũ. Không được để một dấu vết gì làm lộ công việc của ta.
Trong khi gã gia nhân xẻ rãnh, ahi thầy trò đổ hai cái bị vào hố.
Trong hai bị ấy có thuốc súng đựng trong những túi da nhỏ. Họ nện chặt và đắp những cục đá to lên trên. Họ lại bỏ đá dặm và đất vào các kẽ hở giữa những cục đá to rồi dầm thật chặt.
Gã gia nhân đã đào rãnh đến tận cây lê dại và đang lấy đá lát bờ rãnh. Dây ngòi đặt chạy dài trong rãnh đó. Họ dùng vải dầu và đá dẹt phủ từ đầu đến cuối dãy để mưa cũng không thể thấm ướt được.
- Thưa cha – Gã gia nhân hớn hở nói – Bây giờ con đã biết cái gì đang sửa soạn ở đây.
- Cái quái gì thế, hở Gianốt?
- Một kẻ nào đó sắp được bay lên trời tại chỗ này.
- Ngươi nghĩ gì, ai nào?
- Ai ấy à? Cũng dễ đoán thôi. Ngày mai hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ sẽ đi qua đây.
- Hôm nay chứ – Mục sư nhìn lên bầu trời đang rạng dần, đáp lại. Rồi ông rút khăn lau bộ mặt nhẽ nhại đầy mồ hôi.
Khi mặt trời lên soi tỏ con đường, cái hố và cái rãnh đã không còn để lại dấu vểt gì nữa.
Mục sư ném cái cuốc sang bên, bảo gã gia nhân:
- Gianốt ơi, con hãy cưỡi ngựa lên đỉnh Metsec, đến tận chỗ nào mà con có thể nhìn suốt được con đường ấy nhé!
- Con hiểu rồi, cha ạ.
- Ta và cậu học sinh sẽ nghỉ ở đằng sau cây lê dại độ vài ba chục bước. Con chú ý xem lúc nào đội quân Thổ đến. Khi thấy bóng tên thám mã đầu tiên, lập tức phải phóng về đánh thức chúng ta dậy.
Ông và cậu học sinh tìm một chỗ tốt trong bìa rừng, họ trải áo khoác xuống và cả hai đều lập tức ngủ thiếp đi.
Đến trưa, gia nhân từ trên đỉnh núi phi ngựa xuống.
- Chúng nó đến rồi – Gã kêu lên từ đằng xa – Một đạo quân đông kinh khủng đang trẩy đến! Như sông như biển ấy! Trăm nghìn vạn lạc đà với lại xe tải. Một vài tên thám mã đã đến trước đường cái rồi.
Mục sư quay sang bảo cậu học sinh:
- Nào, bây giờ chúng ta có thể đi ăn trưa ở chỗ ông bố kia của con được...
- Đằng ông Xexey ấy à?
- Đằng ấy,
Cậu học sinh nhìn mục sư vẻ dò hỏi. >Gã gia nhân cũng thế. Mục sư mỉm cười:
- Chúng ta đã đến sớm một ngày. Con không hiểu ư? Đây là bọn lính hành doanh. Bọn này đi trước lập trại để khi nào toàn quân đến Môhát [44] ) thì chỗ nằm và cơm nước đã có sẵn.
- Thế thì ta đến chỗ ông bà Xexey thôi – Cậu học sinh hớn hở nói.
Khi đến bên dòng suối, họ xuống ngựa, rửa ráy sạch sẽ. Cậu học sinh hái được một bó hoa rừng.
- Cho ai đấy, Gergey?
- Cho vợ con – Gergey nhoẻn miệng cười
- Vợ của con?
- Đấy là chúng con đã quen nói như vậy. Cô bé Xexey Evo ấy mà, cô ấy sẽ là vợ con đấy. Chúng con đã từng sống thời thơ ấu với nhau, sau đó vì ông bố nhận con làm con nuôi nên lần nào về thăm con cũng phải hôn cô ấy
- Ta tin rằng con vẫn hằng vui lòng làm việc đó,
- Con cũng vậy. Má cô ấy y như hoa cẩm chướng trắng
- Như thế thì chưa thể khẳng định được con có thể coi cô ta như vợ.
- Ông giáo sĩ già bảo rằng họ đã định gả cô ấy cho con. Theo chúc thư của ông Xexey, thì cùng với cô gái, cả làng ấy cũng sẽ thuộc về con.
- >Thì ra ông giáo sĩ đã để lộ bí mật
-vKhông phải đâu, ông ấy chỉ dặn con phải cố gắng sao cho xứng đáng với diễm phúc ấy.
- Con sẽ sống hạnh phúc với cô gái ấy chứ?
- Thầy phải trông thấy cô ấy đã. Nếu thấy rồi thầy sẽ không hỏi con như thế nữa đâu.
Con ngựa vấp một cái và chạy lên phía trước vài bước.
- Cô ấy chẳng khác gì một con mèo trắng nhỏ - Cậu tiếp, sau khi đã ghìm ngựa lại.
Mục sư mỉm cười. nhún vai.
Họ đã đi vào khu rừng rậm và phải xuống ngựa. Gergey đi lên trước. Cậu biết dải rừng rậm này vẫn che khuất làng.
Khi họ phi ngựa xuống thung lũng, đám phụ nữ từ nhà chạy cả ra:
- Gergơ! Đúng cậu Gergơ kia rồi! – Họ mừng rỡ kêu lên.
Gergey vẫy mũ hết bên này sang bên nọ:
- Chào thím Luxi! Chào bà Ponni!
- Gia đình tôn ông không có nhà đâu! – Một mụ kêu lên.
Gergey cụt hứng. Cậu dừng ngựa lại:
- Thím nói gì thế, thím ơi?
- Họ đi rồi. Họ dọn đi rồi.
- Đi đâu?
- Lên Buđo.
Gergey ngẩn người:
- Cả nhà ư?
Ôi niềm hy vọng ngây thơ! Cậu ta tưởng rằng mọi người sẽ trả lời như sau:
-vKhông đâu, tiểu thư vẫn còn ở lại.
Thật ra như bạn đọc cũng có thể thấy trước, người ta trả lời thẳng thế này:
- Dĩ nhiên là cả nhà. Đến cụ giáo sĩ của chúng tôi cũng đi cùng với họ rồi.
- Họ đi từ bao giờ?
- Từ sau ngày lễ thánh Giooc
- Nhưng vẫn phải có ai ở nhà chứ?
- Có tên Thổ.
Gergey tiu nghỉu, quay sang mục sư:
- Họ đi Buđo rồi. Từ lâu> Đức cha Giorgio đã cho họ một cái nhà ở đó. Nhưng con không hiểu sao họ không nói với con về việc này, mặc dù kỳ vũ hội cuối mùa đông [45] con có về đây.
- Vậy thì ta không được ăn trưa.
- Sao lại không ạ, vẫn còn tên Thổ ở nhà.
- Tên Thổ nào?
- Tên Thổ của Xexey, tên là Tulipan. Hắn là tên đầu sai ở đây. Nhưng nghĩa trang đây rồi. Con xin phép rẽ vào đây một lát. Mẹ con ở đây.
Một nghĩa trang chỉ lớn bằng khu vườn, có hàng rào tử đinh hương bao quanh, hiện ra đằng sau ngôi nhà. Trong nghĩa trang đầy những thánh giá bằng gỗ đẽo sơ sài. Không ngôi mộ nào có bia.
Cậu học sinh giao ngựa cho gã gia nhân rồi bước vội vào. Cậu đứng lại bên một cây thánh giá bằng gỗ màu nâu đã hơi lún xuống, đặt bó hoa rừng lên mộ và quỳ xuống.
Mục sư cũng xuống ngựa đến quỳ bên cạnh cậu học sinh và ngửa mặt lên trời cất tiếng cầu nguyện:
- Đức chúa ở thiên đình, vị chúa tể của mọi linh hồn sống cũng như chết, xin hãy ban giấc mơ yên tĩnh cho người mẹ hiền đang nằm nghỉ nơi đây, xin hãy ban cuộc sống hạnh phúc cho đứa bé mồ côi đang quỳ gối nơi đây. Amen.
Rồi ông kéo cậu học sịnh vào sát mình và hôn cậu.
Nhà của lãnh chúa gần như đối diện với nghĩa địa. Cánh cổng lúc đó đã mở toang, một mụ đàn bà tròn như hạt mít, nước da đỏ đắn, chào đón những người mới đến với nụ cười thân thiện.
- Chào mụ Tulipan. Chồng mụ đâu rồi? – Cậu học sinh chào hỏi thế vì mở cổng vốn là việc của Tulipan.
- Anh ấy đang say. – Mụ trả lời, giọng vừa ngượng vừa bực.
- Say à?
- Thì lúc nào mà anh ấy chả say. Tôi có giấu chìa khóa kho vào đâu đi nữa, anh ấy vẫn mở nó ra được. Hôm nay tôi đã giấu xuống dưới cối xay đậu, thế mà anh ấy vẫn tìm ra.
- Đã thế thì đừng có giấu diếm nữa, mụ ạ. Nếu uống được bình thường, hắn sẽ không uống nhiều như bây giờ nữa đâu.
- Lại không ấy. Anh ấy uống như một con bò mộng! Anh ấy chỉ uống rượu với hát nghêu ngao suốt ngày thôi. Cái đồ trời đánh ấy không muốn làm lụng gì cả!
Dưới bóng cây dâu có một nông phụ nước da nâu đang ngồi xếp bằng trên chiếu, trước mặt y để một cái bình tráng men xanh. Y chưa say đến mức của thể lấy bình rượu của y đi được. Y ngồi với thằng con trai, một đứa bé lên sáu, đi chân đất, mắt cũng đen láy y như bố nó, chỉ khác mỗi điểm là mắt bố nó lúc nào cũng như đang cười vì một ý nghĩ tinh nghịch ngấm ngầm nào đó.
Đó chính là tên Thổ mà Xexey đã tha chết vì thấy y trả lời rằng có biết đánh cờ. Về sau thực tế đã chứng tỏ rằng đấu cờ với y quả là chẳng bõ, nhưng có thể dùng y vào tất cả mọi việc trong nhà. Đặc biệt y có thể làm bếp rất giỏi. Cha y đã từng làm đầu bếp cho một basa [46] nào đó. Các mụ đàn bà rất thích y vì y bày cho họ cách nấu các món ăn Thổ Nhĩ Kỳ như pilaps, borec, malebi, xơbetec và đú đởn với y khá nhiều. Còn Xexey thích y vì y đã đẽo cho lão một cánh tay gỗ có đủ cả năm ngón. Nếu lão đeo găng tay vào, không ai còn dám bảo đó là tay gỗ nữa. Trước hết lão thử bắn cung. Lão sai người lấy trên trần nhà xuống một cái cung dài cũng bằng người lão vậy. Với bàn tay gỗ ấy lão đã giương được cung. Thế là từ đó lão cất nhắc tên Thổ lên làm tên đầu sai.
Hồi đó có một mụ vợ trẻ trung Hung vừa bị góa chồng, tên Thổ bèn đến sưởi ấm với chị ta ; sau đó thì lấy làm vợ. Tất nhiên trước đó y phải cải đạo. Y đã trở thành một người Hung ngoan đạo như thể y đã sinh ra trên mảnh đất này vậy.
Vừa thoáng thấy cậu học sinh và mục sư, y đã đứng dậy vọng tay lại trước ngực theo cung cách Thổ. Y định cúi mình chào, nhưng lập tức y cảm thấy việc đó nhất định sẽ kết thúc bằng một cái ngã ngập trán, vì vậy y đành chỉ biểu thị lòng tôn kính bằng cách bước một bước loạng choạng về phía trước.
- Ê, Tulipan ơi! – Gergey lắc đầu nói – lúc nào chúng ta cũng say sưa thế này ư?
- Phải uống cậu ạ - Tulipan đứng đắn trả lời nhưng mắt vẫn ngời lên ánh tinh nghịch – Hai mưới lăm năm làm dân Thổ Nhĩ Kỳ không được uống[47], bây giờ phải bù lại chỗ đó. >
- Nhưng anh say thì ai sẽ nấu bữa trưa cho chúng ta?
- Vợ con nó sẽ nấu ạ - Và y búng ngón tay trở về phía mụ vợ - Nó nấu được cả món phó mát nữa đấy. Đó mới thực là món ngon tuyệt!
- Nhưng chúng ta thích món pilap[48] cơ.
- Nó nấu được cả món ấy nữa đấy ạ. Nó làm được đấy.
- Thế ông chủ nhà ta đâu?
- Ở Buđo. Có thư về, thế là gia đình ông chủ kéo nhau đi. Ông chủ được người ta cho một ngôi nhà. Tiểu thư xinh đẹp mà ngồi trong cái nhà ấy thì chẳng khác gì một bông hồng giữa vườn hoa xinh xắn.
Cậu học sinh quay sang phía mục sư:
- Nhỡ quân Thổ chiếm được kinh thành thì số phận họ sẽ ra sao?
- Hôhô!- Mục sư ngẩng phắt đầu lên – Trước tiên phải mất cả nước đã rồi mới mất thành Buđo. Vả lại chưa bao giờ kẻ thù chiếm được Buđo cả.
Thấy Gergey vẫn băn khoăn nhìn mình, ông tiếp:
- Đất nước do thần dân bảo vệ, còn thành Buđo do chính chúa trời phù hộ
Tulipan mở hết các cửa. Từ các phòng, mùi oải hương hăng hắc bốc ra, mục sư bước vào nhà. Mắt ông dừng lại ở những bức chân dung treo trên tường.
- Có lẽ đây là tôn ông Xexey? – Ông vừa hỏi vừa chỉ vào bức tranh vẽ một người đội mũ sắt
- Vâng – Gergey đáp- Bây giờ chỉ khác chỗ ông không như thế này nữa mà đã trắng trẻo hơn.
- Thế còn cái bà mắt hiếng này?
- Bà vợ đấy ạ. – chẳng hiểu lúc người ta vẽ bà ấy có hiếng không nhưng bây giờ thì không hiếng nữa.
- Chắc là một bà chua chát lắm.
- Không đâu ạ. Bà ấy dịu dàng vô cùng. Con đã quen chỉ gọi bà bằng mẹ
Cậu học sinh cảm thấy mình là chủ nhà bèn nhắc ghế mời mục sư ngồi và giới thiệu những đồ đạc lâu đời với một vẻ mặt sung sướng:
- Thầy hãy nhìn xem: chỗ này Vixo vẫn quen ngồi khi nàng khâu vá. Chân nàng để lên cái kỷ này đây. Đây là cửa sổ nàng vẫn thường đứng nhìn cảnh mặt trời lặn và những lúc đó đầu nàng in bóng lên bức tường kia kìa. Còn bức tranh này do nàng vẽ đấy. Cây liễu bên nấm mồ. Những con bướm là của con vẽ thêm vào. Rồi thầy có biết không, những lúc ngồi trên ghế, nàng vẫn quen ngồi như thế này này. Nàng chống tay thế này, cái đầu nghiêng về một bên, và cười tinh nghịch, tinh nghịch chưa từng thấy.
- Tốt, tốt – Mục sư mệt mỏi đáp - Nhưng này, con đi giục bữa trưa đi!
Buổi tối họ đi ngủ muộn.
Mục sư lấy cớ mình phải viết một vài bức thư nên không ngủ cùng một phòng với học trò. Cậu học sinh cũng lấy giấy và nghiên mực đặt bên cây nên trong phòng. Trước tiên cậu vẽ một bông hoa lưu ly[49] lên trang giấy, sau đó cậu mới viết cho người yêu biết ngôi nhà vắng chủ làm cậu ngạc nhiên đến như thế nào, cậu hỏi vì sao người ta không báo cho cậu biết việc dọn nhà và nếu người ta có báo thì bức thư chắc chắn đã bị thất lạc.
Thời đó, nước Hung chưa có bưu điện. Chỉ có những nhà quyền quý mới thư từ với nhau được. Ai muốn gửi thư từ Buđo đến Ơrecloc chẳng hạn, người đó phải có người chuyển thư riêng.
Sau khi viết xong bức thư, cơn buồn ngủ đè nặng lên mi mắt cậu học sinh, cậu ngả người lên ghế dài bọc da sói và ngủ thiếp đi.
Có lẽ cậu sẽ ngủ đến tận sáng bạch, nếu lúc rạng đông một con bò sữa không rống lên ngay dưới cửa sổ.
Điều đó đã xa lạ đối với cậu. Ở thành Sômôđơ cũng như ở thành Xiget và trong các dinh cơ khác của Torơc Balin, chẳng bao giờ lại có bò rống dưới cửa sổ của cậu. Lúc nào cũng có người hầu đánh thức cậu dậy cùng với các công tử Torơc, và khi họ ăn điểm tâm, mục sư đã chờ họ ở ngoài vườn cùng các thứ sách vở.
Cậu ngồi dậy và dụi mắt. Cậu chợt nhớ ra bài học hôm nay thật đặc biệt: phải cho hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ bay về cõi bồng lai.
Cậu đứng dậy và đến gõ cửa phòng bên cạnh:
- Thầy ơi! Ta đi được rồi.
Không có tiếng trả lời. Gian phòng bên tối om.
Cậu mở một cánh cửa chớp và cánh cửa sổ bằng kính mỏng.
Giường mục sư bỏ trống.
Trên bàn có mấy bức thư trăng trắng.
Gergey sửng sốt lầm bẩm:
- Quỷ quái gì thế này? Giường vẫn nguyên như mới trải.
Cậu vội vã ra khỏi phòng. Ngoài sân, mụ Tulipan mặc váy lót, chân không đang lùa lợn ra bãi.
- Mụ Tulipan ơi, mục sư đâu rồi?
- Cha đi rồi, từ lúc nửa đêm cơ, khi trăng còn chưa sáng cơ!
- Gianôt cũng đi cùng với cha rồi à?
- Không. Anh ta vẫn ở đây. Cha đi bộ một mình.
Cậu học sinh trở vào văn phòng, đầu óc bối rối. Cậu đã linh cảm thấy việc làm của mục sư. Cậu vội vã đi đến bàn.
Giữa mấy bức thư có một bức thư để ngỏ. Hàng đầu viết bằng những chữ rắn rỏi, đậm nét:
Gergey, con yêu quý!
Bức thư này là của cậu. Cậu cầm lên bước tới bên cửa sổ. Nét mực vẫn còn tươi trên trang giấy. Gergey đọc:
Nếu hôm nay con thú dữ đội vương miện đó trở về chầu âm phủ thì đó là sáng kiến và công trạng của con. Nhưng ý kiến của con cũng có phần nguy hiểm. Phần đó con hãy nhường thầy con ạ!
Con đang sống giữa tình thương dạt dào vào còn trẻ tuổi. Tính tháo vát, kiến thức và lòng can đảm của con có thể hữu ích nhiều cho đất nước.
Cạnh bức thư của thầy, con sẽ thấy một cái túi nhỏ, trong đó có một cái nhẫn Thổ Nhĩ Kỳ. Đó là vật báu độc nhất của thầy. Thầy đã để cho người mà thầy yêu mến nhất. Của con đấy, con ạ.
Và thầy để lại cho con cả thư trại của thầy nữa. Con hãy đọc sách nếu một ngày kia mây đen đã rút khỏi bầu trời Tổ quốc. Còn giờ đây, gươm dáo mới là thứ đáng đặt vào tay người Hung.
Con hãy trao binh khí của thầy cho tướng công Balin, bộ đá sưu tập của thầy cho Gianốt, bộ hoa sưu tập cho Pheri. Hãy cho mỗi chú một quyển sách trong thư trại của thầy làm kỷ niệm và bảo các chú ấy hãy cố gắng trở thành những tráng sĩ trung dũng như cha, nhưng đừng bao giờ đứng về phe dị giáo mà hãy cùng con gắng sức lập lại vương quyền của dân tộc. Ngoài ra thầy cũng có viết thư cho các chú ấy, và mong rằng những điều thầy viết sẽ còn lưu lại mãi mãi cũng như ba mảnh linh hồn của thầy đã chia cho cả ba con.
Lúc thầy đi con đang ngủ. Thầy hôn con.
Mục sư GABÔ
Gergey đứng ngây như phỗng đá, sững sờ nhìn bức thư.
Chết? Cậu bé mười lăm tuổi chưa hiểu nổi chữ đó. Cậu chỉ mới nghĩ đến cảnh tượng khoái mắt khi hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ bị tan xác thành muôn nghìn mảnh trong khói và lửa, và bay lên trong không trung trước mặt cậu.
Cậu đút cái túi đựng nhẫn và bức thư cho vào túi rồi bước ra ngoài. Cậu vội vã đi qua sân, đến chỗ vợ chồng Tulipan ở và gọi y, lúc đó đang đứng vươn vai dưới mái hiên, cậu nói bằng tiếng Thổ:
- Tulipan, bộ quần áo Thổ của anh có còn nữa không?
- Không ạ, bu nó đã phá ra may yếm và may áo cho các cháu rồi.
- Cái khăn tuy ban[50].) của anh cũng không còn nữa à?
- Cái ấy bu nó cũng lấy may áo nốt rồi. Thật là một thứ vải mịn.
Cậu họ sinh bực bội, đi đi lại lại dưới mái hiên.
- Ta phải làm gì bây giờ? Anh hãy mách giùm ta xem nào. Hôm nay quân Thổ sẽ kéo qua trên đường cái quan. Hoàng đế cũng cùng đi với quân đội. Ta muốn được trông thấy bậc đế vương ấy.
- Hoàng đế ấy à?
- Ừ
- Cái đó thì có thể được lắm.
Mắt Gergey sáng lên:
- Thật ư? Làm thế nào mà xem được?
- Gần cạnh đường ở quãng này có một, cũng không phải một mà là hai hòn lèn đối diện nhau, cậu chỉ việc trèo lên đỉnh, nấp kín dưới cành cây là có thể thấy rõ cả đoàn quân.
- Thế thì anh mặc quần áo nhanh lên và đi với ta. Bảo vợ anh sắp cho một lẵng thức ăn và anh có thể xách cả bầu rượu theo nữa.
Nghe tiếng bầu rượu anh chàng Tulipan hoạt bát hẳn lên. Y xỏ vội quần áo và hớn hở gọi ra phía sân sau:
- Dulisơca, hằng nga của anh ơi, vào đây mau lên nào.
Mụ vợ đang cho gà vịt ăn, mụ vãi nốt chỗ tấm rồi quay vào:
- Anh muốn gì đấy?
- Cái bầu rượu, viên ngọc quý của anh ạ. Cho anh xin bầu rượu nào!
- Cho anh cái tấm sét nhà trời ấy thì có! Từ trước tới giờ chỉ buổi chiều anh mới nốc, giờ đã muốn bắt đầu từ lúc tinh mơ hay sao?
- Ấy ấy, con cừu non của anh ơi, viên kẹo Xtămbun của anh ơi, có phải anh lấy cho anh đâu mà cho cậu chủ đấy chứ.
- Cậu chủ có uống rượu đâu?
- Tôi không uống đâu.- Gergey lắc đầu cười. – nhưng chả là chúng tôi có việc phải đi đằng này và có lẽ sẽ còn ở lại đến chiều tối, tôi không muốn để Tulipan phải nhịn khát.
- Anh ấy cũng đi với cậu à? Đi đâu thế, hở cậu?
- Chúng tôi đi xem đoàn quân Thổ đây, thím Duli ạ. Hôm nay chúng nó kéo qua Metsec.
Mụ đàn bà sửng sốt:
- Đi xem quân Thổ ấy à? Cậu chủ bé bỏng ơi, cậu đừng có mà ra đấy!
- Nhất định phải đi chứ! Tôi cần phải xem một tí mới được.
- Ôi, cậu yêu quý, cậu sắp sửa đi vào chỗ nguy hiểm biết mấy. Cậu nghĩ vẩn vơ gì thế?
- Tôi đã bảo một là một, hai là hai – Gergey sốt ruột nói- Chúng tôi không xin lời khuyên can, chỉ xin rượu thôi.
Thấy cậu chủ đã giậm chân giậm cẳng, mụ chạy tọt vào nhà, nhưng lại quày quả trở ra, mặt sưng sỉa:
- Cậu muốn đi đâu thì cậu đi, con chả tiếc, con không ra lệnh cho cậu được. Nhưng Tulipan thì không được đi, con ra lệnh cho anh ấy đấy.
- Làm gì có chuyện ấy.- Tulipan đáp
- Anh phải ở nhà, hiểu chưa?
- Tulipan phải đi với tôi.- Gergey lại sốt ruột nói.
- Thức ăn thì anh người hầu của cậu đem đi cũng được. Thế người hầu để làm gì nếu không hầu hạ?
Bản thân gã gia nhân Gianốt cũng đang nghĩ như vậy. Và kia, anh đã khoác tay nải lên sau khi cho ngựa uống nước.
Tulipan đã bắt nọa được vẻ bồn chồn của mụ vợ nên y cố ý kéo dài câu chuyện:
- Tôi nhất định đi đấy, bu nó ạ! Tôi mà không đi thì cứ xin mù cả hai mắt. Ở nhà thì cũng phải khấn vái hết lời mới họa hoằn được bu nó cho ít rượu chứ quý hóa gì. Bu nó chẳng phải là bà vợ tốt.
Mụ vợ tái mặt:
- Quân Thổ mà trông thấy, chúng sẽ bắt anh đi mất.
- Thì đã sao?
- Anh nỡ bỏ hai đứa bé xinh xắn này lại đây, với cả tôi nữa ư? Ôi lạy chúa cứu thế!
- Nhưng một khi bu nó đã không cho tôi rượu thì còn ở nhà làm gì? Chưa kể hôm thứ năm vừa rồi bu nó còn đánh tôi nữa.
- Tôi sẽ cho, thầy nó ạ, muốn bao nhiêu cũng được, chỉ cần thầy nó đừng bỏ tôi mà đi!
Mụ đã bắt đầu sụt sịt.
- Thế thì được, bu nó đừng có quên lời đã hứa trước mặt cậu chủ đấy nhé. Tôi chỉ đưa cầu chủ đi rồi tôi về ngay. Nhưng phải có rượu cho tôi đấy nhé!
- Từ nay về sau lúc nào cũng có.
- Nếu bu nó cứ để yên cho tôi uống, tôi sẽ chẳng say đâu. Sở dĩ tôi hay say bí tỉ là vì tôi cứ sợ hôm sau bu nó sẽ không cho tôi uống nữa.
Mụ vợ nghe nói thế đã tạm yên lòng bèn đi sửa soạn thức ăn. Tuy vậy, khi đưa chồng ra đến cổng mụ vẫn sụt sịt và đứng trông theo với một vẻ đầy lo âu khiến anh chàng Tulipan sướng phồng cả người.
Gianốt đi theo họ đến chỗ rừng rậm, đến đó họ xuống ngựa. Gianốt dắt ba con ngựa về làng, còn họ tiếp tục đi bộ.
Hòn lèn ấy ngày nay vẫn đứng cạnh đường, cao chừng năm tầm người. Đứng trên đỉnh hòn lèn, có thể nhìn suốt con đường cái, đến tận chỗ cây lê dại, nơi mục sư đang nấp kín.>
Tulipan bẻ một chùm cây rậm lá, ngụy trang quanh mỏm hòn lèn để hai người có thể nhìn thấy tất cả, nhưng đứng bên dưới, không ai có thể nghi họ ẩn nấp trên đó.
- Ta cắm cả một cành cây ra chỗ kia nữa, về đằng phía bắc ấy. - Gergey bảo.
- Để làm gì ạ?
- Để nếu xuntan đi qua phía ấy thì chúng ta có thể quay sang mà xem.
Lúc đó mặt trời vừa mọc. Sương còn ướt đẫm cánh rừng. Đàn chim sáo hót líu lo, bầy bìm bịp kêu ồ ồ. Đằng xa, về phía Pêts, những tên thám mã đầu tiên đã tung bụi trên đường.
Một đám bụi kéo dài dằng dặc xuống tận thành phố Pêts. Cuối cùng, từ trong đám bụi mù một lá cờ đỏ tươi màu ớt chin hiện ra trước mắt họ, rồi hai cái, nam cái và mỗi lúc một nhiều. Bên dưới và đằng sau từng cờ đó là những toán lính Arập cưỡi ngựa, đầu đội Tuyban cao như cái tháp. Những con ngựa thấp bé đến nỗi chân của một vài tên lính đã gần chạm xuống đất.
- Đây là tụi gurebac – Tulipan giải thích – tụi này bao giờ cũng đi đầu, chúng không phải dân thổ chính tông.
- Thế thì là dân nào?
- Dân Arập, Ba tư, Ai cập, đủ các loại ô hợp.
Bọn lính ấy quả có vẻ như thế thật. Ngay cả binh phục của chúng cũng không thống nhất. Có tên đội một cái mũ to tướng có chóp đồng lấp lánh, mũi của hắn không con nữa. Thằng này đã từng đến đất Hung.
Một tiểu đoàn khác theo sau gót chúng với một lá cờ trắng sọc xanh lá mạ. Đó là một đơn vị mặc quần xanh, da sạm nắng. Nét mặt chúng vẫn lộ vẻ phè phỡn của bữa chén tối hôm trước.
- Đây là tụi uluphejich – Tulipan nói - một bọn lính đánh thuê. Chúng làm cảnh binh trong trại quân. Lương thảo cũng do chúng hộ tống. Cậu có trông thấy cái tên bụng phệ mà trán bị giập kia không? Nó có những cái cúc đồng to tướng trên ngực áo ấy...
- Có
- Tên gắn là Tuyno, tiếng Hung nghĩa là sếu. Nhưng người ta thường gọi hắn là lợn.
- Tại sao thế?
- Có lần con đã thấy nó ăn thịt nhím - và Tulipan nhổ một bãi nước bọt.
- Theo sau chúng là tiểu đoàn lính cờ vàng. Vũ khí của bọn này sáng loáng. Ngựa của viên aga [51] cũng hãnh diện đeo một tấm lá chắn vẩy cá bằng bạc ở trước ngực.
- Đây là tụi xiliđa. – Tulipan lại giải thích- Cũng là một bọn lính đánh thuê. Chà, bọn lưu manh đáng treo cổ! Tao đã từng lăn lộn với chúng mày hai năm trời!
Tiếp đó là bọn xpahi[52] cờ đỏ, đeo cung tên, võ quan của chúng mặc áo giáp sắt, đeo gươm cong, bản rộng. Sau đó đến bọn Tácta đội mũ nhọn, toàn những tên béo tốt, mặc áo da, ngồi trên yên gỗ.
- Một nghìn... hai nghìn... năm nghìn... một vạn. – Gergey lẩm nhầm đếm.
Tulipan khoát tay nói:
- Cậu đếm làm gì cho mệt xác. Bọn này có thể đến vài vạn đứa.
- Cái dân mặt to bạnh, xấu xí quá.
- Đến dân Thổ cũng kinh tởm chúng. Chúng ăn cả thủ ngựa đấy.
- Thủ ngựa ấy à?
- Dù không có đủ cho tất cả chăng nữa, chúng cũng cứ để một cái lên bàn.
- Luộc hay thui?
- Giá mà luộc hay thui thì còn nói làm gì. Đằng này chúng cứ ăn sống mới gớm chứ. Những quân cẩu trệ này đến trẻ lọt lòng chúng cũng chẳng tha. Cậu nên biết chúng moi cả mật người.
- Đừng nói chuyện rùng rợn ấy nữa!
- Nhưng một khi đã có thật như vậy thì sao. Cậu nên biết, bọn chúng vẫn cho rằng nếu dùng mật người xát vào ức ngựa thì dù ngựa có mệt đến đâu cũng sẽ hồi sức lại.
Gergey rợn tóc gáy rụt đầu lại dưới mấy cành cây.
- Ta chẳng nhìn chúng nó nữa, bọn chúng nó là thú dữ chứ có phải người nữa đâu.
Nhưng Tulipan vẫn cứ tiếp tục theo dõi chúng. Độ mười lăm phút sau y lại lên tiếng.
- Bêi [53] Nisanji đã đến. Ông này thường viết tên của Padisa [54] lên các chiếu chỉ.
Gergey nhìn xuống. Cậu thấy một tên Thổ đầu cá trắm, ria dài, có vẻ oai vệ, ngồi đĩnh đạc trên mình con tuấn mã cộc đuôi, đi giữa đám lính.
Sau đó đến tên đeptađa là thượng thư bộ hộ [55] của triều đình Thổ, một tên Arập tóc đã nhuốm bạc, lưng còng. Đi sau hắn, giữa một đám lính khác là tên kaziátke mặc áo thụng dài màu vàng, đội mũ trắng có chỏm cao. Đó là tên chánh tòa án binh. Những tên tsanegia, tức là những tên lính hầu dọn bàn ăn, bưng thức ăn cho hoàng đế, và đội ngự lâm đi theo sau hắn. Người tụi này đã lấp lánh những vàng.
Tiếng quân nhạc Thổ Nhĩ Kỳ đã vọng đến. Giữa tiếng kèn đồng lanh lảnh và tiếng xập xèng của não bạt, một đoàn quân sặc sỡ hiện ra và tiếp tục trẩy đi. Đó là đội lính đi săn của nhà vua, bờm ngựa chủa chúng nhuộm đỏ và mỗi đứa đều mang một con con chim ưng trên vai.
Sau đội lính săn đến bầy ngựa giống của hoàng đế. Những con tuần mã rất hăng, biết khiêu vũ ; một vài con đã thắng sẵn yên cương. Bọn lính ngự lâm và ionisa dắt đoàn ngựa đi.
Đằng sau bọn mã phu đó, những lá cờ đuôi ngựa phấp phới trên đường: ba trăm tên kaputski, tất cả đều đội mũ trắng viền kim tuyến. Chúng là lính thị vệ của xuntan.
Qua đám bụi mù, một đoàn dài lính ionisa thấp thoáng trên đường. Chẳng bảo lâu đã thấy rừng mũ trắng của bọn lính điểm màu đỏ của mũ võ quan, xen lẫn binh phục màu xanh.
- Xuntan còn xa nữa không? – Gergey hỏi.
- Chắc còn xa lắm.- Tulipan đáp – bọn ionisa ít nhất cũng đến hàng vạn. Sau đó còn đến bọn lính cẩm vệ và đủ các thứ triều thần khác nữa.
- Vậy ta lui ra sau nhấm nháp cái gì đã.
- Hòn lèn che khuất giữa họ và đoàn quân ở phía Nam nhưng trên đoạn đường dốc đổ về hướng bắc, họ vẫn có thể thấy bạt ngàn lính tráng đang trẩy xuống thung lũng.
- Ta muốn ngủ một giấc nữa cũng được. –Tulipan đưa ý kiến và mở cái đẫy ra.
Từ trong đẫy, một cái xích xủng xoảng rơi xuống.
- Cái gì thế này? – Gergey ngạc nhiên hỏi.
- Đây là những người bạn thân của con đấy. Không có nó chẳng bao giờ con bước chân ra khỏi làng đâu.
Thấy cậu học sinh vẫn ngớ người nhìn y tỏ vẻ không hiểu, y tiếp:
- Đây là cái xích của con. Mỗi khi ra khỏi làng con lại lồng vào một bên chân. Như vậy con không sợ bọn Thổ nữa, vì bọn chúng sẽ không bắt mà còn giải thoát cho con. Đến tối con lại tự mở xích trốn về. Bây giờ đã đến lúc nên đeo xích vào. Chìa khóa của nó đây, cậu hãy bỏ vào túi. Nhỡ có việc gì xảy ra, ta sẽ khai là gia nhân của Tơrơc Balin, con là tù binh, cậu là học sinh. Tướng công Balin thuộc phái liên kết với Thổ Nhĩ Kỳ nên chắc chúng sẽ không làm ngặt đâu. Rồi tối đến, con sẽ cứu cậu ra và chúng ta cùng trốn về.
- Anh mưu trí thật!
- Con cũng nghĩ vậy đấy! Những lúc tỉnh rượu con còn cao mưu hơn cả bu chúng nó nữa cơ.
Bánh mì mới nướng, giò lợn hấp và thịt mỡ ướp cùng một ít ớt xào lần lượt được lôi ra khỏi đẫy. Cậu học sinh ăn thịt giò hấp còn Tulipan vớ lấy tảng thịt mỡ ướp, rắc muối và đặt ớt xào lên.
- Giá tụi này mà trông thấy! – Y nói và hất đầu ra hiệu.
- Thì sao?
- Người Thổ uống được rượu vang, nhưng thịt mỡ thì họ kinh tởm như ta tởm thịt chuột ấy.
Gergey cười. Tulipan rướn lông mày lên và tiếp:
- Nhưng chúng nó đâu có biết thịt mỡ ướp kẹp với ớt xào là một món ăn thần tiên đến thế nào! Con cho là Môhamét cũng chưa hề được nếm món ăn này.
- Thế làm dân Hung thích hơn làm dân Thổ à?
- Kẻ nào không thích làm dân Hung là ngốc!
Y vuốt bộ ria đen, mềm như tơ và bưng bầu rượu lên tu. Y chia cho cậu học sinh nhưng cậu lắc đầu:
- Có lẽ để chốc nữa hẵng.
Cậu thò tay vào túi áo và lôi cái túi nhỏ ra:
- Tulipan, anh có biết cái nhẫn này không?
- Không. Nhưng con thấy nó đáng giá bằng cả một con ngựa. Những hạt ti ti này là cái gì đây? Kim cương à?
- Kim cương đấy.
- Vậy thì nên nhìn. Con nghe nhiều người đồn là nhìn vào kim cương thì mắt sẽ sáng ra.
- Anh có đọc được chữ này không?
- Sao lại không! Con đã từng là ionisa. Con đã học hết trường huấn luyện ionisa.
Và y đọc:
- Ha massallah la hakk ve la kuvvet il a bilah el ah el azim. Tiếng Hung nghĩa là không có chân lý và sức mạnh nào ngoài Chúa Trời thâm nghiêm.
Y lại gật đầu:
- Đúng thế thật. Nếu Chúa Trời không muốn, con đã không thể trở thành người Hung.
Họ im lặng suy nghĩ. Tulipan lại lên tiếng:
- Rồi cậu sẽ thấy xuntan, thực là một con người cương nghị. Quần thần của ngài lòe loẹt nhưng bản thân ngài chỉ mặc triều phục mỗi khi có lễ lạt hoặc khi tiếp khách. Sau xuntan sẽ đến một rừng cờ lớn, phần nhiều đều là cờ đuôi ngựa. Sau nữa là một trăm lính kèn. Chúng đeo kèn bằng dây chuyền vàng đấy cậu ạ. Sau toán lính kèn đến hai trăm cái trống con, một trăm trống đại và hai trăm não bạt, một trăm xập xoèng và tiêu.
- Chắc tai của xuntan phải tốt lắm mới chịu được cái mớ tạp âm đó suốt ngày.
- Cái âm nhạc ấy thì kinh khủng thật, chỉ khi nào đoàn quân dừng lại nghỉ chúng mới im lặng. Nhưng cái đó cũng cần cho quân Thổ, đặc biệt là khi lâm trận. Nếu không trống khống kèn thì quân Thổ sẽ chẳng đánh đấm gì cả.
- Này, có đúng là chúng nó đào tạo bọn ionisa từ lũ trẻ gia tô giáo không?
- Chả đúng đâu. Có điều quả thật là những đứa trẻ bị cướp về đã trở thành những tên ionisa cừ khôi nhất. Cái bọn không cha không mẹ ấy coi việc ngã xuống giữa trận tiền là vinh dự.
- Hết quân lính sẽ đến cái gì nữa?
- Một bầy khố rách áo ôm. Sau nữa là bọn làm xiếc đi trên dây, bọn làm trò ảo thuật, bọn thầy bói và bọn buôn lậu, những tên rình đón chiến lợi phẩm và buôn bán đủ các thứ tạp nhạp. Rồi cậu còn thấy rất nhiều thùng đựng nước nữa cơ; ít nhất cũng phải năm trăm lạc đà chở nước.
- Thế là hết à?
- Chưa. Sau đó còn đến hàng trăm đoàn xigan ốm đói cùng đàn chó hoang. Bọn này sống bằng đồ thừa mứa. Nhưng chỉ ngày mai hoặc ngày kia bọn chúng mới tới đây.
- Và sau nữa?
Tulipan nhún vai:
- Quạ.
-?
- Đủ các loại: diều hâu, quạ đen, quạ khoang. Sau các đoàn quân bao giờ trên trời cũng có cả một bầy đen ngòm. Đôi khi còn đông hơn cả người.
Mặt trời buổi trưa chiếu nóng bức. Cậu học sinh cởi áo ngoài ra. Họ lại nhoi lên đỉnh hòn lèn, rúc vào giữa đám cành lá, nhìn lên những tên ionisa mũ trắng đang trẩy qua bên dưới.
Tulipan điểm tên nhiều đứa trong bọn chúng.
- Cái thằng đen đen này cùng học với con trong trường đấy. Ngực nó bị một nhát đâm, bây giờ vẫn còn cái hõm to và sâu đến nỗi nắm tay một đứa bé có thể nhét lọt vào đấy. Còn cái thằng mồ hôi mồ kê nhễ nhại, vừa trật tuyban xuống kia kìa, ít nhất nó cũng đã giết hàng trăm mạng trong cuộc chiến tranh Batư. Trên người nó chưa có vết thương nào, chả biết từ đó tới nay nó đã bị chưa? Còn cái thằng gầy gầy õng ẹo kia kìa: nó là một tên phóng phi tiêu cừ khôi đấy. Cách hăm lăm bước nó đã có thể phóng ngập kiếm vào ngực địch thủ rồi. Tên nó là Chopken. Ngoài nó ra còn nhiều thằng như thế. Trong trường ionisa có một gò đất ngập cỏ. Chúng nó tập phóng kiếm ở đó. Có đứa tập phóng đến vài nghìn lần trong một ngày.
- Còn tên da đen kia?
- Ơ này, mày cũng còn sống đấy ư, hở Kétsơkin già?! Nó mới thật là tay bơi cự phách. Ngậm gươm vào mồm, thế là nó vượt qua sông, dù sông rộng đến mấy nó cũng vượt qua như thường.
- Chuyện đó thì người Hung cũng vẫn làm luôn.
- Có thể. Duy thằng này không hề mệt. Nó có thể lặn xuống mò đồng tiền ở dưới đáy nước lên. Xuntan đã có lần giải trí với nó bên bờ sông Đuno đấy. Ngài ném tiền vàng xuống sông và bao nhiêu đứa đã nhảy theo, nhưng thằng này mò được nhiều nhất. Ơ này, thằng già Kalen! Cái đứa mũi khoằm, tay chân hộ pháp kia kìa! Cậu có thấy thanh mã tấu rộng bản, bao nâu nâu đeo bên sườn hắn không? Hai mươi lăm bảng[56] đấy nhé! Trong trận Bengrat, với thanh mã tấu ấy nó đã bổ một nhát vào đầu một người lính Hung mạnh đến nỗi chẳng những đầu anh ta mà cả đầu con ngựa của anh ta nữa cũng bị đứt phăng. Thế mà cả hai đều bọc sắt đấy nhé!
- Và hẳn là lúc đó anh lính Hung đã xuống ngựa nhặt đầu của mình lên.
- Quả thật chuyện ấy thì con không thấy, con chỉ nghe nói thôi. – Tulipan thanh minh.
Bỗng nhiên y giật thót người.
- Con nằm mơ chăng? Yumusac.
Mà thật, tên ionisa mắt chột, người Arập, mặt cau có, đang tiến bước về phía họ trên mình một con ngựa chiến thấp, ức nở. Trang phục của hắn sang trọng hơn của những tên khác. Một cái lông đà điểu to tướng phất phơ trên cái mũ trắng có chỏm cao của hắn.
- Nó thật, Trời ạ! – Gergey cũng sửng sốt cả người.
- Thế sao người ta bảo ông mục sư đã treo cổ nó?
- Ta cũng được biết như thế.
- Mục sư không nói về chuyện đó à?
- Không.
- Thật không thể hiểu được. – Tulipan ngây người nhìn theo tên ionisa.
Sau đó hai con người ngạc nhiên ấy liếc mắt nhìn nhau dường như mỗi người đều chờ đợi một sự giải thích của người kia, nhưng họ đều im lặng.
Khoảng năm phút sau, cậu học sinh mới lên tiếng:
- Nói thật đi, Tulipan, anh không muốn trở lại với chúng nó ư?
- Không đời nào. – Tulipan trả lời một cách dứt khoát – Dù chưa vợ chưa con gì cũng không. Huống hồ vợ con là một mụ đàn bà tốt, còn hai đứa con của con thì dù có đổi lấy tất cả châu báu của Côngxtăngtinốp con cũng không đổi. Thằng nhỏ rất kháu. Còn thằng lớn thì thông minh đến nỗi một ông giáo chủ cũng chưa chắc đã nhiều mưu trí hơn. Hôm nọ nó vừa hỏi con – nó hỏi chứ: “Tại sao ngựa không có sừng hả bố?”.
- Họa có người Tácta mới biết! – Gergey bật cười.
Họ không nói gì nữa. Cậu học sinh quan sát đoàn ionisa lũ lượt kéo qua vô tận trên con đường núi với nét mặt mỗi lúc một nghiêm nghị hơn.
Không gian đã trở thành một biển bụi. Tiếng lách cách của binh khí, tiếng rồn rập của vó ngựa khiến người ta ù tai choáng óc, thế mà thỉnh thoảng một toán quân nhạc còn réo vang lên trong khúc ngoặt dưới thung lũng.
Cậu học sinh bỗng ngửng phắt đầu lên:
- Tulipan này, ngần này người đến đây hẳn không phải là vô cớ.
- Vô cớ thì người ta chẳng bao giờ đi.
- Bọn này muốn chiếm Buđo đây!
- Có thể lắm. – Tulipan thờ ơ đáp.
Cậu học sinh tái mặt nhìn y và hỏi:
- Nhỡ tự dưng xuntan bị chết giữa đường thì sao?
- Ngài không chết đâu.
- Nhưng nếu nhỡ...
Tulipan nhún vai nói:
- Bao giờ ngài cũng đem các hoàng tử đi theo.
- Vậy ông ta là con rồng ba đầu sáu tay.
- Cậu bảo gì cơ?
Đáng lẽ trả lời, Gergey lại hỏi:
- Anh nghĩ thế nào, chúng nó đi từ đây đến Buđo mất mấy ngày?
- Nếu trời mưa, chúng nó sẽ dừng lại vài ba ngày, cũng có khi hàng tuần.
- Nhưng nếu không mưa?
- Nắng quá chúng nó cũng nghỉ.
Cậu học sinh bồn chồn gãi cổ.
- Vậy thì ta có thể vượt trước chúng nó.
- Cậu bảo gì ạ?
- Ta bảo là nếu bọn này đi Buđo thì hoặc là ta phải đem gia quyến Xexey về đây, hoặc ta phải ở đó bên cạnh họ.
Tiếng ầm ầm của đoàn quân mới tới át hẳn lời họ. Đội ngũ dài dằng dặc của bọn ionisa đã qua hết và đến lượt một đoàn quân cờ vàng, mũ cắm lông đà điểu, trang phục rực rỡ. Một tên hộ pháp tuổi đã trung tuần, dáng dấp đường bệ, cao vượt hẳn đoàn quân. Quân lính mang hai lá cờ trên ngọn có chùm đuôi ngựa dài màu đỏ đi phía trước, cán cờ mạ vàng lấp lánh.
- Đây là xuntan! – Gergey rùng mình thốt lên.
- Không phải đâu. – Tulipan phẩy tay – Đây chỉ là aga của bọn ionisa. Những người lòe loẹt xung quanh ông ta toàn là iaia-basi.
- Iaia-basi là cái quái gì?
- Võ quan ionisa.
Một đội quân rực rỡ tiếp theo giữa những hàng kích cán mạ vàng. Hai người trẻ tuổi nét mặt bình thản cưỡi ngựa đi ở giữa, cả hai con ngựa đều màu xám.
- Các hoàng tử của xuntan đấy – Tulipan giải thích với một vẻ kính cẩn – Môhamét và Xelim.
Nhưng liền sau đó y lại nhún vai:
- Quỷ tha ma bắt chúng nó đi!
Cả hai hoàng tử đều rám nắng, họ không giống nhau nhưng có vẻ hợp nhau.
- Ơ này, iaia-ôclu Môhamét đi kia kìa!
- Viên pasa tiếng tăm lừng lẫy ấy à?
- Vâng.
Viên pasa râu xám, ánh mắt đường bệ, đi đằng sau các hoàng tử. Phía trước lão, quân lính vác bảy lá cờ trên ngọn có chùm đuôi ngựa. Đầu lão đội một cái tuyban trắng xếp không biết bao nhiêu lớp.
- Ông này là bố thằng Yumusac đấy.
- Vô lý.
- Nhưng mà thật đấy. Lúc nãy một đứa con trai khác của lão cũng vừa đi qua, bêi Arơxơlan.
- Thế Yumusac là các tên gì?
Một cái tên thộn.
Tulipan trả lời và buồn tình rứt một cọng cỏ đưa vào mồm nhấm.
Một đội quân mang chùy vàng và bạc, đội tuyban cao phát khiếp, đi tiếp đến. Cậu học sinh run rẩy, cậu cảm thấy xuntan sắp đến, cậu khấn:
- Lạy Đức Chúa vạn linh vạn ứng của dân Hung, hãy phù hộ chúng con!
Vô vàn binh khí bằng vàng bằng bạc và những bộ triều phục sặc sỡ, lấp lánh nhấp nhô trước mắt cậu. Cậu phải đưa tay lên che mắt để nhìn rõ hơn.
Tulipan hích vào sườn cậu:
- Cậu nhìn kia kìa – giọng của y run run – ngài đã đến kia.
- Người nào?
- Người có một đạo sĩ đang múa trước mặt ấy.
Đó là một người mặc áo bào màu xám giản dị, cưỡi ngựa đi một mình một hàng. Trước mặt ông ta, một đạo sĩ Hồi giáo đang vừa đi vừa xoay tròn với một tốc độ đều đặn. Đầu đạo sĩ đội một cái mũ bằng lông lạc đà cao đến một cẳng tay rưỡi. Hai tay hắn dang ra, một bàn tay chỉ thiên, một bàn tay chỉ địa. Váy hắn xòe ra như một cái nơm.
- Đạo sĩ quay – Tulipan giải thích.
- Thế mà hắng và con ngựa không bị chóng mặt?
- Cả hai đều đã quen.
Con ngựa không lúc nào bị vướng chân. Sáu đạo sĩ khác mặc váy trắng đi hai bên để chờ đến lượt thay người đang quay.
- Bảy đạo sĩ này cứ quay tròn như thế trước mặc xuntan từ Côngxtăngtinốp đến Buđo – Tulipan nói như hét vào tai cậu học sinh kìa vì âm thanh hỗn loạn của các thứ kèn, trống, thanh la, não bạt làm họ không thể hiểu nhau bằng cách nào khác nữa.
Xuntan cưỡi một con ngựa Arập thuần giống, tuyệt đẹp. Đằng sau xuntan có hai tên da đen cởi trần vác lọng lông công che cho bậc thiên tử khỏi bị ánh mặt trời thiêu đốt. Tuy nhiên, ở khúc ngoặt trong thung lũng, không trung đã mù mịt và hoàng thượng cũng phải hít bụi như tên lính rách rưởi nhất của ngài mà thôi.
Khi xuntan đi qua dưới hòn lèn, ta có thể thấy thêm hắng mặc áo chẽn bằng vóc đỏ và cái quần ống thụng thắt chẽn ở cổ chân cũng thế. Cái khăn tuyban của hắn màu xanh lá cây. Mặt hắn gầy, má hóp. Dưới cái mũi hẹp, dài, gần như quặp xuống là một bộ ria lưa thưa đã lốm đốm bạc cũng như bộ râu xén ngắn, loăn xoăn ở dưới cằm. Mắt hắn là đôi mắt ốc nhồi.
Gergey đang muốn nhìn kỹ hơn nữa thì bỗng ầm! Một tiếng nổ rung chuyển cả trời đất. Hòn lèn rung lên dưới người họ.
Những con ngựa đứng khựng cả lại. Âm nhạc đứt khúc. Một sự nhốn nháu hoảng loạn. Bụi, đá cuội, những mẩu tay, chân, binh khí và máu từ trên trời rơi xuống như mưa.
Đoàn quân ở phía thung lũng kêu la, nhốn nháo.
- Chết rồi! – Gergey kêu lên và đập hai bàn tay vào nhau. Cậu giương cặp mắt hốt hoảng nhìn trừng trừng xuống thung lũng.
Trong thung lũng, một cột khói đen bốc lên đến tận những đám mấy, mùi thuốc súng khét lẹt sặc sụa cả không trung.
- Chuyện gì thế? – Tulipan khiếp đảm hỏi.
- Chuyện viên tổng binh ionisa không phải là vua xuntan. – Cậu học sinh trả lời, đầu cúi gục xuống.
Tiếp sau tiếng nổ là một phút yên lặng choáng váng.
Rồi ngàn vạn tiếng kêu thét, chửi rủa ầm ĩ nổi lên. Đoàn quân nhốn nháo như một tổ kiến bị châm chọc. Tất cả đều chen nhau đến chỗ cột lửa vừa bốc lên.
Ở đó ngổn ngang xác chết và những tên bị thương.
Cả những đứa không ở gần đó lắm cũng hoảng hồn bạt vía. Chúng không hiểu vừa rồi là tiếng gầm của một khẩu thần công mai phục hay chỉ là một xe thuốc súng bị nổ giữa đường.
Nhưng bọn ionisa thì đã biết có kẻ chôn mìn đánh chúng. Chúng ùa vào rừng như một đàn ong bị trêu chọc đi tìm kẻ thù.
Chúng không tìm thấy ai khác ngoài ông mục sư, cậu học sinh và Tulipan. Mục sư đã bất tỉnh nhân sự, máu sùi thành bọt trên môi ; quần áo ông dính đầy vụn gỗ mục. Tiếng nổ đã quật đổ cây lê dại và quăng ông ra khỏi hốc cây.
Xuntan ra lệnh đưa ba người bị bắt đến trước mặt hắn.
Hắn xuống ngựa. Quân lính bê đến một cái trống đồng làm ghế ngồi. Một tên quan hầu trải cái áo choàng bằng lụa xanh của y lên làm đệm.
Nhưng xuntan không ngồi. Hắn nhìn Tulipan và hỏi
- Chúng mày là ai?
Qua mặt vũi và qua cái xích ở chân Tulipan, xuntan đã nhận ra đó là một tù binh Thổ. Tulipan quỳ xuống trả lời:
- Muôn tâu Đức cha của mọi tín đồ chân giáo, bệ hạ cũng có thể thấy xiềng xích trên chân con đây: con là nô lệ. Đáng lẽ con cũng là ionisa. Tên con là Tulipan.
- Thế thằng nhãi này?
Cậu học sinh sững sờ cả người, cứ đứng đực ra mà nhìn con người có cặp mắt ốc nhồi, mặt bôi son, mũi bò tót, chúa tể của bao nhiêu triệu người, kẻ đáng lẽ đã phải bay lên xứ bồng lai> Thổ Nhĩ Kỳ từ lúc nãy.
- Bẩm, con nuôi của Tơrơc Balin đấy ạ - Tulipan đáp.
- Của con chó Enhinhghi[57] ) ấy à?
- Tâu hoàng thượng, vâng ạ.
Xuntan nhìn sang ông mục sư:
- Và người này?
Hai tên ionisa phải xốc nách mới giữ được mục sư. Đầu ông rũ xuống, máu chảy từ mồm xuống đầy ngực. Không thể biết ông chỉ ngất đi hay đã chết.
Tulipan nhìn sang ông mục sư.
Một tên trưởng quan từ phía sau túm lấy tóc của ông và kéo đầu lên để Tulipan nhìn được rõ hơn.
Máu từ cằm ông nhỏ giọt xuống, ngực ông phập phồng.
- Con không biết. – Tulipan trả lời.
- Thằng học sinh cũng không biết à?
Gergey lắc đầu.
Xuntan nhìn cậu rồi lại quay sang hỏi Tulipan:
- Vụ nổ gì lúc nãy thế? >Chúng nó muốn giết ta à?
- Muôn tâu hoàng thượng, con với cậu học sinh này đi hái nấm ở gần đây. Chúng con nghe tiếng quân nhạc, thế là chúng con vội lại xem. Con đây, hạt bụi không xứng đáng dưới chân hoàng thượng, con chỉ chờ hoàng thượng đi qua để kể lên xin được giải thoát.
- Nghĩa là mày không biết gì hết?
- Xin quỷ thần chứng giám cho con.
- Cởi trói cho nó. – Xuntan ra lệnh – Lấy xích của nó xích vào chân thằng học sinh.
Hắn nhìn sang người mục sư nói tiếp:
- Còn con chó này thì hãy đưa đến cho các ngự y chữa chạy. Ta muốn nghe lời khai của nó.
Sau đó xuntan lại lên ngựa, các hoàng tử đến bên cạnh hắn, cùng đám võ quan và bọn lính ngự lâm hộ tống hắn đến nơi xảy ra vụ nổ.
Trong khi bọn Thổ tra xích vào chân mình, cậu học sinh trông thấy chúng nó đặt mục sư nằm ngửa trên mặt đất và lấy nước dội lên mặt, lên ngực ông. Chúng nó rửa sạch máu trên người ông. Một tên thổ nghiêm nghị, mặc áo choàng màu tro, chốc chốc lại kéo mí mắt của ông lên xem xét.
Chúng nó xích xong chân cậu và giải đến chỗ nhốt tù binh. Cậu thiếu niên tái nhợt và đờ đẫn.
Mười lăm phút sau Tulipan cũng tới. Y mặc quần áo xanh, đội mũ trắng, đi ủng đỏ cũng như bọn ionisa. Y nắm tay dứ dứ về phía cậu học sinh và giận dữ thét vào mặt cậu:
- Phen này mày lọt vào tay tao rồi nhé, đồ chó tà giáo!
Và y đẩy tên ionisa đang đứng cạnh Gergey đi chỗ khác.
- Thằng này là nô lệ của tớ! Từ trước đến giờ tớ là nô lệ của nó, bây giờ nó là của tớ. Ala vĩ đại thật công bằng.
Tên ionisa kia gật đầu tán đồng và nhường cho Tulipan đứng cạnh Gergey.
Cậu tái mặt nhìn Tulipan, y đã thật sự thay lòng đổi dạ rồi chăng?
Chưa đầy hai phút sau. Tulipan ngầm ra hiệu bảo cậu đừng lo.
Gergey bị giải đi giữa một đám trẻ con nô lệ mệt mỏi và bụi bặm. Cạnh họ có một hàng ionisa đi áp giải. Sau lưng họ là những xe chở súng thần công lăn ầm ầm trên đường. Có một khẩu to ghê gớm do năm chục đôi bò đực kéo. Đội pháo thủ mặc quần áo đỏ, khoác áo choàng ngắn đi hộ tống.
Với cái nóng như thiêu như đốt, mặt trời hành hạ cả đoàn quân cũng như đám nô lệ. Bụi trắng trên đường cũng nóng bỏng. Một đứa bé lên tám, cứ đi bộ mươi bước lại rên rỉ:
- Uống nước! Nước...
Gergey rầu rĩ bảo Tulipan:
- Cho nó uống với.
- Không có nước. – Tulipan trả lời bằng tiếng Hung – Cái bình để quên ở đằng ấy mất rồi.
- Nghe không chú bé, không có nước. – Gergey ngoái ra sau bảo thằng bé – Nếu có thì chúng ta đã sẵn lòng cho chú rồi. Cố chịu đến tối vậy.
Hai tay cậu phải thay đổi nhau nâng cái xích lên cho dễ bước, nhưng sức nặng của cái xích mỗi lúc một lớn. Đến lúc xẩm tối, cậu đã cảm thấy như phải đeo hàng tạ trên người.
Bầy trẻ con lúc đó đã được ngồi trên các xe súng và trên lưng lạc đà. Bọn pháo thủ đã nhặt chúng lên vì chúng mệt mỏi quá, cứ vấp ngã dúi dụi.
- Còn xa chỗ nghỉ nữa không? – Gergey hỏi tên lính rách rưới đi bên phải.
- Tên lính trố mắt lên khi hắn nghe Gergey hỏi bằng tiếng Thổ. Hắn đáp cộc lốc:
- Không.
Đó là một tên Thổ khổng lồ, tuổi còn trẻ, mặt tròn. Hắn mặc một cái áo cộc tay bằng da đã rách mướp, hai cánh tay trần trụi thò ra ngoài. Thật là những cánh tay hộ pháp! Người khác mà có được bộ đùi như đôi cánh tay này thì cũng đã thích lắm rồi. Khí giới của hắn là hai thanh gươm cong giắt ở thắt lưng. Một cái cán bằng xương nai, cái kia cán bằng xương ống chân bò, một đầu vẫn còn nguyên hai cái u như lúc tạo hóa sinh ra. Nhưng vũ khí chính của hắn là cái giáo dài, mũi dã gỉ, mà hắn vác trên vai. Hắn thuộc bọn lính tạp ngũ, những kẻ ra đi chỉ vì chiến lợi phẩm. Tất cả mọi người đều có quyền sai bảo chúng, nhưng tuân lệnh thì chúng chỉ tuân lệnh chừng nào mà tay nải của chúng chưa được nhồi chặt ních. Cái tay nải của thằng này rất to và còn lép kẹp. Cái tay nải lủng lẳng trên lưng hắn và đó cũng là một vật do hắn tự làm lấy. Cả lông và đầu của con bò đực xưa kia cũng vẫn còn trên tay nải. Cái dấu in hình một vòng tròn chia tư, to bằng bàn tay.
- Mày là dân Thổ à? – Hắn hỏi.
- Không.