← Quay lại trang sách

Phần 5 NGUYỆT THỰC-1

Viên đại úy thành Xorơvotkơ đứng tối ngày trong tháp cao lắng nghe tiếng đại bác gầm từ Eghe vọng đến.

Ở Xorơvotkơ nắng thu rất đẹp. Lá rừng mới bắt đầu ngả vàng từ vài hôm nay, và vì ngày nào trời cũng mưa nhưng đêm nay trời cũng quang tạnh, nên gốc cây và ven suối lại xanh non mơn mởn. Cứ như không phải tiết thu mà đang mùa xuân.

Xorơvotkơ cách Eghe cũng bằng từ Isosơxee đến Gơđơnlơ hoặc từ Siôphôôc thẳng đường thủy qua Phuyrét[71]. Chỉ có cái là nó nằm giữa các dãy núi; núi tiếp núi từ Phennêmét đến Gơmơ, chỉ có một con đường hẻm, hẹp và ngoằn ngoèo dẫn vào đó.

Sáng sáng khi đại bác lên tiếng, mây tụ lại nhiều tối sầm cả bầu trời, và không đầy một giờ sau mưa đã rơi. Đôi khi có cả mưa bẩn. Gió đưa khói đến lẫn trong mây và đôi khi mưa tưới bẩn các bức tường và sân thành Xorơvotkơ, những quả núi đá, những bông hồng mùa thu của ngài đại úy, cứ như người ta giội nước rửa ống khói ở thượng giới xuống vậy.

Xorơvotkơ là một tòa thành nhỏ cũng như Đơrêgei, xây trên một quả núi đá cao. Đối với người trông thấy lần đầu tiên, nó giống như một tòa thành được đẽo ra từ đỉnh nhọn quả núi. Chả là vì nó nhỏ quá. Trong thành vẻn vẹn có ba ngôi nhà, cái sân của nó chỉ vừa đủ cho một cỗ xe quay đầu. Bảo nó là một biệt thự đi săn có lẽ đúng hơn. Chỉ có thể dùng nó làm trốn dung thân trong cái thời người ta còn chưa biết đến đại bác. Còn ở cái thời xảy ra câu chuyện của chúng ta đây cùng lắm nó chỉ có thể dùng làm chỗ nghỉ chân cho những đội quân kéo đến Eghe hoặc làm một trạm chuyển thư tín mỗi khi Eghe bị vây hãm.

Nếu Eghe thất thủ, ngài Xonkoi Botajơ có thể lên ngựa cùng bốn mươi chín tên lính của ngài mà đi lên các tỉnh miền bắc, đến chỗ họ hàng của ngài - nếu quả ngài không muốn làm như Xônđi cáu tiết hoặc như Nhari Lơrinxơ, viên đại úy thành Xônnôc, hôm mồng bốn tháng này đã một mình đứng giữa cổng thành cự địch với cả trăm ngàn tên Thổ.

Ngài Xonkoi Bolajơ đứng trong tháp cao của thành với cái áo khoác mùa thu có cổ, màu nâu sẫm, dài bén gót khoác trên vai, với cái mũ lông cáo trên đầu. Ông lo lắng đưa cặp mắt xanh ươn ướt đăm đăm nhìn ngọn núi cao đã ngăn không cho ông nhìn thấu tới Eghe. Không thể thấy Eghe thì ông nhìn ngọn núi. Mà giả dụ có nhìn về hướng khác chăng nữa ông cũng chỉ thấy núi mà thôi, bởi vì những quả núi đứng gần đến nỗi với một khẩu súng tốt ông có thể bắn trúng một con nai gặm cỏ ở bất cứ sườn núi nào.

Dưới chân thành có một vài túp nhà nhỏ và con suối Eghe. Con đường xa lộ rải đá chạy dọc ven suối.

Thế là ngài Xonkoi đứng trong tháp cao của thành mà nhìn cái hư không.

Yên lặng bao trùm quanh ông. Chả trách ông Bolajơ nhà ta suýt ngã ngửa khi người lính gác đứng sau lưng ông ta đột nhiên rúc một tiếng tù và.

- Có người đến. - Người lính gác nói để thanh minh khi anh ta thấy chủ tướng giật mình vì tiếng tù và bất ngờ, giơ tay lên định tát.

- Đồ bò! – Bolajơ quát anh ta – Tao đã ở ngay đây rồi, mày còn rúc điếc tai tao làm gì nữa!

Ông nhìn xuống con đường hẻm lượn quanh co theo triền núi, quả nhiên ông trông thấy hai kỵ sĩ. Họ có vẻ quý tộc. Người nhỏ hơn có lẽ là võ đồng. Có lẽ họ từ xa đến, bởi sau lưng họ yên ngựa chất đầy bọc to. Vai họ đeo súng ngắn nòng. Cả hai đều mặc áo khoác dài chấm bàn đạp.

- Những người này không phải từ Eghe đến. – Xonkoi suy nghĩ và buột thành tiếng.

- Có lẽ là Vosơ Mikơlốt. - Người gác tháp canh nói.

Anh ta định lợi dụng lời nói của chủ tướng để làm quên sự ngu ngốc ban nãy của mình. Nhưng anh ta gặp ngày rủi: sự bực tức lại khiến Bolajơ nổi xung:

- Đồ bò đực, Vosơ Mikơlốt đã làm sao mà đến được! Hả, đồ bê con! Mày tưởng Viên cũng gần như làng Opát đấy hẳn!

Từ khi giặc Thổ đánh phá Eghe, con người tốt bụng này lúc nào cũng dễ cáu bẳn. Thêm nữa, giờ đây ông đang lấy làm xấu hổ trước mặt người lính của mình vì đã giật thót người – khi nghe tiếng tù và, cho nên suýt nữa ông nuốt chửng anh ta.

Người lính gác ngượng đỏ mặt. Anh không dám nói thêm gì nữa. Ông Bolajơ nhà ta cầm lấy dốc gươm đi xuống cầu thanh vòng để xem thử ai đến, bởi đã hai ngày nay chỉ toàn người từ đây ra đi, còn đến thì không một ai cả.

Một chàng trai rất trẻ, da mặt trắng xanh, có cái nhìn gan góc đứng ở sân thành. Chàng ta không có ria cũng chẳng có râu. Đứng sau chàng, một thiếu niên có vẻ võ đồng giữ cương hai con ngựa. Khi thấy chủ nhà, chàng trai đi đến trước mặt ông, bỏ mũ ra với một động tác vung tay rất rộng, nghiêng mình chào.

- Tôi là em của Bônemixo, thượng úy ở Eghe. Tên tôi là Gianốt. Cậu thiếu niên đây là học sinh Rêzo Mikơlốt. Anh cậu ta cũng đang ở trong thành Eghe.

Xonkoi đưa tay ra bắt tay Bônemixo Gianốt nhưng không bắt tay người kia. Con mắt lão luyện của ông nhận ra ngay người đó không phải là quý tộc.

- Chào cậu. – Ông nói. – Ta không quen anh cậu, nhưng nếu cậu gặp anh ta, ta xin gửi lời chào. Cậu là khách quý của ta.

Và bằng một cử chỉ ân cần, ông chỉ tay về phía cửa.

- Xin cảm ơn ngài, - Chàng trai đáp - Tôi không đến đây để làm khách, mà chỉ để hỏi một vài câu thôi. Tôi muốn được biết ngài có tin gì về Eghe không?

Xonkoi nhún vai và chỉ về phía Eghe.

- Cậu cũng có thể nghe đấy!

- Vâng, tôi nghe hai bên đối pháo.

- Đã mười chín hôm nay rồi.

- Thành kiên cố lắm nhỉ?

Xonkoi lại nhún vai:

- Quân Thổ cũng mạnh.

- Có đủ lính không?

- Hôm mồng mười họ có cả thảy một nghìn chín trăm ba mươi lăm người. Từ đó tới giờ chúng nó liên tục bắn phá họ.

- Nhà vua không gửi viện binh đến ư?

- Cho đến nay thì không.

- Đức giám mục?

- Cũng không.

- Nhưng họ vẫn chờ chứ?

- Chờ thì họ vẫn chờ. Nhưng ta đừng nói chuyện nhiều thế nữa cậu em ạ. Vào đây nghỉ cho hết mệt đi đã. Nhìn ngựa của cậu, ta biết cậu đã khởi hành từ sáng sớm.

Bolajơ đã lộ rõ vẻ không thích thú gì cái việc đứng ngoài sân mà nghe những câu hỏi dồn dập của người mới đến. Từ nãy ông đã muốn đến ngồi bên bàn lắm rồi, chỉ có tiếng vang âm của trận công thành giữ ông lại trên tháp canh mà thôi. Trời đã trưa mà ông thì chưa ăn sáng.

- Thưa ngài, - người khách nói khi vào đến cửa - cậu thiếu niên đi theo tôi là một sinh viên khoa thần học.

- Sinh viên à? Vậy thì… Này, cậu sinh viên! – Ông ta gọi, vẻ trịch thượng.

Ông chỉ phòng cho khách rồi mời khách rửa bằng nước thơm (Vosanhi mang từ trại quân Thổ đến cho ông một ít dầu hoa hồng. Ông muốn khoe khoang đôi chút).

Khi hai người khách bước vào phòng ăn, bàn đã dọn xong, một con thỏ rán đang bốc hơi thơm phức trên bàn.

- Lại thỏ à? – Bolajơ quắc mắt hỏi mụ hầu bếp.

Thấy hai chàng trai bước vào, ông phân trần:

- Chúng tôi bây giờ toàn sống bằng thịt thỏ. Tất cả thỏ ở Eghe đều chạy tạt sang bên này để tránh tiếng động.

Gianốt sau khi đã cởi bỏ áo khoác, đến phòng ăn trong cái áo lụa Đamát màu anh đào bó sát người. Người sinh viên chỉ mặc cái áo sợi đay. Ngang lưng cả hai người đều có thắt lưng da cùng một kiểu, bên thắt lưng là thanh gươm kiểu Hung.

Trên bàn không có thực cụ gì khác ngoài cái thìa. Thời bấy giờ mỗi người đều cắt lấy thức ăn bằng dao riêng của mình. Cái dĩa chỉ dùng trong nhà bếp.

Hai người khách đều thò tay vào thắt lưng, chỗ đeo con dao con. Con dao của chàng trai nhiều tuổi hơn mạ vàng, có cán nạm ngọc trai. Của người sinh viên chỉ là một con dao thường cán gỗ làm ở Pheiê.

- Tôi thích thịt thỏ. – Bônemixo Gianốt đáp – Và món này làm tuyệt lắm. Ở chỗ chúng tôi người ta nấu cách khác. Thưa đại úy, chẳng hiểu ngài có biết gì về ông anh tôi không?

- Nấu cách khác à? – Xontoi hỏi.

Ông quan tâm đến khoản thịt thỏ nhiều hơn.

- Vâng, khác. – Bônemixo Gianốt trả lời - Ở chỗ chúng tôi người ta rửa con thỏ bằng rượu vang, sau đó bắc lên bếp với một tí nước thôi. Người ta bỏ cả một lát bánh mì vào trong bụng nó và nấu chín. Nhưng phải chú ý cho nước đừng sủi lên. Khi nước đã sôi, người ta bắc xuống, lấy thịt ra và lọc nước luộc. Sau đó cho đinh hương, hồ tiêu, nghệ và gừng vào. Nhưng liệu nội nhật ngày hôm nay chúng ta có thể biết được chuyện gì xảy ra trong thành không nhỉ? Có thể anh tôi đã hy sinh rồi sao?

Và mắt chàng trai rưng rưng lệ.

- Thế người ta không cho dấm vào ư? – Xonkoi lại hỏi tiếp mà không hề ngửng nhìn lên.

- Sao lại không, nhưng chỉ đến cuối cùng, khi lại cho thỏ vào nước luộc lần thứ hai. Ngay ngày hôm nay chúng tôi phải vào Eghe.

Xonkoi mút hết cái xương đùi thỏ rồi chạm cốc với hai người khách. Họ không uống rượu vang.

- Hừm. – Xonkoi lên tiếng.

Ông lấy khăn lau ria mép rồi nhìn họ và lại thốt ra.

- Hừm.

Ông im lặng một lát. Sau đó ông chợt chống khuỷu tay lên bàn và cất tiếng hỏi:

- Vào thành Eghe à?

- Vâng, vâng. – Bônemixo Gianốt tái mặt trả lời. – Ngay tối hôm nay.

- Hừm. Tôi muốn được biết các vị định vào bằng cách nào? Như chim chăng? Hay như những hồn ma chui qua lỗ khóa?

- Như chuột chũi ấy, ông anh thân mến ạ.

- Chuột chũi?

- Tòa thành còn có cả những đường ngầm nữa.

- Những đường ngầm? – Xonkoi hỏi và lắc đầu.

Bônemixo Gianốt thò tay vào ngực lấy ra một tờ giấy đặt xuống trước mặt Xonkoi.

- Đây: những nét màu đỏ này.

- Tôi biết rồi. – Xonkoi trề môi nhìn bản vẽ - Những đường hầm ấy tuy có thật đấy, nhưng ở đằng kia thì không có nữa đâu. Người ta đã bắn sập tất cả từ thời Perênhi rồi kia.

- Người ta đã bắn sập?

- Sập chứ. Khi Perênhi cắt đôi nhà thờ của Thánh vương Isơlơvan, người ta đã phát hiện ra những đường ngầm và người ta đã bắn đại bác vào tất cả những con đường ấy. Tất cả đều đã đổ sập. Không phải người Hung đào những con đường ấy. Người Hung không nghĩ đến chuyện tháo chạy khi xây thành.

- Chắc chắn như vậy chứ? – Bônemixo Gianốt hỏi.

- Chắc chắn như việc chúng ta đang ngồi ở đây vậy.

- Nhưng đã thật hoàn toàn chắc chắn đâu? Ngài làm sao mà biết được điều đó chắc chắn đến như thế?

Xonkoi nhún vai:

- Các tin sứ của Đôbô thường đến chỗ tôi. Họ đi đi về về qua doanh trại Thổ. Mấy hôm trước chúng nó đã đâm chết một người trong bọn họ. Nếu như có, dù chỉ một con đường, cậu nghĩ họ lại không ra vào theo lối đó sao?

Chàng Bônemixô trẻ tuổi yên lặng ngẫm nghĩ. Cuối cùng chàng ngửng đầu lên.

- Thế tin sứ khi nào ra đây, hoặc khi nào sẽ vào?

- Hiện giờ có hai người đang ở ngoài! Một người là Vosơ Mikơlốt, người kia là Xobô Imre. Đôbô phái họ đến Viên, chỗ nhà Vua.

- Bao giờ họ trở lại? Khi nào họ đi vào thành?

- Vosơ Mikơlốt có lẽ một tuần nữa. Xobô có lẽ hai tuần nữa. Tuần nào cũng có một tin sứ từ đây ra đi.

Lệ nhòa mi mắt người hỏi tin. Chàng ta tái mặt nhìn ra phía trước với đôi mắt đẫm lệ.

Xonkoi dốc cạn cốc rượu. Ông lại hừm một tiếng rồi ngả người ra đằng sau trong chiếc ghế bành và vừa liếc nhìn qua đuôi mắt vừa nhẹ nhàng nói:

- Cậu Bônemixo Gianốt, cậu hãy nghe đây! Cậu không phải là Gianốt cũng như thể tôi không phải là Abraham[72]. Và cậu không phải là em của Bônemixơ cũng như thể tôi không phải là giám mục Eghe vậy. Cô là phụ nữ, cô em ạ, dù cho cô có mặc áo đôn- man gi đi nữa, cô cũng không thể đánh lừa nổi con mắt của tôi.

Người khách vội đứng dậy đáp:

- Ngài Xonkoi, xin ngài thứ lỗi. Không phải tôi giấu ngài là để đánh lừa ngài đâu, mà để ngài đừng cản đường tôi. Tôi là vợ Bônemixo Gergey.

Xonkoi đứng dậy, nghiêng mình đáp lễ:

- Tôi xin sẵn sàng giúp đỡ phu nhân.

- Cám ơn ngài. Vậy bây giờ tôi sẽ nói vì sao tôi đến đây. Chồng tôi có một cái bùa hộ mệnh Thổ Nhĩ Kỳ. Cái tên vốn là chủ cái bùa đó đã bắt mất con trai của chúng tôi và đem đến Eghe đây. Hắn tưởng rằng cái bùa hộ mệnh đó ở chỗ chồng tôi. Ngài xem, nó đây.

Người thiếu phụ thò tay vào ngực lấy ra một cái nhẫn Thổ tuyệt xảo treo đầu một sợi dây.

Xonkoi chăm chú nhìn cái nhẫn.

Người thiếu phụ nói tiếp:

- Tôi đã sai quân lính ở Sôpơrôn tìm kiếm tên Thổ đó một thời gian, nhưng vì họ không tìm thấy hắn nên tôi phải đuổi theo hắn tới đây. Người Thổ mê tín lắm. Cái bùa hộ mệnh này là tất cả đối với hắn. Nếu có thể, hắn sẽ giết chồng tôi. Nếu không thể, hắn sẽ giết con trai tôi. Nếu như cái nhẫn ở chỗ chồng tôi thì có lẽ họ còn có thể nói chuyện với nhau được, chồng tôi sẽ trả lại cái nhẫn, hắn sẽ trả lại đứa bé.

Xonkoi lắc đầu:

- Phu nhân thân mến ạ, những người ở Eghe đã thề không lời qua tiếng lại với bọn Thổ, không phân bua một lời bắn tin nào chúng. Kẻ nào trò chuyện, nhắn nhe với bọn Thổ thì dù là quan hay lính đều sẽ bị tử hình.

Ông già vừa gãi gáy vừa tiếp:

- Giá phu nhân đến đây hôm qua thì hay biết mấy. Nhưng ai biết họ có lọt được vào không?

Viên đại uý nghĩ đến Nogiơ Lukát.

- Bây giờ thì đằng nào cũng thế. – Người thiếu phụ đáp. – Ngay hôm nay tôi phải vào thành! Tôi chưa thề là sẽ không nói chuyện với quân Thổ.

- Nhưng phu nhân nghĩ thế nào chứ? Hẳn là hai người không định mở đường máu qua trại quân Thổ?

- Chúng tôi sẽ cải trang mà đi.

- Nếu cải trang, quân trong thành sẽ bắn chết các bạn.

- Chúng tôi sẽ gọi lên.

- Thế thì các bạn sẽ rơi vào tay quân Thổ ở ngoài thành. Các cổng thành đều đã lấp kín. Có thể hôm nay người ta đã xây bít lại rồi cũng nên.

- Vậy tin sứ của Đôbô năm hôm nữa làm sao mà vào được?

- Rất nguy hiểm. Vả lại anh ta biết chắc trong thành chờ anh ta ở cổng vào. Anh ta có còi, có khẩu lệnh. Anh ta biết tiếng Thổ. Các bạn phải chờ anh ta, nếu quả các bạn muốn lao vào nguy hiểm bằng bất cứ giá nào.

- Thế nếu tôi đội khăn trắng mà đi? Nếu tôi nói với chúng rằng tôi muốn tìm một võ quan tên là Yumusac?

- Phu nhân đẹp và trẻ. Nếu như chúng nó coi phu nhân là nam giới đi nữa thì phu nhân vẫn có giá trị đối với chúng như nữ giới vậy. Tên lính đầu tiên bắt được phu nhân sẽ trói phu nhân vào trong lều của nó.

- Nhưng nếu tôi viện đến một tên võ quan.

- Ở đó có hai trăm nghìn người. Chúng nó không biết hết tên các sĩ quan. Chúng nó lại không cùng một tiếng nói Ba Tư, Ả rập, Ai Cập, Cuốcđơ, Tácta, Xechi, Antani, Hôrơvát, Hy Lạp, Ácmêni – hàng trăm giống người pha tạp. Tên các võ quan của chúng cũng chỉ bọn trong cùng binh đoàn mới biết. Cái thứ tên ấy cũng không phải tên thật của các võ quan, mà tự chúng đặt ra. Giả dụ một tên võ quan có mũi to thì bất kể tên hắn là Amét hay Hoxan, giữa chúng nó với nhau chúng chỉ gọi là Mũi to hay Voi mà thôi. Nếu một tên tóc đỏ, tên hắn sẽ là Sóc hoặc Đồng điên. Nếu người gầy và chân dài, chúng nó sẽ gọi là Cò hương. Và bao nhiêu tên khác nữa đại loại như thế. Ở đó tên gọi của tất cả bọn chúng là cái tên có thể giúp chúng dễ nhận ra hình dạng nhất.

Người thiếu phụ thất vọng cúi đầu xuống:

- Vậy ông bày cho tôi một kế gì đi.

- Lời khuyên của tôi là chúng ta hãy chờ một người tin sứ đi vào. Dù đó là Vosơ Mikơlốt hoặc một người nào khác, phu nhân hãy đưa cái nhẫn cho anh ta, anh ta sẽ mang nó vào. Lúc đó ngài Bônemixo Gergey tự khắc sẽ tìm ra cách nói chuyện với tên Thổ.

Đó quả là một lời khuyên thông thái. Nhưng hỡi ôi, trái tim đang giãy giụa của người mẹ không biết đến chữ gượm. Nó chỉ thấy cái chết đang lơ lửng trên đầu những người thân yêu. Phải giơ mộc ra chặn cái chết đó càng sớm chừng nào càng tốt chừng nấy!

Êvo mở bản đồ thành Eghe ra, đắm mình rất lâu vào việc xem xét. Sau đó nàng ngửng đầu lê nói:

- Nếu người ta xây dựng cái thành này trước khi dân Hung di cư vào, những người thời nay không thể nào còn biết được có gì bên dưới nó. Đây, cái nhà thờ ở đây, từ đây ba đường hầm tỏa đi ba nơi. Quả có thể người ta đã bắn sập những đường hầm này. Nhưng đường hầm thứ tư ở đây, nó đi xuyên qua dưới soái phủ ngày nay và ở xa ba đường hầm kia. Người ta không thể tìm ra được đường hầm này khi xây pháo đài Sanđô. Có thể họ biết đến nó, mà cũng có thể không. Cửa vào của đường hầm này ở đâu, hở Mikơlôt?

Nàng đẩy mảnh giấy đến trước mặt cậu thiếu niên.

- Ở chỗ mấy cái lò gạch. – Người thiếu niên nói sau một phút xem xét.

- Ở đó có lò gạch không? – Người thiếu phụ hỏi Xonkoi.

- Có. – Xonkoi trả lời - ở mạn đông bắc thành.

Người thiếu niên đọc dòng chữ nhỏ li ti như hạt vừng:

- Lò gạch ở đông bắc. Tảng đá tròn và dẹt, cách cây hồ đào mười bước về phía nam. Đó là cửa vào.

- Ở đó có cây hồ đào à? – Người thiếu phụ lại hỏi.

- Cái đó thì tôi không nhớ. – Xonkoi đáp – Cả đời tôi mới đến đấy có một lần, từ cái thời ông Perênhi cơ.

- Cái lò gạch có xa thành không?

- Không xa đâu. Có lẽ độ mười lăm phút đường đất.

- Thế thì ở đó cũng có quân Thổ.

- Có hẳn đi chứ lị. Nếu không có quân chính ngũ thì cũng là dân đi theo đoàn quân: nông dân và những loại người khác tương tự.

- Ngài có thể cho chúng tôi vào bộ quần áo Thổ được không?

- Được.

- Có cả áo khoác đeli[73] nữa chứ?

- Có, nhưng chỉ mỗi một cái thôi. Mà nó cũng bị xẻ đôi suốt từ trên xuống dưới.

- Tôi sẽ khâu lại. – Người thiếu phụ nói – tôi đã có lần đi xa mặc giả làm đêli. Không ngờ việc đó lại có ngày giúp ích cho tôi.

Nàng tì trán vào lòng bàn tay, suy nghĩ. Bỗng nàng giãy nảy lên:

- Không, tôi không thể chờ đến khi khâu xong áo khoác được. Mà như thế này còn tốt hơn. Xin cảm ơn sự tiếp đãi ân cần của ngài.

Nàng chìa tay ra cho viên đại uý.

- Nhưng có điều phu nhân không…

- Chúng tôi khởi hành ngay bây giờ.

Viên đại uý đứng dậy chắn lấy cửa.

- Tôi không thể để cho phu nhân đi được! Vào chốn hiểm nghèo một cách mù quáng như thế này. Nếu vậy suốt đời tôi sẽ lên án bản thân mình vì phu nhân.

Êvo rơi phịch xuống ghế.

- Ngài nói đúng. – Nàng thở dài nói – Chúng tôi phải đi bằng cách khác. Cần phải nghĩ ra cách gì đó để chúng khỏi bắt.

- Chính thế. – Ông Bolajơ đáp lại và cũng ngồi xuống – Nếu có một khả năng hé ra dù chỉ bằng một sợi tóc, tôi lập tức xin để phu nhân đi.

2

Về phía đông bắc thành Eghe có một khoảng núi cao gọi là Eghét. Chính ra tên thật của nó đáng lẽ là núi Thành Eghit hoặc thành Eghét, nhưng bởi dạ dày Hung không bao giờ tiêu nổi cái tên Eghét, nên đến nay tên của quả núi đó vẫn chỉ là Eghét. Nó cách xa thành Eghe cũng bằng từ núi Thành Genlê đến Kơbanho[74]. Nhưng nó cao hơn và đồ sộ hơn rất nhiều.

Nếu một người có cánh tay thật khoẻ đứng trên thành Eghe bắn một phát tên có đuôi bằng lông ngỗng về phía quả núi đó, mũi tên sẽ bay qua quả đồi, nơi một dàn đại bác Thổ đang gầm ghè, và sẽ rơi vào một thung lũng, nơi đám dân ô hợp ở. Cái thung lũng ấy giờ đây là của bọn con buôn, lái ngựa, thợ cạo, đạo sĩ, lang băm, thợ mài, bọn bán bánh kẹo và nước hoa quả, bọn làm xiếc, bọn buôn nô lệ, hàng tầm tầm, dân xigan và những loại người tương tự. Từ đó, hàng ngày chúng đi vào trại quân mua bán, đổi chác, rinh đồ rơi vãi, tiêu khiển bọn lính, chữa bệnh, ăn cắp, lừa đảo, tóm lại: đến sống giữa bọn lính.

Ngày mồng hai tháng mười, ba ngày sau cuộc công kích vào dịp lễ Thánh Mihai, một chàng đeli trẻ tuổi từ cánh rừng Rokanhi đi tới chỗ đó. Chàng ngồi trên ngựa, mình mặc quần đi ngựa hẹp ống, chân dận ủng màu vàng, khoác áo choàng lông lạc đà. Chàng không đội tuyban mà chụp cái mũ may liền vào áo choàng lên đầu theo tập quán những người đeli. Gươm cong giắt quanh người, vai đeo cung và ống tên. Chàng lùa một thiếu niên Hung bị xiềng chân đi trước. Người thiếu niên lại lùa một con bò đực. Có thể thấy ngay người thiếu niên và con bò là chiến lợi phẩm của chàng đeli.

Mạn đó có ruộng nho. Năm nay dân Hung không hái quả. Nhưng những ruộng nho đầy rẫy quân Thổ. Nhìn về bất cứ phía nào cũng thấy bọn Thổ đội tuyban hoặc mũ lông nhấp nhô giữa những ruộng nho.

Một vài tên gọi to lên với chàng đeli trẻ tuổi.

- Mày nhặt cái của chiến lợi phẩm tuyệt vời ấy ở đâu thế?

Nhưng chính lúc đó hai người kia lại lùa con bò đi được một cách bực tức nhất. Họ không đáp lại.

Chàng đeli: Eevo.

Người tù binh: Mikơlốt.

Ở mạn này không có lính gác hoặc nếu có chúng cũng sục sạo trong ruộng nho. Lính gác làm gì cơ chứ, khi ngoài này không có địch? Phu nhân Bônemixo đến thung lũng có lò gạch mà không bị chặn hỏi gì cả, nơi đây những lều vải bẩn thỉu và lịch sự xen lẫn với nhau, chó và bọn gái giang hồ xigan đông đúc, ầm ỹ quanh họ. Rồi bọn con buôn chen qua những người khác đến chỗ họ:

- Mày bán thằng con trai bao nhiêu nào?

- Tao trả giá nó năm mươi piaxte.

- Tao trả giá nó sáu mươi gurut.

- Tao trả bảy mươi.

- Tao trả con bò đực hai mươi piaxte.

- Tao trả ba chục.

- Bốn chục đấy.

Chàng đeli không thèm nói gì với bọn chúng. Cây giáo trong tay chàng lúc thì giơ ra để giữa con bò, lúc thì giữ người tù binh. Ngọn roi trong tay người tù binh quất đen đét.

Từ sườn núi trồng nho họ rẽ xuống lò gạch. Ở đây bộ mặt thế giới lại càng hỗn tạp hơn. Dân xigan lấy gạch xây nên những túp nhà thấp lè tè, phủ bằng bồi hoặc bằng vải bạt thay cho mái ngói. Trong những lò gạch cũng có một vài gia đình xigan ở. Chúng đang nấu nướng hoặc nằm dài dưới ánh nắng mùa thu.

Cây hồ đào cổ thụ vẫn còn đứng đó và còn sống. Một tên lái ngựa nào đó đã đến ở dưới gốc cây. Êvo chỉ nhìn vào cái chỗ cách cây mười bước về phía nam. Đó là chỗ đứng của đàn ngựa. Cạnh đó là cái lều bốn cọc của tên lái, trước lều có viết một câu bằng chữ Thổ trích từ kinh Côran:

Pancori Phacohiri. (Cảnh nghèo túng là niềm kiêu hãnh của tôi)

Dân lái buôn Thổ không bao giờ viết tên mình lên cửa hiệu mà chỉ viết một vài chữ lấy từ kinh Côran.

Êvo đã trông thấy hòn đá. Xưa kia nó đã từng là thớt cối xay. Nó nằm đây có lẽ đã lâu lắm. Nó đã lún xuống đất đến nỗi chỉ còn một nửa tai nhô lên. Ở chính giữa cỏ đã mọc cao, rêu và chua me đã phủ kín mình nó.

Êvo lùa con bò đực và người tù binh của mình vào giữa đàn ngựa. Nàng cắm ngọn giáo vào cái lỗ ở giữa thớt cối xay đá. Tên lái buôn nghiêng mình bước ra.

- Mày bán thằng nô lệ bao nhiêu? – Hắn vừa hỏi vừa vuốt râu cằm.

Êvo giả vờ đóng vai người câm. Nàng chỉ vào môi mình rồi lắc đầu.

Linh cảm không phải là của hiếm. Nếu gặp một người nào đã vừa câm, lại vừa không có râu ria gì cả, người Thổ lập tức hiểu ngay kẻ đứng trước mặt hẳn là một tạo vật mà khi không làm đeli thì nghề kiếm cơm là cách sống bằng những thứ không phải của mình.

Tên Hy Lạp liền nói:

- Otudơ gurút (Ba mươi piaxte).

Êvo ra hiệu chỉ bán con bò đực thôi.

Tên Hy Lạp nhìn kỹ con bò cả đằng trước lẫn đằng sau. Hắn đánh giá bằng một động tác nâng yếm con bò lên rồi mặc cả một giá mới:

- Jirơmi gerút (Hai chục piaxte).

Êvo lắc đầu.

Tên lái mặc cả ba chục rồi ba mươi lăm đồng.

Trong lúc đó Êvo đã ngồi xuống phiến đá và đau đớn nắn bóp bắp chân. Nàng đã buộc thịt sống vào quanh bắp chân. Nước thịt sống đã ngấm qua làn da xanh.

Khi tên Hy Lạp đã mặc cả đến ba mươi lăm đồng, Êvo ra hiệu bằng mũi giáo để tỏ rằng nàng cần một cái lều ở ngay chỗ đó.

Tên Hy Lạp thấy chàng đeli bị thương, người xanh nhợt và mệt mỏi gần ngất đi được. Hắn hiểu chàng đeli muốn nghỉ ngơi cho qua cái phần thời gian còn lại của cuộc vây thành. Hắn sai người hầu mang ra ba bốn cái lều vải rách, vá chằng chịt.

- Chọn đi.

Êvo chọn lấy cái lều to nhất, đó là cái vá nhiều chỗ nhất, rồi chỉ con bò ra hiệu có thể dắt đi. Tên lái chê con bò còn ít.

Êvo cho thêm tên lái cả con ngựa nhưng ra hiệu cho hắn hiểu rằng nàng muốn nhận cái lều sau khi đã được dựng.

Tên lái ưng thuận. Hắn sai hai tên hần da đen căng lều phía trong chỗ Êvo ngồi.

Việc đó thế là trôi chảy trót lọt.

- Trời đã giúp chúng ta! – Êvo thầm thì nói, khi cùng Mikơlốt còn lại một mình trong lều.

Bây giờ chỉ còn một vấn đề: làm thế nào và bao giờ họ có thể nhấc phiến đá lên? Họ chỉ cần kiếm lấy một cái cọc nữa mà thôi. Họ sẽ cắm nó vào lỗ ở giữa thót cối xay đá mà bẩy nó lên.

Kiếm một cái cọc cũng chẳng đến nỗi khó khăn gì lắm. Họ chỉ cần lấy một cái cọc chỗ quây ngựa. Họ làm việc đó vào ban đêm.

Đại bác nổ liên hồi kỳ trận bên kia đồi và những khẩu tu pháo cổ nhỏ hơn từ trong thành cũng vang tiếng. Đôi khi mùi thuốc súng hôi nồng thoảng cả đến đây. Giữa những tán lá, họ trông thấy cả một ngọn tháp của thành. Nó đã bị hủy hoại như một cây nến bị chuột gặm, tuy vậy họ vẫn vui mừng nhìn nó. Ngọn tháp đó chỉ cái chỗ mà ngay trong đêm nay họ sẽ đi đến.

Mọi người tứ chiếng trăm loài đó ầm ĩ suốt cả ngày xung quanh họ, đôi khi lính cũng xuất hiện ở đó. Phần lớn chúng đến mua ngựa hoặc tìm người bán thuốc dấu. Những thứ bùa, khánh của dân xigan cũng bán được rất chạy. Chúng chẳng tin tưởng gì lắm, tuy vậy vẫn cứ mua. Một tên axap người lông lá, đeo bùa khánh đầy trên ngực như một vòng hoa.

Eevo nằm duỗi thẳng trên cái áo choàng.

- Cậu nghĩ thế nào Mikơlốt, tôi không thể tìm được con trai tôi hay sao? Tôi đã đến được chốn đây, vậy tôi cũng có thể vào đến cả trong kia nữa.

- Phu nhân đã lại nghĩ đến chuyện ấy rồi ư?

- Trong bộ y phục này không ai ngăn cản tôi đâu. Tôi có thể tìm, tôi có thể tìm thấy trong đạo quân này cũng được. Tôi sẽ đến trước mặt Yumusac và nói với hắn: nhẫn mày đây, trả lại con trai cho ta!

- Hắn sẽ lấy cái nhẫn mà không trả thằng bé lại!

- Ồ, con thú dữ nghịch thiên vô đạo!

- Mà nếu hắn không như vậy. Nhưng dù hắn có lương thiện đi nữa, sự thể sẽ ra sao nếu trong trại quân một võ quan nào đó sẽ ra mệnh lệnh cho phu nhân? Có thể có những đội quân mà lính đeli không được phép đi lẫn vào. Khu vực pháo chắc hẳn cũng là nơi cấm. Lập tức chúng nó sẽ nhận ra phu nhân là kẻ lạ trong trại quânn ày.

- Chúng nó sẽ bắt…

- Mà nếu chúng nó không bắt, Yumusac cũng không để phu nhân lọt khỏi tay nó.

Êvo thở dài. Nàng mở tay nải, lấy bánh mì và thịt gà nguội ra bày lên thớt cối xay.

- Ăn đi, Mikơlốt.

Cuối cùng, trời cũng tối. Đại bác ngừng nổ. Trong bóng tối chẳng bao lâu tất cả mọi người đều đi ngủ.

Êvo lấy từ trong tay nải ra một gỗ nến, rồi dùng đá lửa châm lên.

Khoảng nửa đêm Mikơlốt lẻn ra ngoài, vài phút sau trở về với một cái cọc to bằng bắp tay.

Họ cắm vào thớt cối xay, bẩy phiến đá đi chỗ khác. Dưới phiến đá không có gì khác ngoài nền đất sét ẩm đen đen với một vài con bọ đen.

Êvo lấy chân giậm vào chỗ đặt phiến đá. Cái giậm chân đó là câu hỏi đối với mặt đất: mi có rỗng hay không đấy?

Mặt đất trầm trầm đáp lại:

- Tôi rỗng đây.

Êvo lấy trong tay nải ra một cái xẻng. Nàng cắm vào cán dao và bắt đầu đào. Mikơlốt dùng tay cào đất.

Ở độ sâu hai gang tay, lưỡi xẻng chạm vào ván gỗ.

Đó là một tấm gỗ sồi dày và chắc, nhưng nay đã mục. Họ đào ra, nhấc nó lên. Dưới nó là cái miệng há hốc của một hầm đá tối om, rộng bằng chỗ thắt lưng người.

Họ phải đi xuống mười bậc thang. Ở đó hầm đá mở rộng dần, vách đá ghép như kiểu hầm rượu, có thể đứng thẳng người mà đi trong đó được.

Không khí nặng nề. Đường đi tối om om. Đây đó diêm tiêu điểm hoa trắng lên vách đá. Những viên đá phả ra hơi lạnh lẽo ẩm ướt.

Mikơlốt đi trước cầm nến. Đôi khi họ đi qua những vũng nước ngập đến mắt cá chân, đôi khi họ vấp phải những viên đá từ vòm hầm rơi xuống. Những lúc đó Mikơlốt dặn lại sau:

- Cẩn thận, có đá giữa đường.

Nền đất đôi khi vang âm dưới chân họ. Dưới đó chắc hẳn còn một đường hầm khác nữa. Giống người nào đã có thể xây dựng nên? Khi cái thành này được xây nên, loài người còn chưa viết sử. Ai biết được những giống người nào đã từng sống trên mảnh đất này trước chúng ta?

Mikơlốt lại nói ra phía sau:

- Cẩn thận đấy, phải khom lưng xuống!

Con đường còn đổ dốc một quãng dài, vòm trần mỗi lúc một thấp, sau đó con đường cao dần lên nhưng vòm trần thì không.

Mikơlốt đã đi bằng bốn tay chân. Êvo dừng lại, nàng bảo:

- Cậu cứ đi lên trước xem nào, Mikơlốt ạ. Nếu đường hầm bị tắc, ta phải trở lại lấy xẻng.

Mikơlốt tiếp tục bò. Ánh nến mỗi lúc một nhỏ, cuối cùng biến mất. Êvo còn lại một mình trong bóng tối. Nàng quỳ xuống và cầu nguyện:

- Ồ, lạy Chúa tôi… người cha của linh hồn phiêu bạt đáng thương của con! Người có thấy con ở đây trong hầm sâu mù mịt này chăng?... Chỉ còn vài bước chân ngăn cách con với Gergey của con mà thôi… Người đã xe chúng con lại với nhau để chúng con phải chia lìa nhau một cách bất hạnh như thế này chăng?... Con hướng mắt con, hướng trái tim run rẩy của con về phía Người. Lạy Chúa tôi, nơi đây, dưới gót chân thù địch, trong lòng đất sâu tăm tối, con xin Người hãy cho con đến được bên chàng!

Ánh sáng lại xuất hiện. Ngay sau đó Mikơlốt cũng hiện ra. Cậu ta bò sát bụng rồi dần dần lom khom bò ra từ bóng tối dày đặc.

- Đường hầm thắt lại độ vài chục bước, sau đó lại rộng ra trên một chiều dài mười bước. Đến đó đường chia hai ngả, nhưng cả hai đều đã bị sập.

- Cậu quay lại lấy xẻng đi, Mikơlốt. Chúng ta phải đào đến sáng. Nhưng mỗi giờ cậu lại phải ra trước lều một lát Mikơlốt ạ, để chúng nó khỏi nghi.

Chàng trai lặng lẽ vâng lời.

- Nếu tôi đến được chỗ chồng tôi, chúng tôi sẽ đền ơn tấm lòng tốt của cậu. – Êvo nói. – Đôbô yêu chồng tôi như em trai. Chồng tôi sẽ đưa cậu vào làm thư kí bên cạnh Đôbô.

- Tôi không nhận đâu. – Mikơlốt đáp. – Thằng bé lạc mất là do sự sơ xuất của tôi, tôi phải giúp phu nhân tìm cho ra. Hễ tìm được cháu, tôi sẽ cầm gậy viễn du và đi vào trường học.

Cậu Mikơlốt tốt bụng đáng thương ơi! Cậu sẽ chẳng bao giờ đến trường học nữa!

3

Cuộc công kích vào dịp lễ Thánh Mihai kéo dài đến trưa. Buổi chiều cả hai bên đều để cho đại bác nguội. Trong thành vang bài kinh circumdederun[75]. Xung quanh chân thang, các tuyên úy và đạo sĩ Hồi giáo thu nhặt xác chết và những thương binh không thể tự mình lên xe được nữa.

Mặt trong và mặt ngoài tường thành đều đọng máu đen ngòm. Trên các pháo đài và ở bốn chỗ đột phá khẩu, các bà phụ nữ rắc tro, rắc vôi bột lên các vũng máu. Người đao phủ trong thành vứt xác những tên ionisa bị tháp gác đổ đè chết xuống chân thành. Người ta đem những lá cờ của chúng vào phòng hiệp sĩ. Vũ khí của chúng người ta vứt cho binh lính: ai thích cái gì chọn cái ấy, không mất tiền. Trong quần áo, trong thắt lưng hoặc trong mũ tất cả mỗi tên ionisa, người ta đều tìm thấy tiền bạc, tiền đồng, đôi khi có cả tiền vàng nữa, không nhiều lắm. Người ta bỏ vào bị, niêm phong lại rồi cất vào cái hòm của thành, để sau cuộc vây hãm sẽ chia nhau.

Ngay sau bữa trưa, Đôbô phái những chiến sĩ còn xung trận ít thời gian nhất ra chữa tường thành. Trước hết họ dọn sạch đống đá của cái tháp đổ. Đến xẩm tối họ vẫn còn lôi từ trong đống đá ra xác những tên Thổ bị nén vào đó.

Cả bọn trẻ con cũng được Đôbô giao việc:

- Các cháu ơi, đi nhặt đạn đại bác vương vãi lại một chỗ đi. Viên nào to thì mang đến các khẩu pháo to, viên nào nhỏ thì mang đến các khẩu pháo nhỏ dưới chân các pháo đài ấy!

Đêm đó trung úy Heghétđuy ngủ ngoài pháo đài Sonđô cùng Gergey.

Trời đêm lành lạnh. Mảnh trăng hình lưỡi liềm rộng tỏa sáng trắng giữa ngàn sao. Gergey sai mang nóp rơm đến dưới một vòm cổng cho mình và hai bạn trung úy. Một đống lửa cháy trước vòm cổng.

Khi họ nằm xuống trong làn hơi ấm áp của đống lửa, Heghétđuy lên tiếng:

- Gergey, cậu là một nhà thông thái. Tớ cũng đã từng đi học nghề cha cố, nhưng rồi bị đuổi. Hôm nay tớ đã đánh ngã gục bốn chục tên Thổ bằng cánh tay này của tớ. Trong số đó có một tên hai lần xông vào đánh tớ. Vậy cậu không thể bảo là trong con người tớ không có lòng dũng cảm.

Gergey đã mệt lắm và buồn ngủ. Nhưng giọng nói của Heghétđuy run lên sao mà khác thường. Chàng bèn nhìn anh ta. Viên trung úy ngồi trên cái nóp rơm, ánh lửa soi sáng khuôn mặt và cái áo choàng xanh thẳm dài đến mắt cá của anh ta. Anh ta nói tiếp:

- Tuy vậy nhiều khi tớ vẫn ngẫm nghĩ, con người vẫn cứ là con người bất kể đầu hắn có cạo trọc hay không. Và như vậy chúng ta thực ra đang giết người.

- Thì đã hẳn… - Gergey ngái ngủ làu bàu.

- Và chúng nó cũng giết chúng ta.

- Tất nhiên là chúng nó giết. Nếu chúng nó trèo lên những tường thành không phải với vũ khí mà với bầu rượu, chúng ta cũng sẽ đón tiếp chúng bằng bầu rượu. Rượu vang sẽ chảy thay máu.

- Cái đó thật rõ ràng. – Heghetđuy đáp.

Anh ta nuốt nước bọt và quay nghiêng mặt nhìn vào đống lửa như một người lưỡng lự không biết nên nói hay đừng. Cuối cùng anh ta hỏi:

- Lòng dũng cảm là cái gì?

- Cậu vừa nói rằng cậu đã đánh ngã bốn chục tên Thổ. Thế mà cậu còn hỏi lòng dũng cảm là cái gì ư? Thôi nằm xuống, ngủ đi! Cậu cũng mệt rồi đấy!

Heghétđuy nhún vai:

- Nếu giữa chúng ta có một người thông minh mà trí tuệ bằng trí tuệ của tất cả bọn ta cộng lại, hoặc nói giả dụ bằng trí tuệ của tất cả mọi người trên thế gian này gộp lại, tớ tin rằng người ấy sẽ chẳng dũng cảm đâu.

Anh ta nhìn Gergey. Ánh lửa chiếu thẳng vào mặt Gergey, còn ở anh ta, lửa chỉ soi sáng đường viền quanh những cục xương lòi ra trên khuôn mặt.

Gergey nhắm mắt lại và ngái ngủ trả lời:

- Trái lại chính người đó mới sẽ là người dũng cảm nhất. Vì đâu cậu lại nghĩ rằng một người như thế sẽ không dũng cảm?

- Vì rằng người đó sẽ biết giá trị cuộc sống hơn. Đành rằng chúng ta đang ở đây trên đất này, điều đó chắc hẳn đi rồi, nhưng nếu quân Thổ lấy mất đầu của ta đi, không chắc chúng ta còn tiếp tục tồn tại nữa không… Cái gì hiện có, một người trí tuệ vĩ đại như thế sẽ không dễ dãi vứt đi chỉ vì mong muốn được thiên hạ khen: anh ta đã là một người trung trực!

Gergey ngáp rồi trả lời:

- Chỉ một đầu óc tầm thường mới khư khư tham sống. Nếu một người có đầu óc ngu dốt mà can đảm là vì không hiểu cái chết. Người có đầu óc mạnh mẽ sở dĩ can đảm vì anh ta hiểu rõ.

- Cái chết ấy à?

Gergey chống khuỷu tay nhỏm dậy:

- Chính thế. Kẻ có đầu óc ngu muội sống cuộc sống súc vật. Súc vật không hiểu biết cái chết. Cậu hãy xem con gà mái chẳng hạn: nó bảo vệ đàn gà con của nó quyết liệt biết chừng nào. Nhưng hễ con gà con quay lơ ra chết, nó sẽ bỏ đi không chút thương tiếc. Nếu nó hiểu cái chết như một người bình thường, có phải là nó đã tiếc thương khóc lóc rồi không? Vì như vậy nó sẽ biết con nó đã bị mất cuộc sống. Nhưng một kẻ đã không có khái niệm về cái chết, hẳn cũng chẳng thể có ý thức gì về cuộc sống. Và bây giờ ta hãy xem một người có đầu óc mạnh mẽ. Người đó sẽ can đảm chính vì cảm thấy rằng thể xác không phải là tất cả. Người đó cảm thấy ở mình tâm hồn nhiều hơn thể xác. Con người càng sống nhiều bằng tâm hồn bao nhiêu đối với anh ta thể xác càng ít giá trị bấy nhiêu. Những đấng anh hùng, những vĩ nhân trong lịch sử thế giới đều là những con người sống nhiều bằng tâm hồn. Tất cả. Nào, bây giờ chúng ta ngủ đi thôi.

Tuy vậy, để làm Heghétđuy yên tâm, chàng trầm ngâm nói tiếp:

- Chúng ta đã ở đâu trước khi bước vào cuộc sốn, chúng ta sẽ về đâu sau khi từ giã cuộc đời, điều đó trong cái vỏ bọc thế tục này chúng ta không biết. Nhưng giả sử chúng ta biết thì rồi sẽ ra sao? Nếu thế thì chúng ta sẽ không còn suy nghĩ về những sự việc hiện tại nữa mà cứ nghĩ người quen này người thân nọ đang làm gì ở thế giới bên kia, với lại công việc ở chỗ đó ra sao, những công việc mà chúng ta cũng đã từng tham dự, và nó sẽ tiếp tục như thế nào.

- Được rồi, được rồi. – Heghétđuy nói – tớ được nghe các giáo sĩ nói như thế cũng đã nhiều lần. Nhưng cuộc sống trần thế này chắc chắn có giá trị của nó, và không phải là để cho một tên vô đạo tứ chiếng nào đó có được mục tiêu mà chém.

Đống lửa cháy lép bép, mạ vàng những thanh gươm, những tấm giáp đặt cạnh cái nóp rơm. Cái gối của Gergey là một cái khiên da. Chàng lại nằm xuống và rất buồn ngủ đáp lại:

- Cậu Heghétđuy tốt bụng ơi, cậu nói toàn chuyện vớ vẩn. Con người, súc vật đôi khi mù quáng mà làm được việc tốt, người có tri thức luôn luôn biết chắc việc mình làm. Cậu cũng biết việc bảo vệ Tổ quốc là một sự nghiệp lớn và thiêng liêng cũng như khi đứa con bảo vệ bà mẹ đẻ ra nó.

Chàng kéo áo choàng che kín tai và tiếp:

- Ở đâu có ghi thành văn bản, trong bộ luật nào, rằng một người nào đó phải bảo vệ mẹ mình; nếu cần, bằng cả tính mệnh nữa? Con vật chắc chắn không bảo vệ mẹ nó. Nhưng con người, kẻ ngu ngốc nhất cũng như người thông thái nhất, lăn xả vào đứa đánh mẹ mình, và dù có chết anh ta cũng cảm thấy không thể nào hành động khác được.

Cái giọng ngái ngủ của chàng lại tiếp:

- Quy luật thiên đẳng đôi khi chi phối ý muốn của người ta. Tình yêu là một quy luật thiên đẳng. Tình yêu mẹ với tình yêu tổ quốc là một. Quân Thổ không thể giết nổi tâm hồn. Nhưng mà thôi, mặc kệ lão Pônxiux[76] của cậu, cậu cho phép tớ ngủ thôi! Cậu triết lý vào những lúc như thế này ư? Tớ lại choảng cái khiên tồi này vào người cậu bây giờ.

Heghétđuy không nói gì nữa. Anh ta cũng nằm dài trên nóp rơm. Trong thành không còn nghe tiếng gì khác ngoài tiếng bước chân đều đều của những người lính gác, với lại tiếng rì rầm khe khẽ của một cái cối xay và những bước chân lộp cộp của con ngựa kéo cối xay đó.

*

* *

Sáng hôm sau đại bác không lên tiếng. Nhưng trại quân ồn ào nhao nhao đằng sau những ụ cản bằng đất của quân Thổ.

- Bọn Thổ lại viết thư rồi. – Đôbô nói.

Trong tay ông có một tờ giấy trắng. Ông ra lệnh thổi kèn tập hợp. Hai phút sau, những chiến sĩ đang phiên nghỉ đã tề tựu trong hàng ngũ chiến đấu.

Đôbô nói:

- Hỡi quân sĩ! Sở dĩ ta gọi các ngươi lại đây là cốt để ngợi khen các ngươi. Các ngươi đã dũng mãnh đánh lui đợt công kích đầu tiên vào thành một cách xứng đáng với danh dự người lính Hung. Ta không hề thấy một kẻ hèn nhát nào trong số các ngươi. Các ngươi thật xứng đáng với danh hiệu anh hùng! Sau khi quân Thổ cút khỏi nơi đây, ta sẽ đích thân đi tới chỗ hoàng thượng và ta sẽ xin ban thưởng cho các ngươi. Nhưng cho tới khi ta có thể thực hiện được điều đó, trong số các ngươi có bốn người mà ta cần phản tặng thưởng bằng ngân quỹ ít ỏi của thành. Bokôtsoi Isơtơvan, Tơrôc Luxlô, Kômlôtsi Onton, Sônxi Xonixtô hãy bước ra khỏi hàng.

Bốn người dũng sĩ bước ra khỏi hàng đến đứng trước mặt Đôbô. Đầu cả bốn người đều buộc băng.

Đôbô nói tiếp:

- Quân giặc đã vượt được lên mặt tường ngoài và đã cắm được lá cờ đầu tiên. Chiến sĩ Bokôtsoi Isơtơvan đã một mình xông vào giữa đoàn quân ionisa, giằng lấy lá cờ khỏi tay tên Thổ và ném xuống. Trong khi chưa nhận được ân từ của nhà vua, ta cất nhắc anh ta lên chức thập trưởng và thưởng cho năm mươi đêna và một bộ quần áo mới.

Lão quản lý Sukan đếm năm chục đêna vào lòng bàn tay người dũng sĩ.

Đôbô nói tiếp:

- Đạn đại bác đã quét đổ lá cờ của thành cùng với mảng tường. Lá cờ đã rơi ra ngoài, vào giữa bọn Thổ. Tơrốc Luxlô đã một mình nhảy ra khỏi kẽ tường và đem lá cờ về. Trong khi ân từ của nhà vua chưa đến, anh ta được thưởng một phôrinh trong ngân quỹ của thành và một bộ quần áo dạ.

Người dũng sĩ đắc thắng liếc nhìn quanh. Sukan đếm tiền thưởng vào tay anh ta.

Đôbô lại tiếp:

- Ở Cổng Cũ quân giặc cũng đã cắm được một lá cờ: Kômlôtsi Onton đã xông lên tường và chặt gãy lá cờ đó xuống cùng với bàn tay phải của tên Thổ. Trong khi ta chưa có thể đề nghị nhà vua ban thưởng, anh ta được nhận hai phôrinh, và một bộ quần áo.

Còn lại người dũng sĩ thứ tư.

- Sônxi Xonixlô, - Đôbô nói – khi chỗ hàn khẩu bị vỡ và đáng lẽ quân Thổ đã ùa nhau vào hàng trăm tên, một mình ngươi đã nhảy lại chỗ đó và, không hề nhìn xem chúng có bao nhiêu đứa, ngươi đã choảng sứt đầu vỡ trán quân xâm lược, cho tới khi quân cứu viện kịp đến. Phần thưởng của ngươi, ngoài ân từ của nhà vua, giờ đây chỉ có hai thước dạ tốt và một phôrinh.

Dạ thời đó cao giá lắm và bởi chưng quân lính không mặc đồng phục, một bộ quần áo dạ chắc dùng suốt cả đời. Còn phần tiền, chúng ta nên biết toàn bộ niên bổng đại úy trấn thủ của Đôbô chỉ có sáu trăm phôrinh và cái ông gọi là ngân quỹ của thành chúng ta phải hiểu đó là tiền túi của ông.

Đôbô còn nói thêm:

- Ta quy định phần thưởng này không phải theo mức độ dũng cảm của các ngươi mà tùy theo túi tiền của thành. Ngoài các ngươi ra trong hàng ngũ còn nhiều người khác cũng đã làm được những việc anh hùng. Chính ta đã thấy có một đôi người giết được hàng dăm chục tên Thổ. Để khỏi nói đâu xa, đây có Nogiơ Lukát và đội quân của anh ta. Các ngươi đã biết anh ta làm những gì! Vậy bây giờ các ngươi phải hiểu: ta chỉ muốn tuyên dương những người xuất sắc đặc biệt nhất, những người đã vì Tổ quốc mà dấn thân mình vào nơi nguy hiểm chắc chết mười mươi.

Từ phía cổng có tiếng kèn vang lên và một phút sau, một người nông dân xa lạ đi qua bãi chợ về phía Đôbô. Tay y cầm một bức thư.

- Thôi, ai đi làm việc nấy. – Đôbô bảo quân sĩ.

Ông còn nói với Mectsei một điều gì đó, rồi khi người nông dân đến nơi, ông khinh bỉ nhìn từ đầu tới chân, sau đó ông lên ngựa đi thẳng.

Các võ quan tiếp người nông dân.

Lá thư, không được đọc, bị xé làm đôi. Người ta ném một nửa vào lửa, một nửa nữa người ta nhét vào mồm gã nông dân:

- Ăn cái của mày đã mang đến này đi, đồ chó!

Sau đó y cũng bị điệu vào ngục và có thể tha hồ mà ngẫm nghĩ, phục vụ quân Thổ bằng bất cứ cách nào cũng chẳng có lợi.

Tên người đó là Sari Onđơrat, quân Thổ đã đem y theo từ thành Phêlê.

Đoàn quân dị giáo chờ suốt một giờ xem người kia có trở ra nữa hay không. Khi chúng thấy những người Eghe không phúc đáp cho chúng, tất cả đại bác của chúng lại gầm lên quanh thành. Trong những hào đào dưới chân thành, chật ních lính chiến đấu Thổ.

Nhưng nếu cho đến nay trại quân Thổ chỉ vang lên tiếng thét Ala và những câu phỉ báng, thì giờ đây khắp quanh thành đều vang lên lời kêu gọi bằng tiếng Hung:

- Chúng mày hãy đầu hàng đi! Nếu chúng mày không chịu hàng, cái chết của chúng mày sẽ thê thảm!

Tiếng khác:

- Chúng mày tưởng mãi mãi có thể đánh lui được những đợt công kích hay sao? Đó mới chỉ là trận thử sức thôi! Cả hài nhi chúng ta cũng sẽ không tha!

Lại tiếng khác:

- Chúng mày hãy bỏ mặc Đôbô ở đấy! Đôbô là thằng điên! Nếu nó muốn chết, cứ việc chết một mình! Ai đi ra cổng thành sẽ không bị xâm phạm gì hết! Có thể mang tiền và binh khí theo!

- Ai muốn đi ra cứ việc buộc khăn trắng lên ngọn giáo! – Một tên xpahi đội mũ có chóp nhọn từ dưới hào rống lên.

- Kẻ nào mở cửa cho chúng tao vào sẽ được thưởng nghìn vàng! – Một tên aga ionisa đội mũ cắm lông đà điểu la lớn.

Nghe thế có ba người chĩa súng bắn, nhưng hắn đã kịp thời thụt xuống.

- Đôbô là đồ hóa dại! – Từ một phía khác tiếng gọi lại vang lên – Chúng mày đừng có điên! Kẻ nào ra khỏi thành đầu tiên sẽ được thưởng một trăm đồng vàng, hai chục đứa ra sau đó mỗi đứa được mười đồng vàng, và chúng mày có thể yên ổn mà đi!

Những tên lính già biết tiếng Hung trong trại giặc đã hô la lên như vậy. Chúng còn gọi cả bằng tiếng Tiệp, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý nữa.

Còn dân trong thành không trả lời chúng, chẳng bằng tiếng Hung, chẳng bằng tiếng Tiệp, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha, cũng chẳng bằng tiếng Ý.

Tiếng gọi hàng mỗi lúc một vang lên. Điều hứa hẹn mỗi lúc một hấp dẫn, sự đe dọa mỗi lúc một ghê rợn. Cuối cùng Gergey điều lính trống, lính kèn, lính tù và của mình lên mặt thành và mỗi khi một tên Thổ nào ở dưới kia bắt đầu gào, trống lại khua rộn, tù và châm biếm rúc lên, hoặc kèn lanh lảnh át đi. Việc đó làm cho dân thành tươi tỉnh lên. Ở các mạn khác người ta cũng điều lính trống, lính kèn ra, ba người thôi tiêu dài trong thành cũng kiếm được việc làm. Các chiến sĩ, ai có lá chắn bằng sắt, thảy đều gõ lên xoang xoảng. Cảnh ồn ào địa ngục đó bóp chết tất cả mọi tiếng gọi chiêu hàng khác.

Trung úy kỵ binh Poócsi Yêp xin phép Đôbô cho xuất kích đánh bọn gọi hàng. Chàng trung úy ấy là một chàng trai cao đẹp, sức khỏe như Hecquyn[77]. Bộ ria của anh, khi sáng sáng anh kéo nó ra, dài đến mang tai. Khi xung trận anh sử dụng một thanh mã tấu. Chỉ một nhát anh đã bổ đôi một cái đầu Thổ đội mũ sắt, đến nỗi cái mũ sắt chắc chắn ấy cũng rời ra làm hai mảnh.

Anh chỉ xin một trăm người.

- Đừng có khôn lỏi, chú Yôp ạ, - Đôbô đáp – Nhỡ có chuyện gì thì khốn.

Nhưng Poócsi Yôp đang bừng bừng giận dữ. Anh hạ thấp dần yêu cầu như Abraham trên đường Sôđôma[78].

- Chỉ năm chục thôi. Chỉ hai chục thôi vậy.

Cuối cùng anh chỉ xin có mười người để được tung hoành một chuyến.

Đáng nhẽ chừng ấy thôi Đôbô cũng chẳng cho phép đâu, nhưng mà lúc đó rất nhiều chiến sĩ ngứa tay cũng đã sắp thành hàng từng đoàn bên cạnh Poócsi. Mặt đỏ bừng, họ kêu lên:

- Thưa ngài đại úy!

Đôbô ngại rằng nếu ông còn tiếp tục phản đối, họ sẽ không coi đó là sự thận trọng khôn ngoan nữa mà cho rằng ông đã thấy lực lượng trong thành quá ít. Vì vậy ông nhún vai:

- Nếu quả các ngươi đang có cái thú muốn được người ta đánh cho vỡ đầu thì cứ việc mà đi.

- Bao nhiêu người ạ? – Poócsi hỏi, gần như thét lên vì mừng rỡ.

- Hai trăm. – Đôbô đáp.

Cánh cổng mở ra phía con suối vẫn còn nguyên lành, Poócsi chọn lấy hai trăm người của mình rồi xông ra.

Việc đó diễn ra vào khoảng trưa.

Con suối đầy quân Thổ đang cho ngựa và lạc đà uống nước dọc ven bờ. Trước cổng chủ yếu là bọn akinji đang cho ngựa uống.

Hai trăm chiến sĩ ập xuống đầu chúng như tia chớp. Bọn akinji rụng như sung. Poócsi đi trước mở đường xuyên qua giữa bọn chúng, áo giáp và sườn bên phải con ngựa của anh đỏ lòm những máu – các chiến sĩ khác cũng noi gương anh, và toán quân akinji hoảng hốt kêu la, đạp lên nhau mà chạy, mãi cho đến lúc hàng ngàn tên ionisa từ hai phía xông vào họ mới thôi.

Đôbô truyền thổi kèn thu quân.

Nhưng những chiến sĩ ở dưới kia không nghe thấy. Hăng tiết lên trong cơn xô xát; họ chém giết cả bọn ionisa.

Con ngựa của Poócsi chợt giật mình trước một con lạc đà và nhảy né sang bên. Trong nháy mắt đó Poócsi đang định bổ một nhát chém khủng khiếp xuống một tên xpahi mặc áo lưới thép. Anh ngã nhào xuống khỏi mình ngựa. Chúng nó đâm vào ức con ngựa. Con ngựa ngã đè lên chân Poócsi và nằm nguyên đó bên cạnh anh.

Các chiến sĩ khác thấy thế liền xúm quanh Poócsi và vung gươm chém sa sả để người trung úy có thì giờ đứng dậy. Nhưng Poócsi không đứng dậy. Chân anh đã bị trẹo khớp. Trong tư thế ngồi như thế, anh vẫn hăng máu múa tít thanh gươm, đâm chém tứ phía. Cái mũ sắt rơi ra khỏi đầu.

Một tên ionisa chém xuống đầu anh.

Trên mặt thành những tiếng kèn mạnh mẽ vang dội: Quay về! Quay về!

Đoàn chiến sĩ quay lại, mở đường qua vòng vây Thổ. Chỉ còn mười người ở lại bên cạnh Poócsi. Một rừng giáo liền tua tủa vây kín lấy họ.

- Đầu hàng đi – Bọn Thổ gọi họ.

Mười chiến sĩ, lần lượt người nọ sau người kia, hạ gươm xuống.

- Đồ hèn nhát! – Từ trên thành mọi người giận dữ gọi vọng xuống.

Khó khăn lắm mới giữ được Mectsei để anh khỏi xông ra.

Một giờ sau, quân địch dựng lên một giàn gỗ cao hình cái đĩa trên đồi Ghế Vua. Trên giàn gỗ đó, trước mắt quân dân trong thành, tên đao phủ Thổ dùng bánh xe sắt bẻ gãy xương các dũng sĩ Eghe bị thương, tất cả, chỉ trừ Poócsi.

4

Cho tới lúc đó Eghe chỉ căm thù quân Thổ, từ lúc đó trở đi họ còn ghê tởm chúng. Đám phụ nữ bật khóc. Quân sĩ muốn xông ra. Nhưng Đôbô đã sai khóa chặt cổng.

Sau hành động tàn bạo nhục nhã đó, pasa Ali cho gọi chõ vào thành:

- Chúng mày nên biết đạo quân của nhà vua đến cứu viện cho chúng mày đã bị chúng tao đánh tan tác! Không còn khoan hồng nữa! Nếu chúng mày không đầu hàng, tất cả chúng mày đều sẽ bị hành hình như những đứa ở đây.

Dân thành tái người khi nghe lời gọi đó. Hành động dã man của bọn Thổ đã khiến cả những người lính trông sững sờ đến nỗi quên cả đánh trống để át tiếng gọi.

- Bọn hèn hạ nói dối đấy! – Gergey nói với đám quân sĩ đứng xung quanh – Chúng nó nói dối cũng như đêm đêm chúng vẫn kêu gào là vợ chúng ta, người yêu chúng ta, con cái chúng ta đã bị bắt. Đạo quân nhà vua sẽ đến. Chúng ta có thể đợi họ đến trong bất cứ giờ nào.

- Nhưng ngộ chúng nó không nói dối? – Một giọng sống sượng van