Phần 4 HIỂM HỌA CỦA EGHE
Nếu trên trời có một cuốn thiên thư ghi chép lịch sử của người Hung, về tám năm dưới đây người ta sẽ ghi như sau:
1545: Buđo, Êxtegôm, Pheiêva, Xegel, Nôgơrat, Hotvon Vexpơrêm, Pêts – hầu như tất cả giang sơn đã thuộc về quân Thổ.
1546: Quân Thổ chia nước Hung thành mười lăm đạo. Người Hung chỉ còn lại vùng Thượng địa[1] và một vài tỉnh sát nách nước Áo.
1547: Không phải chỉ có quân Thổ mà cả quân Áo cũng lột da róc thịt người Hung.
1548: Hai dòng đạo của Luthe và Canvin được truyền bá trong cả nước. Không chỉ quân Thổ và quân Áo mới là cừu địch, mà người Hung với người Hung cũng cừu địch lẫn nhau.
1549: Dưới chiêu bài thuế, quân Thổ vơ vét tất cả mọi thứ, kể cả trẻ con.
1550: Hai đạo quân Ôla và Thổ lên đường chinh phạt công quốc Erơđêi. Chỉ trong vòng mấy ngày, nhiếp chính Giơrgiơ động viên được năm chục nghìn chiến sĩ. Họ đánh tan tác đạo quân Ôla. Quân Thổ cúp đuôi tháo chạy.
1551: Hoàng hậu Idabenla rời khỏi Erơiđê. Nhiếp chính Giơrgiơ bị bọn thích khách ám sát.
Và năm 1552 tiếp đến.
1Mận vùng Sôpơrôn[2] đã xanh sẫm và hướng dương đã nở, khi một buổi chiều hoe nắng và thoảng gió, phu nhân Êvo ra đứng ngoài hiên một ngôi nhà trong thành phố. Nàng chọn trang phục trong số quần áo của chồng nàng cho một chàng thanh niên nào đó sửa soạn đi ra nước ngoài.
Từ khi chúng ta chia tay với nàng đến nay, nàng đã đẫy ra, đã trở thành người thiếu phụ. Làn da trắng mịn trên khuôn mặt nàng vẫn còn lưu vẻ con gái, nhưng cái ánh mắt tinh nghịch xưa kia đã không còn cười trong đôi mắt bồ câu dịu dàng. Gương mặt nàng giờ đây đầy vẻ đôn hậu và thông minh một cách điềm tĩnh.
Đây, có hai cái áo đây, - nàng bảo người học sinh và trải ra bàn một cái áo đã hơi cũ bằng lụa Đamát [3] màu anh đào cùng một cái áo bằng vải lanh để mặc thường ngày.
- Cái áo lụa Đamát này đối với cậu còn hơi rộng đấy. Nhưng có thể vài tháng nữa cậu sẽ lớn ra là vừa.
- Xin cảm ơn, rất cảm ơn phu nhân tôn kính. – Người học sinh nói với một vẻ hơi thẹn thò và đỏ mặt lên vì vui thích.
- Tôi còn sửa cho cậu một vài chỗ. Nhưng dù sao từ giờ đến tối cậu vẫn còn nghỉ cơ mà. – Phu nhân nói và cầm cái áo lanh lên – Cái này vừa vặn đây. Chồng tôi đã mặc cái áo này lúc anh ấy đến Buđo. Hồi quân Thổ cướp thành Buđo và chúng tôi dọn theo hoàng hậu Lipa ấy mà.
- Xin cảm ơn phu nhân – người học sinh mừng rỡ nói – Tôi sẽ mặc nó để đi đường. Nó sẽ chẳng bắt bụi đâu.
Người thiếu phụ thò tay lục tất cả các túi. Cái nào cũng rỗng tuếch. Tuy vậy trong làn lót áo nàng vẫn cảm thấy có cái gì cồm cộm. Cái túi bị thủng. Êvo đưa ngón tay vào và tìm thấy trong làn áo lót một tờ giấy mỏng gập lại thành nhiều lớp.
Nàng nhìn rồi mở ra. Thì ra là bản vẽ của một hình năm cạnh, trên đó chằng chịt những đường nét và những dấu chấm.
- Cậu Mikơlôt ơi, cái gì thế này nhỉ? Một con rùa gì đây phải không?
Người học sinh cầm lấy hình vẽ. Lập tức cậu quay ngược lại, chăm chú nhìn rất lâu.
- Không phải rùa đâu. – cậu nói – mặc dù nó có hình thì giống thế.
Ngay lúc đó một chú bé mắt đen, sáu tuổi từ trong phòng chạy vụt ra. Bên sườn chú đeo lủng lẳng một thanh kiếm nhỏ rất đẹp, cán mạ vàng. Lớp nhung bọc ngoài bao kiếm đã sờn.
- Mẹ ơi, - chú nói – mẹ đã hứa mua cả kèn cơ mà, kèn mạ vàng ấy.
- Iontsike của mẹ, bây giờ đừng quấy mẹ. Chạy ra vườn mà chơi đi con, ra chỗ Luxo ấy.
- Rồi mẹ mua kèn vàng chứ mẹ?
- Nhất định rồi.
Chú bé kẹp thanh gươm vào giữa hai chân, chạy nhong nhong xuống sân ra vườn.
- Rõ ràng đây là bản đồ của một tòa thành, mà lại là của thành Eghe – người học sinh nói, mắt vẫn không ngừng chăm chú nhìn tờ giấy.
- Của thành Eghe à?
- Đúng thế. Phu nhân xem đây: con rùa này có một nét đôi bao xung quanh. Nét đôi này là tường thành. Đầu rùa và bốn chân của nó là năm pháo đài nhô ra. Những hình tứ giác vẽ bằng nét mảnh bên trong nó là những ngôi nhà.
- Thế còn cái hình lưỡi liềm ở cạnh con rùa ấy đây là cái gì?
- Thành ngoài đấy. Trong thành ngoài không có nhà cửa cũng như ở các thành ngoài khác, chỉ có hai pháo đài và trên đó là hai vọng lầu.
- Còn cái ngoặc màu đen nối từ giữa cái liềm tới con rùa này?
- Đây là cổng tối.
- Tại sao lại tối?
- Vì nó ở ngầm dưới đất.
- Và cái này, bên cạnh cổng đây?
- Chuồng ngựa đấy ạ.
- Chuồng ngựa mà to như thế à?
- Ở đây cần phải có chuồng to, phu nhân tôn kính ạ. Vả lại chỗ đó chắc hẳn còn có cả nhà xe và nhà ở của mã phu nữa. Người giữ chìa khóa cổng thành cũng ở đây.
- Thế còn cái chấm chấm bên cạnh cổng này?
- Cái này trước kia vốn là nhà thờ. Đó là cái nhà thờ mà Thánh vương Isotơvan[4] đã xây dựng. Một nửa nhà thờ đã bị phá cách đây chưa lâu lắm: vừa chẵn mười năm nay.
- Tiếc quá nhỉ.
- Quả thực là đáng tiếc. Nhưng hỏi vì sao người ta đào cái hào mới đi qua giữa nhà thờ và xây nên cái thành ngoài này. Cần thiết phải làm như vậy vì đó là mặt yếu của tòa thành.
- Làm sao cậu biết được điều đó hở cậu Mikơlôt?
- Sao tôi lại chả biết. Tôi đã từng ăn học ở đó hai năm. Hồi đó tất cả mọi người đều nói về chuyện này. Hồi đó cũng là lúc người ta đang xây cổng tối.
- Nhưng ở mặt tây, bên cạnh con suối cũng có một cái cổng nữa đây này.
- Cả mặt nam đây cũng có một cổng nữa. Thành này có ba cổng cả thảy.
- Thế còn những đường gạch đỏ này?
Người học sinh đọc những dòng ghi chú rồi lắc đầu:
- Đó là những con đường ngầm.
- Nhiều đường ngầm đến thế cơ à?
- Vâng, nhiều, nhưng không phải tất cả đều còn có thể đi lại được đâu.
- Và những hình tứ giác giống như những căn phòng này?
- Đó là những phòng xây ngầm dưới mặt đất. Cái này là bể nước. Còn cái này là nghĩa địa.
- Nghĩa địa à? Giữa những đường ngầm à?
- Phải thế mới đúng, vì đây, chữ ghi trên con đường ngầm này đây: đường xác.
Người thiếu phụ rùng mình, nàng bảo:
- Đem chôn người chết vào đây thì thật là quái gở.
- Chỉ cái hồi bị nạn dịch tả thôi, - Người học sinh trả lời – Bây giờ tôi đã nhớ ra tôi có được nghe nói về việc đó.
- Ồ, thế mà cậu chả đến sớm hơn ít nhất là hai tuần, cậu Mikơlôt ạ.
- Sao vậy, thưa phu nhân.
- Nếu cậu đến sớm hơn, tôi đã tìm áo cho cậu sớm hơn. Nếu tôi tìm áo sớm hơn, tôi đã tìm thấy bản đổ này sớm hơn. Chồng tôi vừa đi đến chính chỗ đó: thành Eghe.
- Tôi nghe nói quân Thổ đang nhằm vào chỗ ấy.
- Thì chính vì vậy mà chồng tôi đến Eghe. Giá mà cha tôi đừng có đi theo anh ấy thì tốt hơn. Cậu thử nghĩ mà xem: Một ông lão bảy mươi tuổi, tay, chân chắp bằng gỗ. Thế mà nhất định đi theo chồng tôi đấy!
- Để chiến đấu à?
- Cả vì như thế nữa đấy. Nhưng cũng còn vì một ông bạn cố tri: giáo sĩ Balin. Một năm trước đây hai người bất hòa vì một câu chuyện gì đó. Lúc đó mẹ tôi hãy cùng sống cơ. Thế rồi giáo sĩ dọn đến Eghe ở Đôbô. Vì thế nên lần này cha tôi đi để giảng hòa ở giáo sĩ. Hai người vốn rất yêu thương nhau.
Trong khi kể câu chuyện đó, người thiếu phụ mở một cái hòm sơn xanh vẽ hoa và lấy ra một quyển sách nhỏ, quyển kinh thánh của nàng, cặp bản đồ của tòa thành vào đó. Rồi nàng nhìn ra vườn, nhìn đứa con trai đang chạy nhảy lăng xăng bên cạnh người đầy tớ tưới hoa.
- Thế nào rồi cũng có người ở Eghe đến đây. – nàng nói một cách đăm chiêu – Petơ Galpa có ông anh ở đây. Ông ta là người của nhà vua. Ông ta đã gửi vào thành một xe thuốc súng với cả đạn, chả là vì em ông ta ở đó. Nếu có sứ giả mang tin đến chỗ ông ta, tôi sẽ gửi cái bản đồ này cho chồng tôi.
Nàng cầm lấy kim chỉ và đặt cái áo lụa Đamát vào lòng.
Họ đang tiếp tục câu chuyện thì ngoài cổng có một người mặc áo choàng màu xanh sẫm bước vào, và khi khép cánh cổng lại, người ấy cất tiếng chào một người nào đó.
- Thôi chả dám làm phiền bác nữa. – người ấy nói – từ đây tôi đã có thể tìm được đến nơi.
Êvo đứng lên. Nàng nghe giọng nói rất lạ và cả con người ấy nữa cũng vậy.
Muốn lên hiên phải bước lên ba bậc tam cấp. Đến chỗ đó người khách lạ ngửng đầu lên. Đó là một người lực lưỡng, nước da ngăm đen, chột mắt. Bộ ria để theo kiểu kỵ binh. Tay người ấy cầm một cây gậy giống như gậy của các ông xã trưởng thường dùng.
- Chào bà! – Người ấy chào chủ nhân – Người ta bảo ngài trung úy Đônemixo Gergey tôn kính ở đây có phải không ạ?
- Đúng đấy. – người thiếu phụ trả lời – nhưng anh ấy không có ở nhà.
- Thế ra ngài ấy đã đi rồi ư?
- Đi rồi, đi Eghe.
- Ôi dào ơi, rõ tiếc quá đi mất! – Người lạ lắc đầu – Đáng lẽ tôi có chuyện phải nói với ngài… Nhưng có lẽ bà vợ của ngài cũng…
- Tôi là vợ anh ấy đây. Mời ông vào nhà đã.
Người ấy bước lên tam cấp, ngả mũ ra và nghiêng mình thi lễ rất cung kính.
- Tên tôi là Bôlôc Tomat, quý tộc ở Rêpholusi.
Bằng vào cách nghiêng mình của người ấy cũng có thể thấy được rằng ông ta không phải kẻ quê mùa.
Với vẻ mặt hiền lành, người thiếu phụ kéo từ dưới bàn ra một cái ghế và giữa chừng, nàng giới thiệu người học sinh:
- Đây là học sinh Rêdơ Mikơlôt. Cậu ấy sửa soạn đi học ở nước ngoài đấy. Anh cậu ấy phục vụ trong quân đội nhà vua và quen biết chồng tôi, vì thế cậu ấy đi qua đây bằng xe trạm và rẽ vào đây nghỉ lại.
- Cậu Trời phù hộ cho câu, cậu em ạ. – Người chột nói mà không hề chìa tay cho người học sinh.
Người ấy ngồi xuống và lại "ôi dào ơi" rồi vừa vỗ tay lên đầu gối vừa nói:
- Tôi đi đến đây đi phiên chợ ngựa, và lẽ ra tôi có nhiều việc với ngài trung úy lắm. Trong số những việc đó, đáng lẽ tôi mang cả tiền đến cho ông nhà nữa.
- Tiền ư? – Êvo ngạc nhiên hỏi.
- Người ta bảo ông nhà đang cần tiền, chả là ngài đi Eghe nên có bán một ít đồ vàng, đồ bạc.
- Chúng tôi chả có bao nhiêu.
- Tôi rất thích các loại nhẫn. – Người ấy nói và đưa tay lên. Trên tay trái của y lấp lánh mười cái nhẫn rất đẹp. Có thể cả bàn tay phải cũng đeo nhẫn nhưng nó bị cái găng tay màu tro che kín mất.
Người ấy nói tiếp:
- Và tôi nghe nói ông nhà có một cái nhẫn tuyệt đẹp thì phải.
- Có đây. – Người thiếu phụ mỉm cười đáp.
- Một cái nhẫn có nạm hình mặt trăng.
- Và có sao.
- Mặt trăng bằng hoàng ngọc.
- Mấy ngôi sao bằng kim cương. Nhưng làm sao mà ông anh biết được điều đó?
- Tôi có thể xem cái nhẫn ấy được không nhỉ? – Người ấy hỏi. Và giọng của người ấy run lên.
- Không thể được. – Người thiếu phụ đáp – Chồng tôi lúc nào cũng bỏ trong túi. Nó là một cái nhẫn khước thế nào ấy. Trước kia nó vốn là của người Thổ.
Chú bé Iontsi đã lại lạch cạch ở ngoài sân. Phốc một cái chú nhảy lên bậc tam cấp và khi trông thấy người khách lạ, chú giương mắt nhìn với cái vẻ ngạc nhiên thường quen của con trẻ.
- Chào bác đi con. – Người thiếu phụ nói.
- Con trai ngài trung úy đấy ư? – Người khách lạ hỏi – Nhưng tôi hỏi cái gì thế kia nhỉ, thật cứ giống như đúc?
Người ấy kéo chú bé về phía mình và hôn chú.
Một đợt sóng cảm giác khó chịu tràn qua lòng bà mẹ. Ôi trái tim người mẹ cảm biết được ai là người thế nào khi người đó giơ tay chạm vào con cái họ!
Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua, nàng đã quên ngay trong nháy mắt.
- Mẹ chưa mua kèn ư? – Chú bé hỏi.
- Tôi đảo qua chợ một cái đây. – Người học sinh nói – Tôi dẫn cháu Iontsi đến chỗ người đánh xe của tôi và cho chú ta xem con ngựa non.
- Vâng. – người thiếu phụ đáp – có một đồng đena đây. Nhờ cậu mua kèn cho cháu. Nhưng cậu nhớ chú ý đến nó nhé, Mikơlôt. Con nữa, Iontsi bé bỏng của mẹ ạ… Con biết bố đã dặn gì chứ!
Rồi nàng quay sang ông Tomat, buồn rầu mỉm cười:
- Anh ấy đã dặn đi dặn lại chúng tôi phải chú ý cẩn thận đến thằng bé.
Chú bé vui thích nhảy như choi choi và đi theo người học sinh.
Bà mẹ còn gọi với theo họ:
- Cậu nhớ đi gần nhà thờ ấy nhé, Mikơlôt. Chúng tôi cũng ra ngay bây giờ đấy.
- Trước đó nàng quả đã sửa soạn để đi ra chợ. Nàng muốn mua một vài thứ lặt vặt ở hàng của mấy thương nhân thành Viên.
Ông Bơlôc Tomat lơ đễnh xoay xoay cái mũ rồi ngồi thừ người.
- Bác có biết tin gì về Xônnốc[5] không? – Người thiếu phụ đưa đôi mắt lo âu hỏi – Quân Thổ không hạ nổi cái thành ấy đâu nhỉ?
- Tôi cũng nghĩ vậy. - Bơlôc Tomat lơ đễnh trả lời.
- Khi từ biệt tôi, chồng tôi cũng bảo rằng trong năm nay quân Thổ khó hề mà đến được thành Eghe. Năm ngoái người ta đã củng cố thành Xônnốc rất nhiều. Nó còn kiên cố hơn cả Eghe.
- Kiên cố hơn nhiều.
- Và nếu nó có thất thủ đi chăng nữa, toàn thể vùng Thượng địa sẽ bảo vệ Eghe.
Bơlôc Tomat nhếch mép cười, và ngước lên hỏi:
- Ở nhà đây có bức chân dung nào của ngài trung úy không ạ?
- Có đấy. Một họa sĩ Đức vừa vẽ cho năm ngoái.
- Phu nhân tôn kính có thể cho tôi xem một chút được không ạ? Tôi đã được nghe đồn nhiều chuyện tốt đẹp về ông nhà, tôi ao ước được biết ngài.
- Thế bác chưa quen biết nhà tôi à? – Êvo ngạc nhiên hỏi.
- Đã có một lần, nhưng lâu lắm rồi tôi chưa gặp lại ông nhà.
Người thiếu phụ đưa khách vào phòng. Căn phòng tối và đầy mùi oải hương, nhưng sau khi người thiếu phụ mở các của sổ thì có thể thấy đó là căn phòng khách. Sàn nhà trải những tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ, một cái đi văng lót da gấu đặt cạnh tường. Trước cửa sổ là cái bàn viết và một tủ sách với rất nhiều, có lẽ đến hàng trăm quyển sách bìa da. Trên tường treo nhiều bức chân dung. Chân dung của ông lão Xexey vẽ từ hồi ông còn đội mũ sắt, da rám màu nắng gió. Bà Xexey nhìn hơi nghiêng, đầu thắt đầy nơ thêu kim tuyến. Rồi đến một bức tranh vẽ Jêxu đã ngả vàng, lồng trong khung gỗ hồ đào: gương mặt tinh nghịch của một thiếu nữ giống phu nhân Bônemixo bây giờ và bên cạnh là chân dung chồng nàng, một người trai trẻ, khuôn mặt gầy và đen, gần đen như dân Xigan. Vẻ thông minh, vui tươi toát ra từ đôi mắt nhìn thẳng. Ria mép vẽ xoăn tít, bộ râu mới để viền quanh cằm, tóc xõa ngang vai.
Ông Tomat chăm chú nhìn bức chân dung và gật gù:
- Con người khôi ngô thật. Không hay ngài độ bao nhiêu tuổi?
- Hai mươi sáu tuổi rồi.
- Thế mà ông ấy đã có con trai lớn ngần ấy.
- Chúng tôi lấy nhau đã tám năm rồi. – Người vợ trẻ mỉm cười trả lời – Khi cưới nhau chúng tôi vẫn còn trẻ con lắm.
Ông Tomat lại nhìn vào bức tranh.
- Ngài dũng sĩ cũng đã có lần đến Côngxtăngtinôp có phải không ạ?
- Đúng đấy. Tôi cũng đi cùng anh ấy.
- Tôi có một bạn quen người Thổ, ông ta nói chuyện về ông nhà. Bêi Monđô, một người hộ Pháp, ngài dũng sĩ nhà ta, đã có lần đối xử rất ân cần với ông ấy.
- Bêi Monđo? Tôi không bao giờ nghe anh ấy nói đến cái tên này.
- Tất nhiên. – ông Tomat gật gù nói – trước kia ông ấy tên là Hoivan.
Êvo mỉm cười:
- Hoivan? Thế thì tất nhiên là chúng tôi có biết. Tôi cũng đã từng thấy ông ta.
Tomat lại ngước nhìn bức tranh một lần nữa và im lặng nhìn rất lâu, với đôi lông mày nhíu lại, dường như không bao giờ còn muốn quên khuôn mặt đó nữa. Ông ta gật gật đầu với bức tranh như muốn gửi lời chào rồi cúi đầu chào nữ chủ nhân và đi giật lùi ra cửa.
Người thiếu phụ lại thấy cái cảm giác khó chịu ban nãy truyền khắp cơ thể, y như khi ông Tomat chạm vào người con trai nàng. Tuy vậy nàng vẫn tiễn người khách ra đến tận tam cấp.
Người ấy lúc nào cũng đi bên phía tay phải nàng, đó là lề thói kẻ quê. Người ấy nghiêng mình chào, đó là bộ điệu quý tộc. Lại đi giật lùi qua cửa, cái đó là tập quán Thổ Nhĩ Kỳ.
Người thiếu phụ thấy bồn chồn không yên, nhưng lập tức nàng lại tự trách mình:
- Ta không nên nghĩ xấu về một người bất hạnh. – Nàng nói và ngồi xuống để tiếp tục chữa cái áo – Ông ấy chột mắt cho nên ta nhìn thấy khó chịu mà thôi.
Để xua đuổi tâm trạng bồn chồn ra khỏi ý nghĩ, nàng cất tiếng hát. Nàng hát theo bài hát của người đầy tớ ngoài vườn và những ngón tay nhanh nhẹn của nàng thoăn thoắt đơm lại mấy cái cúc đã lỏng trên chiếc áo lụa Đamat màu anh đào. Cái áo có một chỗ đã sờn thủng. Nàng bèn tìm chỉ lụa đỏ để mạng lại.
Nhưng hình ảnh người khách cứ lởn vởn không chịu ra khỏi đầu nàng.
- Người này là ai nhỉ? – Nàng buông cái áo lên đùi và tự hỏi.
Cái nhẫn, việc xem chân dung, việc nhắc đến Hoivan, cái cách đi giật lùi kiểu Thổ.
- Người này là ai?
Nàng ngẩng khuôn mặt đã biến sắc nhìn chăm chăm vào cánh cổng đã cài then và căng thẳng tất cả mọi sợi dây thần kinh nào để mong nhận được câu trả lời. Nàng đã bắt đầu cảm thấy cái mặt, cả giọng nói đều có vẻ quen quen, nhưng không biết là quen ở đâu. Cái nhẫn quay cuồng trong óc nàng. Gergey có nói là mang đi, nhưng anh ấy cất trong cái áo gilê mặc thường ngày. Anh ấy có đem cái gilê ấy đi không nhỉ?
Nàng vội chạy đến tủ áo và lục tung tất cả quần áo ra. Cái gilê vẫn còn ở đây. Nàng sờ ngay vào túi: có cái gì cưng cứng ở bên trong. Cái nhẫn! Cái nhẫn! Anh ấy cũng chẳng gói vào giấy nữa.
Và lúc đó, như một tia chớp vụt qua đám mây, một cái tên lóe lên trong óc nàng. Nàng đập tay lên trán:
- Yumusac!
Người đầy tớ lúc đó từ ngoài vườn đi vào. Cô ta thấy bà chủ ngã ngửa người giữa đống quần áo vất lộn xộn trước tủ áo, mặt tái nhợt, mắt quần lên.
- Bà ơi!
Bà chủ không trả lời.
Người đầy tớ nhìn quanh, rồi chạy cả sang phòng bên cạnh, cô ta cảm thấy có chuyện ăn cướp vừa xảy ra.
Cuối cùng cô đầy tớ mới nghĩ đến chuyện vớ lấy chai dấm đưa cho chủ ngửi và xoa bóp cho chủ.
- Chồng ta đang gặp tai biến. – Đó là lời nói đầu tiên của Êvo – Thằng bé đâu rồi? Đúng rồi, ta đã cho phép nó đi chơi. Mau đưa cái áo khoác đây cho ta. Luxo! Ta đi tìm Iontsi đi!
- Nhưng bà đang ốm như thế này, thưa bà…
- Ta không ốm. – Êvô đáp, mặc dù người nàng tái nhợt như xác chết.
Rồi cứ mặc nguyên như thế, nàng đứng dậy và vội vã ra cổng. Cảm giác bị tai biến đe dọa đã khiến gân cốt nàng cứng cáp. Nàng vừa đi vừa chạy, thẳng đến nhà thờ.
Phố xá nhộn nhịp người kẻ chợ đi lại. Xe cộ, bơ sữa, những con lợn ủn ỉn ở đâu đây và giữa đám súc vật là người các vùng quê chở nặng những chậu, những thùng. Cái ồn ào của chợ phiên, bụi, mùi hành…
Người đầy tớ đuổi kịp nàng ở trước nhà thờ và khoác áo lên vai chủ.
Bỗng ngươi học sinh cũng hiện ra từ trong đám đông. Anh ta vừa chạy vừa chen lấn mọi người đến chỗ nàng và kêu lên:
- Xônnôc đã bị quân dị giáo chiếm mất rồi! Người ta đã thông báo trước nhà thờ. Làm sao tôi còn có thể ra đi trong lúc này được nữa…
- Con tôi? – Êvo quát hỏi – Cậu bỏ nó ở đâu?
- Ông Tomat dẫn nó vào trong nhà thờ. Ông ấy bảo tôi về báo cho phu nhân biết trong khi ông ấy cầu nguyện. Ôi, Chúa tôi, Chúa tôi! Đất nước thế là mất hết! Nếu Xônnôc cũng đã về tay quân Thổ thì Eghe không thể nào đứng vững được.
- Thằng bé… thằng bé! – Êvo hổn hển kêu lên và lao lên bậc thềm nhà thờ, chạy xộc vào cửa chính qua giữa đám người đông đúc.
- Con tôi! Con tôi! – Nàng gào lên dù đã đứt cả hơi.
Trong nhà thờ mọi người đang đọc vang bài kinh cầu tế độ, những nông dân gốc người Đức ở các làng lân cận lanh lảnh hát lên bài kinh bài tiếng Đức:
Christus, hóre uns! Christus, hóre uns! Herr erbarme Dich unser![6]
Người thiếu phụ vừa kêu khóc vừa băng qua giữa bọn họ như một người điên:
- Iontsi! Iontsi con ơi!
Nhưng chú bé Iontsi không đáp lại từ dãy ghế nào hết.
2Ngày mồng năm tháng Chín, Gergey chào vừng dương mới mọc trước thành Sirôki. Mặt trời chiếu thẳng vào mắt chàng và mắt hai trăm rưỡi lính bộ của chàng. Và thực ra cũng không phải chàng chào mặt trời mà vì thấy một lữ đoàn khác đang tiến ngược lại nên chàng đưa tay lên vành mũ che mắt để nhìn cho rõ.
Chỉ một mình chàng cưỡi ngựa trước đoàn quân, vì vậy chàng trông thấy trước nhất cái đội quân mang gươm, đao, hàng ngũ lộn xộn kia.
Cái quái gì thế này nhỉ? – Chàng lầm bầm một mình – Thổ không phải Thổ; còn Hung nếu là Hung thì không thể lại từ phía Eghe đi đến đây được.
Một ý nghĩ run rẩy xuyên qua tim chàng: hay là Đôbô đã bỏ Eghe.
Bởi vì than ôi, cái ông vua Phenđinan[7] ấy lúc nào cũng chỉ tiếp viện bằng mồm. Vì thế mà năm nay Lipa, Temétva đã mất. Còn Xônnôc nữa, ai biết được nó có thể đứng vững nổi hay không? Đôbô là một người thông minh, giỏi tính toán như thế, chắc chắn sẽ mau lẹ nhân hai với hai ra bốn mà biết được rằng một người Hung không thể nào đương nổi một trăm tên Thổ.
Dọc đường đến đây chàng chẳng thấy gì khác ngoài những dòng, thầy tu, giáo sĩ ngất ngểu trên xe. Tất cả đều từ phía Eghe đến! Và người nào cũng chất đầy quanh mình nào bao tải, nào những hòm xiểng to. Lúc đầu chàng còn chào hỏi họ, nhưng về sau chàng đã chán ngấy họ và chẳng thèm tránh đường cho họ nữa.
Vì thế, chàng giật thót mình trong một thoáng, sợ Đôbô đã bỏ thành Eghe. Nhưng chỉ trong một thoáng thôi. Trong nháy mắt chàng đã vội xua đuổi ý nghĩ đó. Chú ấy không phải hạng người như thế! Trong đám người đang tiến lại kia có thể có bất cứ ai, nhưng quyết không có Đôbô. Nếu đó là quân sĩ của Đôbô chẳng nữa thì cũng không có Đôbô đi cùng. Chú ấy sẽ một mình ở lại đó và thà chết một mình, nhưng có một điều lịch sử sẽ không thể viết về chú ấy, là chú ấy đã rời bỏ thành trì được giao phó.
Đoàn quân cuốc bộ ngược chiều với chàng không có cờ, hoặc nếu có thì cũng đã cuốn lại để trên một cái xe nào đó. Bọn họ có khoảng hai trăm người và vội vàng rảo bước thành từng tốp nhỏ.
Gergey, vẫy gọi Xexey, ông lão cưỡi ngựa đi cuối đoàn quân đang và đang trò chuyện với một người lính già. Ông lão lúc nào cũng nói chuyện. Thấy con rể vẫy; lão thúc ngựa chạy lên, Gerget bảo bố:
- Con đi lên trước một tí.
Chàng thúc cựa giầy vào hông ngựa và tiến đến trước đoàn quân lạ. Chàng đưa mắt tìm viên chỉ huy, nhưng giữa bọn họ không có ai đội mũ cắm lông cả. Chàng bèn dừng lại trước mặt họ và giơ gươm lên ra hiệu cho họ dừng lại.
- Các người là lính ở Koso đấy à?
Không một ai trả lời. Họ bối rối nhìn chàng. Một vài người còn đỏ mặt lên.
- Các người ở đâu đến?
Cũng chẳng ai đáp lại.
- Thế nào! – Gergey cáu tiết quát lên – Chẳng lẽ chúng mày là quân lính của bọn giáo sĩ cả hay sao đây?
Cuối cùng một người vạm vỡ, cằm rộng ngửng đầu lên và cất tiếng nói:
- Thưa ngài trung úy, vâng, chúng tôi là dân Koso và chúng tôi đến đây từ chỗ mà ngài trung úy tôn kính đang định đến đấy ạ.
- Từ Eghe?
- Vâng ạ. Nhưng giá ngài trung úy đừng nhọc xác đến đó nữa thì hơn. Không đáng đâu ạ. Rồi ngài cũng đến phải quay trở lại thôi.
- Tại sao thế? Có chuyện gì thế?
- Chuyện gì ấy ạ? Thì chỉ có chuyện là con dê nào điên mới nhảy xổ vào mũi dao nhọn.
- Dao gì?
- Ngài đã biết thành Temêtva kết cục thế nào chưa ạ?
- Ta biết rồi.
- Ngài đã biết quân Thổ đóng đến hai mươi vạn tên chưa ạ?
- Cái đó ta cũng biết rồi.
- Thế ngài có biết là ngài Đôbô chưa có được đến một nghìn lính không ạ?
- Còn có thể thêm được ngần ấy nữa.
- Thế ngài đã biết thành Xônnôc từ hôm kia đã thuộc về quân Thổ chưa ạ?
Gergey tái mặt.
- Bây giờ thì chuyện đó ta cũng đã biết. Ta còn biết thêm rằng giá các người mà ở đó thì nó còn thất thủ sớm hơn nữa cơ. Vậy các ngươi cứ cút về nhà đi. Và để các ngươi khỏi ra về tay không thì cho các ngươi đây, cái này phần tất cả các ngươi, đồ chuột chũi!
Chàng giáng cho người lính cằm rộng một cái tát mạnh đến nỗi hắn ngã dúi vào một đứa khác. Trong nháy mắt chàng đã tuốt kiếm ra và chắc chắn chàng sẽ chém xả vào giữa bọn họ nếu họ không nhảy tránh xuống vệ đường.
- Ta gửi lời chào Serêđi Giơrgiơ! – Chàng quát theo họ - Ta chúc cho ông ta có được những tên lính khá hơn các ngươi. Đồ chuột chũi!
Và chàng khạc nhổ về phía họ.
Bọn lính Koso càu nhàu tản ra cánh đồng. Gergey chẳng thèm nhìn về phía họ nữa. Chàng lại lên đường, và con ngựa của chàng, qua sức ép của đôi cựa giày, nó cảm biết chủ nó đang run rẩy trong cơn giận dữ.
Còn may mà chàng gặp một đoàn xigan ở dọc đường. Chẳng hiểu có phải bọn lính Koso đã nhào một cái xe của họ xuống cái rãnh bên đường hay tự nó lộn tùng phèo xuống đó, chỉ biết đám xigan đang hì hà hì hục khiêng nó lên.
Gergey ngoái nhìn phía sau xem đoàn quân của mình tụt lại có xa không, rồi để chờ họ, chàng dừng ngựa trước đoàn người xigan. Chàng nhìn họ để cho quên nỗi tức giận trong lòng.
- Ơ này. – Chàng đột nhiên kêu lên – Anh bạn Sakơđi!
Nghe tiếng gọi hiền từ, một gã xigan tóc rối bù nhoẻn cười hớn hở và bỏ mũ ra. Gã hơi cúi xuống mà tiến lại gần, giữa chừng cặp mắt láu lỉnh của gã không ngừng dò xét mặt Gergey.
- Thế anh không nhận ra ta ư?
- Sao lại không ạ, thưa đại nhân, con xin hôn tay, hôn chân ngài. Lập tức con nhận ra ngài ngay ạ. Chỉ có cái là con không nhớ được tên ngài là gì?
- A, rồi anh sẽ nhớ ra. Anh làm gì ở đây thế? Ta thấy anh tả tơi như một con bù nhìn giữ dưa ấy.
Gã xigan quả rách rưới quá. Trên người gã chỉ còn có cái áo trong với một cái quần da đã vá chằng chịt những mụn da hay có lẽ là một cái quần da và đầy những mảnh da thì đúng hơn. Ống chân gã hở cả ra ngoài. Dưới chân gã chẳng có giầy dép gì hết.
- Thế anh đã có ngựa chưa?
- Dạ, làm thế nào mà có được ạ, con xin hôn ống giầy của ngài, làm sao mà có được ạ. Sẽ không bao giờ có nữa ạ!
- Hãy theo ta đến Eghe, anh bạn ạ. Anh sẽ được phát cả ngựa nữa, nếu anh chịu phục vụ ở đây một tháng. Và ngoài ra ta sẽ cho anh một cái quần đỏ, đẹp đến nỗi tất cả mọi gã xigan đều sẽ phát ốm lên vì ghen tị.
Gã xigan hớn ha hớn hở, toét miệng cười. Gã nhìn vào bộ quần áo rách mướp của mình rồi lại ngước nhìn lên khuôn mặt con người vũ dũng và đưa tay gãi đầu.
- Đến Eghe à? Ở đấy sẽ nóng[8] lắm, thưa ngài.
- Anh đừng có sợ điều đó. Anh sẽ được làm việc dưới một pháo đài mát mẻ nhất. Ta sẽ bảo người ta trả công cho anh. Anh sẽ là người sửa chữa quân khí của ta.
Và chàng nói tiếp bằng tiếng Thổ.
- Allab isni raset geliaziin! (Cầu Thượng đế phù hộ cho công việc của anh)
Gã xigan nhảy cẫng lên.
- Bônemmixo Gergey, ngài trung úy vũ dũng của con! Trời ơi, con xin hôn cả chân ngựa của ngài nữa! Ôi, chả trách hồi đêm con mơ thấy chim sáo vàng.
- Nào, anh đã nhận ra ta rồi chứ.
- Rồi ạ! Rồi ạ! Thế nào con chả nhận ra cơ chứ, con xin hôn bàn chân mềm của ngài, con đã phải nhận ra ngay tức khắc, chỉ có điều con không biết là ai.
- Vậy anh đi với ta chứ?
- Đáng lẽ thì con đi đấy, trời ạ, chắc chắn là con đi đấy…
- Vậy ta đi!
- Chỉ giá mà cái bọn Thổ quỷ quái ấy nó đừng ở đó!
Và gã gãi đầu bằng cả hai tay.
- Nó đã có ở đấy đâu.
- Nhưng cái bọn cẩu trệ ấy sẽ đến đấy! Nơi nào mà lính tráng đi đi về về thế này thì thời tiết chẳng lành đâu ạ.
- Ta cũng sẽ ở đây, Sakơđi ạ. Chừng nào còn trông thấy ta thì anh đừng sợ. Vả lại, nếu ta có lâm vào thế bí, trong thành vẫn còn có đường ngầm dẫn đến tận Misơkônxơ[9]
Điều này Gergey chỉ nói bừa thế thôi, vì kể ra đường ngầm thì thành nào chả có. Nhưng về thành Eghe thì chàng chả biết gì ngoài một điều là có Đôbô làm đại úy trấn thủ ở đó và Mectsei là đại úy phó trấn, hai con người mà vì họ chàng sẵn sàng đến tận đầu non cuối biển.
Chàng hiểu việc nhắc đến con đường địa đạo tác động đến gã xigan, hay con ngựa, hay cái quần đỏ, hay vì lòng yêu mến Gergey – chỉ biết gã còn gãi đầu một tí tẹo nữa rồi đồng ý:
- Nếu quả thực con sẽ được trả công, lại được cấp cả quân phục, cả giầy ống da vàng có cựa, với lại một con ngựa tốt, thì dù có bị mù một mắt đi nữa cũng chẳng sao, thì con xin ưng thuận.
Lữ đoàn của Gergey lúc đó đã đến nơi, họ vừa cười vừa lắng nghe câu chuyện. Niềm vui càng rôm rả hơn khi Gergey chìa tay ra cho gã xigan và gã đập tay vào đó.
- Được rồi. – Gergey nói và thò tay vào túi. – Đây, đồng đêma này là để đặt cọc. Từ đầu đến Eghe anh có thể cưỡi con ngựa dự bị của ta. Đến đó rồi khi nào có ngựa bị chột, con đầu tiên sẽ là của anh.
Gã xigan vui vẻ nhảy lên mình ngựa và thúc gót chân trần vào sườn nó.
Đoàn xigan reo lên chúc đã gặp may. Gã cũng gọi to trở lại một câu gì đó bằng tiesng xigan rồi đẩy lệch mũ sang một bên và kiêu hãnh phóng ngựa bên cạnh Gergey với bộ ngực phanh trần.
- Ôi, Thượng đế đã phù trì cho công việc của con thịnh đạt quá!
Vài giờ sau, trên đường Bocto, giữa những dãy đồi và lùm cây, những ngọn tháp lợp ngói men xanh của thành Eghe đã lấp lánh trước mắt họ, và trên những đỉnh tháp phấp phới những lá quốc kỳ và những lá cờ hai màu xanh đỏ của thành phố.
Một toàn thành nguy nga! Xung quanh là những đồi nho rực đỏ, rực vàng và những dải rừng. Xa xa phía sau sừng sững một ngọn núi xanh, cao gấp độ sáu lần chiền núi Thành Genlê[10]. Gergey nhấc mũ lên và quay về phía lữ đoàn:
- Hãy trông kia kìa các cậu ơi! Bởi vì giờ đây Thượng đế nhân từ cũng đang tự trời cao trông xuống đó!
Rồi chàng thúc ngựa phi lên phía trước.
Gã xigan ngẫm nghĩ một lúc, không biết có nên ở lại vị trí đó, chỗ đầu đoàn quân, hay nên đi theo ngài trung úy của gã. Gã chợt thấy mình sẽ trở nên một thằng hề nếu lại dẫn đầu hàng quân, vì vậy gã lấy tay phát đen đét vào mông ngựa, hai gót chân thúc lấy thúc để vào bụng ngựa. Con ngựa nhảy lồng lên và tung gã xigan lên cao. Nhưng gã xigan đã lo tậu ngựa trong suốt cả cuộc đời không phải là vô ích, luôn luôn gã khéo léo rơi xuống đúng lưng ngựa.
Bụi nóng cuốn lên thành những đám mây mù mịt trên đường. Một đoàn người chạy loạn đã tung đám bụi đó lên. Phụ nữ, ông già bà cả và cả trẻ con, họ ngồi lên xe hoặc rảo bước bên cạnh những cỗ xe chất đầy đồ đạc và gà, vịt, ngan, ngỗng. Trên một vài con xe còn có cả những chú bê con rống “bê, bê”, trên vài xe khác lại có những con lợn kêu ụt ịt.
Quân Thổ không ăn thịt lợn, nhưng ai biết được bao giờ họ mới trở lại làng quê! Một vài người dắt theo những con bò cái. Một cô bé đi ủng đỏ mang theo cả lồng chim sơn tước bên cạnh xe; một phụ nữ lại cồng cái nồi đất trồng hoa hồng trên lưng; cây hoa hồng đang nở đầy bông. Bao nhiêu là xe, thực là một cuộc tản cư lớn. Chắc chắn một phần trong bọn họ sẽ không bao giờ còn trở lại. Đặc biệt là những người ở trong thung lũng và giờ đây đang vượt qua cổng Xiphơro đi về vùng Phennemét: những bần cố nông và những người vợ góa – họ sẽ ở lại vùng Thượng đại, nơi vó ngựa Thổ chưa từng in dấu. Nhưng đặc biệt, Koso mới là hướng chính của những người dân chạy loạn.
Song Gergey đã không để ý đến họ nữa. Chưa đầy mười lăm phút sau chàng đã cho ngựa tế vào cổng Bốclo, tức là cổng phía tây của thành phố, rồi, thỉnh thoảng mới ngước mắt nhìn lên, chàng phi qua chợ và rẽ lên cổng thành.
Bức tường chỗ đó trắng toát, mới đến mức hầu như còn hăng mùi vôi nữa.
Cái cầu treo đã buông sẵn xuống. Gergey vút vào thành như một cánh chim và phi ngược lên giữa những cây cổ thụ, chàng đưa mắt tìm ngài đại úy.
Đôbô đứng trên quảng trường trong thành, trong bộ quần áo nhung màu tím, lưng đeo gươm, chân dận ủng đỏ, cái mũ nhung cắm lông đại bàng cầm trong tay. Cạnh ông có một võ đồng tóc vàng hoe đang ôm trong cánh tay hai lá cờ: một lá quốc kỳ và một lá màu xanh – đỏ. Ông giáo sĩ già Balin đứng phía bên kia Đôbô, trong bộ áo lễ trắng tinh, cổ quàng khăn lễ, mặc quần đen. Tay ông cầm một cái tượng chịu nạn[11] bằng bạc. Với bộ râu dài đã bạc trắng, trông ông như một nhân vật tiên tri trong kinh Cựu Ước.
Họ vừa làm xong lễ tuyên thệ cho quân sĩ. Đôbô nói với quân sĩ mấy câu gì đó rồi đội mũ lên và quay về phía con tuấn mã đang rồn rập phi đến.
Gergey nhảy xuống ngựa và với cặp mắt long lanh, chàng tuốt kiếm giơ lên chào.
- Báo cáo, thưa ngài đại úy vũ dũng, tôi đã đến nơi.
Đôbô đứng ngẩn ra nhìn. Ông đưa tay xuống vuốt bộ râu xám viền quanh cằm, bộ ria mép dài rung rinh, rồi lại ngẩn ra nhìn.
- Thưa đại úy, ngài không nhận ra có phải không ạ? Đã tám năm nay chúng ta không gặp nhau. Tôi là lính trung thành nhất của ngài: Bônemixo Gergey.
- Gergey hiền tử! – Đôbô kêu lên và dang rộng hai tay – Hãy ngả đầu vào lòng ta, con ơi! Ta đã biết là anh không bỏ ta!
Và ông ôm chầm lấy chàng tráng sĩ mà hôn.
- Thế nhưng anh chỉ đến một mình thôi ư?
Đúng lúc đó con ngựa của Sakơdi nhảy cỡn vào, vừa nhảy vừa tung gã xigan chân đất, rách rưới lên cao đến hàng nửa cánh tay.
Quân sĩ cười vang.
Đôbô cũng mỉm cười:
- Chẳng có lẽ đây lại là đội quân của anh?
- Đâu có. – Gergey vừa cười vừa đáp – Đây chỉ là gã xigan chữa súng của tôi. Tôi đưa anh ta đến đây có lẽ cũng tốt chứ ạ?
- Ở đây mỗi người đều quý như vàng. – Đôbô đáp và rút tay ra khỏi gã xigan để gã khỏi hôn.
Nhưng không thể tránh thoát được gã xigan, gã sụp xuống hôn lên ống giầy của đại úy.
- Các anh đến đây bao nhiêu người tất cả? – Đôbô sốt ruột hỏi.
- Không nhiều đâu ạ. – Gergey xấu hô trả lời – Người ta chỉ giao cho tôi có hai trăm rưỡi bộ binh tất cả.
Mắt Đôbô sáng ngời lên.
- Hai trăm rưỡi ư? Con ơi, giá như tất cả mỗi nơi đều giúp ta được ngần ấy chiến sĩ thì ta sẽ tiếp đón bọn Thổ ngay trên cánh đồng Mokola kia đấy.
- Thế viện binh không đến ư?
Thay câu trả lời, Đôbô khoát tay vào không khí, rồi ông quay sang phía các sĩ quan đứng vây xung quanh giới thiệu Gergey với họ. Từ phía quân đội hoàng gia đã có Zôntoi đến đó, người mà Gergey đã làm quen ở Buđo mười một năm về trước. Bây giờ tóc anh ta cũng vẫn vàng hoe và anh vẫn dong dỏng cao, vẫn vui nhộn như trước, và anh vẫn chưa để râu, nghĩa là vẫn chưa vợ.
Ở đó còn có Petơ Gatpa, một người tầm vóc nhỏ nhắn có đôi tay rất nhanh nhẹn, cũng từ chỗ quân đội hoàng gia đến đây với tước hiệu đại nhân. Đứng cạnh Petơ là một chàng trai trẻ có khuôn mặt dài và đôi mắt xanh, chàng ta cũng xiết tay Gergey một cách nồng nhiệt:
- Tôi là Phuygheđi Gianốt, trung úy của giáo khu.
Gergey nhìn anh ta:
- Trông cậu quen quá, cậu em thân mến ạ!
Anh ta nhún vai, mỉm cười:
- Tôi không nhớ.
- Không phải cậu đã cho tôi một miếng tai bò ở Giolu hay sao?
- Chứ còn gì nữa. Cái lúc mà đáng lẽ đã là đám cưới Phuyriét ấy, ở đằng sau chỗ sân nhà bếp.
- Có thể, bởi vì quả thực ở đó tôi đã phân phát cho các võ đồng đủ mọi thứ.
- Tôi hy vọng rằng ngày nay tôi sẽ có dịp đền đáp lại.
- Thế là thế nào?
- Để trả nợ miếng tai bò ngày ấy, cậu sẽ được tặng một cái tai basa.
Rồi Gergey quay sang hỏi Petơ:
- Còn cậu cớ sao mà tiu nghỉu thế?
- Làm sao tôi không buồn cho được khi hai chục kỵ binh của tôi đã lỉnh mất ở dọc đường. Chà, chúng nó cứ thử gặp phải tôi một lần nữa!...
- Cậu đừng ân hận làm gì. – Đôbô nói và khoát tay – Cửa mở đấy, kẻ nào lo cho cái mạng của hắn thì cứ việc mà đi đi. Ta quả thực không cần đến những loại thằn lằn lên mặt lũy!
Chỉ đến lúc đó Gergey mới trông thấy giáo sĩ Đalin. Đã một năm nay rồi chàng chưa gặp. Chàng ôm hôn ông lão.
- Thế cha đáng kính của con không đi cùng các giáo sĩ khác ư?
- Thì cũng phải có một người nào đó ở đây chứ. – Ông lão ồm ồm nói – Xexey làm gì?
- Thầy con cũng đến đấy! – Gergey đáp, gần như kêu lên – Bọn trẻ thì bỏ trốn đi, còn các ông lão lại mang gươm đến. Rồi các bạn sẽ thấy ông bố già tay gỗ của tôi múa gươm như thế nào!
Từ trong bóng râm của nhà thờ, một người thấp bé, cổ ngắn tịt bước ra. Thanh gươm bản rộng bằng cả bàn tay đập lách cách vào ống giầy đi ủng. Người ấy cùng đến với một ông lão có dáng đi nhanh nhẹn; từ xa đã vẫy và cười với Gergey.
Đó là Mectsei.
Từ khi chia tay với Gergey đến giờ, anh đã để râu và lại càng giống một chú bò tót hơn. Mặt đất dường như rung chuyển dưới bước chân anh.
- Ra anh đã cưới vợ rồi ư? – Gergey hỏi sau khi đã ôm choàng lấy nhau đến lượt thứ ba.
- Chứ gì nữa! – Mectsei đáp – Tớ đã có cả một cô bé Sariko nữa.
- Anh lấy ai đấy?
- Nàng tiên có đôi mắt xanh nhất trời.
- Ai thế?
- Xunhôgơ Exte.
- Muôn năm! Thế còn thanh gươm đầu rắn tuyệt đẹp của anh đâu rồi?
- Vẫn còn, nhưng ngày thường tớ chả làm mòn nó làm gì.
- Bây giờ chị ấy và cháu gái ở đâu.
- Tớ đã gửi họ tới thành Buđetin cho đến khi nào ta chưa đánh chết bọn Thổ.
Anh nhìn sang Đôbô rồi lại tiếp:
- Tớ đã có bảo với ông già là ta đừng gửi vợ con ta đi, nhưng ông ấy lo lắng cho bà Sara của ông ấy như là lo cho một đứa trẻ, thế là chúng tớ gửi họ đi. Chỉ với bọn Thổ chúng ta cũng đã đủ bận rộn rồi.
Tiếng báo cáo của người quản lý cắt đứt câu chuyện của họ. Ông lão mở ra một tờ trình trước mặt Đôbô và đưa ra xa cặp kính rồi đọc:
- Vậy có: cừu 8050; bò đực, bò cái, bò con, tóm lại là bò thịt: 468; lúa mì, lõa mạch và bột tổng cộng 11671 hộc[12], đại mạch và kiều mạch 1540 bó.
Đôbô lắc đầu:
- Sẽ ít đấy, bác Sukan ạ.
- Thưa đại úy, riêng tôi cũng đã nghĩ như vậy.
- Nếu bọn Thổ hãm ta ở đây vào mùa đông, ta sẽ lấy gì cho ngựa ăn?
Ông lão nhún vai:
- Thưa đại úy, thế thì đến phải cho ngựa ăn bánh xipô, cũng như cho quân sĩ vậy thôi ạ.
- Rượu vang có bao nhiêu?
- 2215 thùng.
- Khoản ấy rồi cũng thiếu đấy.
- Nhưng ít nhất còn được rượu cũ. Năm nay chó ăn mất mùa nho rồi. Bia cũng còn một vài thùng bộng.
- Lợn?
- 139 lợn sống. Thịt ướp 215 sườn.
Đáng lẽ Bônemixo còn quan tâm nghe tiếp bản báo cáo đó, nhưng chàng sực nhớ đến lữ đoàn của mình. Chàng lại lên ngựa và chạy ra cổng để dẫn họ vào.
Chàng dẫn đoàn quân vào giới thiệu với chủ tướng. Đôbô bắt tay người lính cầm cờ rồi giao cho Mectsei làm lễ tuyên thệ cho họ và chỉ chỗ cho họ ở, cũng như sai dọn bữa sáng cho họ. Ông bảo Gergey:
- Anh cũng vào nhà ta đi. Cái nhà gác màu vàng đằng kia kìa. Nhớ ăn lấy một chút gì nhé.
Gergey đi, nhưng dù sao tòa thành vẫn khiến chàng quan tâm hơn, chàng bèn cho ngựa tế quanh một vòng.
- Tòa thành đẹp tuyệt! – Chàng kêu lên khi trở lại chỗ Đôbô – Nếu mai sau có bao giờ tôi trở thành quan trấn thủ, xin Thượng đế hãy cho tôi được lập nghiệp ở đây.
- Anh còn chưa trông thấy gì hết! – Đôbô nói – theo ta, ta sẽ chỉ cho anh.
Thấy Bônemixo xuống ngựa, ông vẫy người võ đồng tóc vàng hoe:
- Kơrixtốp, hãy dắt ngựa theo chúng ta.
Ông khoác tay Gergey và dẫn đến cổng thành phía nam.
- Anh thấy đấy, - ông dừng lại nói – để anh có thể mau chóng định được phương hướng, anh hãy hình dung lấy hình một con rùa lớn nằm ngoảnh đầu về nam. Đây, chỗ ta đang đứng đây là đầu của nó. Bốn chân và cái đuôi của nó là những pháo đài. Hai bên sườn nó là hai cổng đường bộ.
Giữa chừng ông hỏi vọng lên tháp canh trên cổng:
- Các ngươi có chú ý trên ấy không đấy?
- Người lính gác thò người ra ngoài cửa sổ tháp canh và đẩy cái tù và lủng lẳng bên sườn ra sau lưng:
- Thưa đại úy, chúng con cả hai người cùng canh đây ạ.
- Ta đi lên đây. – Đôbô nói – Nay hoặc mai quân Thổ sẽ đến từ hướng này đây, vậy anh cũng quan sát kỹ chỗ này đi.
Ông đưa tay ra muốn nhường Gergey đi trước nhưng chàng lùi lại.
- Thưa đại úy, tôi đã phải thệ nhập thành rồi.
Điều đó có nghĩa: tôi không phải là khách nữa.
Đôbô đành đi lên trước.
Có bốn người lính gác ngồi trong tháp canh, họ đứng dậy chào.
- Các ngươi hãy làm quen với ngài thượng úy[13] Bônemixo Gergey. – Đôbô bảo họ. Nghe vậy mấy người gác lại chào một lần nữa. Gergey cũng lại đưa tay lên vành mũ.
Từ bao lơn của tháp canh có thể thấy hai làng nhỏ với một cái cối xay gió ở hướng nam, gần trước thành, xa hơn là cánh đồng xanh màu lá mạ nằm giữa hai dải đồi chân rết.
- Vùng Hạ châu bắt đầu từ đó. – Đôbô giảng giải thế đất.
- Còn hai cái làng nhỏ này?
- Cái ở phía bên này là Onmodo, cái bên kia là Tihomé.
- Con suối này là suối gì ạ?
- Suối Eghe.
- Những bức tường quanh cổng đây chắc là mới xây cả?
- Mới. Ta vừa cho xây đấy.
- Cao lắm. Chỉ họa hoằn quân Thổ mới thử sức ở đây.
- Thì bởi thế ta mới cho xây. Vì phía bên trái, như anh thấy đấy, đại bác sẽ bảo vệ cái cổng này bằng những lỗ châu mai từ trên chĩa xuống.
- Ở thành nào người ta cũng trợ chiến từ phía bên trái: trong tay phải của kẻ xông tới không có lá chắn.
- Ở đây dù có muốn yểm hộ từ phía tay phải cũng chẳng được. Như anh thấy đấy, ở đây dòng suối chảy ven phía Tây. Ta đã cho đóng các cống ở chỗ cối xay đằng kia để chúng ta có đủ nước dùng.
Và họ đi sang mạn thành phía tây, phía nhìn xuống thành phố.
- Tường cao đến chóng cả mặt. Cái này có đến mười sải chứ không ít.
- Có lẽ còn hơn ấy chứ. Bên phía này quả thực quân Thổ sẽ không thử thách được gì hết. Bên ngoài là đá, bên trong là đất. Nhưng bây giờ ta lên ngựa đi. Bên phía này họa hoằn ta mới bị nguy với quân Thổ.
Họ lên ngựa và lại tiếp tục đi.
Dưới kia thành phố yên ắng và vắng tanh. Nhà thờ xứ và toàn giám mục cao vượt hẳn lên giữa những nhà cửa khác. Ở sườn núi phía bên kia thành phố, về hướng mặt trời lặn, là nhà thờ Thánh Mikơlôt của những giáo sĩ dòng Aguxtin. Một dãy núi vững chãi, đỉnh cao đều đặn, bao lấy thành phố về phía tây, cao vượt lên ngoài xa nữa là những đỉnh nhọn của dãy Matơro màu xanh thẫm.
Ở phía tây cũng có hai pháo đài và giữa là một cổng nhỏ kiên cố. Những người lính đang dắt ngựa ra suối. Bên kia suối, trên bãi chợ của thành phố, một vài người đang đứng thơ thẩn quanh một đàn lợn.
- Họ vẫn còn ở đây ư? – Gergey ngạc nhiên hỏi.
- Vẫn còn. – Đôbô đáp – Mặc dù ngày nào ta cũng nhắn xuống bảo họ cuốn gói ngay đi. Tất cả bọn họ đều muốn bán lợn, bán bò xong đã.
Bên trong cổng thành, một trung úy người gầy, khuôn mặt rộng, đang luyện tập cho khoảng năm chục chiến sĩ. Bọn họ dùng gươm, đầu đội mũ sắt đã han gỉ có lưới che mặt, vai mang giáp sắt. Hai người đứng ở giữa vòng. Người trung úy quát tháo:
- Thu về! Thu về! Con lừa, ta đã bảo khi chém xong phải thu ngay gươm về!
Người học có vẻ chưa bao giờ ra lính. Đó là một chàng nông dân bé nhỏ nhưng có đôi tay rất lực lưỡng và sở dĩ Đôbô phân vào toán lính Koso là chỉ vì nếu để cái sức trẻ ấy bên súng đại bác thì phí đi mất.
- Người trung úy này là ai vậy? – Gergey hỏi.
- Heghetđuy, trung úy chỉ huy toán lính Koso. Một con người rắn rỏi. – Đôbô trả lời và nói chõ xuống chỗ toán lính:
- Nếu các ngươi có gì chưa hiểu thì cứ mạnh dạn mà hỏi ngài trung úy.
Chàng trai nghe vậy bèn hạ gươm xuống và nhìn lên Đôbô:
- Thưa ngài đại úy, còn không hiểu được tại sao con lại phải vội thu gươm về?
- Ngài trung úy sẽ bảo cho ngươi biết.
- Đồ con tướu – Người trung úy cáu tiết nói – Như vậy là để lấy gươm mà che mình, đồng thời lại sẵn sàng để chém nhát sau.
- Nhưng thưa ngài trung úy, - gã trai trẻ nhổ một bãi nước bọt sang bên và nói – đứa nào mà đã bị con chém thì không chém lại con nữa đâu ạ!
Đôbô búng vào con ngựa một cái và mỉm cười.
- Dân Eghe có khác. Ăn nói được đấy.
Họ tế ngựa dọc chân thành lên phía bắc. Ở đó có hai lâu đài. Cái nhỏ trang trí đẹp hơn, có cửa sổ lồng kính. Cái lớn là một loại nhà trông như kho giống của các lãnh chúa lớn, gọi là tu viện. Ở thời Đôbô nó đã từng là nhà của hội đồng linh mục trong thành, về sau là chỗ ở của các sĩ quan, chỉ có cửa sổ bằng bong bóng bò. Đằng sau cái lâu đài nhỏ có vườn hoa với dây hàng rào sơn xanh. Trong vườn có ghế ngồi và một giàn nho. Một con bướm cuối mùa chập chờn lượn trên những đóa hoa hồng mùa thu.
Thấy Gergey mê mải ngắm những bông hồng. Đôbô cũng nhìn vào đó:
- Vợ ta trồng bao nhiêu là hoa như thế này kể đã uổng công.
- Phu nhân hiện nay ở đâu ạ?
- Ta đã gửi về nhà, chỗ anh em của ta. Vắt đàn bà làm yếu người ta.
Họ đi qua vườn đến góc thành phía tây. Ở đây tường cũng cao đến phát ngợp. Dưới chân tường là phần đồi nhô ra. Nó đã bị bạt đi thành một cái vách dựng đứng xuống tận nền đất của thành phố.
- Đấy, nhìn xem – Đôbô bảo – Đây là pháo đài đất. Cái này chỉ cốt để cho cho góc này khỏi bị bắn và để yểm hộ cho cái pháo đài đằng kia kìa. Cái đó là pháo đài nhà ngục.
Và ông chỉ sang cái pháo đài mọc cao trên lưng tòa thành, chỗ đuôi rùa.
Từ đó một phong cảnh mỹ lệ lại mở ra về phía thành phố và về phía thung lũng bạch dương chạy dài theo bờ suối về phương bắc. Cuối thung lũng có một làng cây cối um tùm rất đẹp: Phennemét, một làng lớn. Bên kia làng, cái thung lũng rộng đã bị những quả núi có rừng chặn nghẽn tất cả mọi lối.
Nhưng Gergey chẳng ngắm phong cảnh lâu lắm. Cái sống lưng của tòa thành đã khêu gợi sự chú ý của chàng. Ở đó có những quả đổi cao nhô lên phía sau thành và chỉ mỗi một cái hào sâu ngăn cách những quả đồi đó với chân thành.
- Ta có thể chờ đợi cuộc tấn công từ phía này đấy – Chàng vừa quan sát những quả đồi vừa nói.
- Đúng thế. – Đôbô đáp – Nhưng tường thành ở đây cũng kiên cố nhất, và bốn trong số những khẩu đại bác lớn nhất sẽ phục vụ ở hướng này.
Ông xuống ngựa chỗ pháo đài nhà ngục và trao cương cho võ đồng Kơrixtốp:
- Con có thể dắt nó vào tàu.
Họ đi lên pháo đài nhà ngục, chỗ một khẩu đại pháo, bốn súng cối và chừng hai chục tu pháo[14] đang ngáp dài về phía những quả đồi.
Bên cạnh những cỗ pháo, một pháo thủ người Đức có mái tóc xoăn vàng hoe đang huấn luyện cho những nông dân. Đám nông dân rất chăm chú lắng nghe người pháo thủ nhưng gã ta cứ nói ngọng lẫn lộn giữa rượu vang và thuốc súng[15]. Cuối cùng phải giải thích cho đám nông dân biết khi nào pháo thủ Jôjep yêu cầu “rượu vang” thì phải mở bao thuốc súng cho ông ta, còn khi nào ông ta yêu cầu “thuốc súng” thì đưa rượu vang đến.
Trong thành có năm pháo thủ Đức như vậy, Đôbô đã chiêu mộ họ từ Viên về. Ngoài họ ra không còn người ngoại quốc nào trong thành nữa.
- Anh hãy xem khẩu đại bác tuyệt trần này – Đôbô vừa nói vừa vuốt tay lên khẩu pháo – Tên nó là Cóc Tía. Hễ nó gầm lên là quân Thổ sẽ được thấy mưa!
Khẩu pháo đúc bằng đồng đen, được đánh bóng nhoáng. Cùng với cái giá bằng gỗ sồi vững chãi, dành đai thép, quả thực nó chẳng khác gì một con cóc đang ngồi chồm chổm.
Họ tiếp tục đi dạo về phía đông, chỗ một pháo đài kiên cố đứng nhô ra ở góc thành. Đó là cái chân sau bên trái của con rùa.
- Cái này là pháo đài Sanđô – Đôbô bảo.
Gergey đứng ngẩn ra nhìn.
Bắt đầu từ chỗ pháo đài này, ở đoạn thành phía đông có một cái tường quai vạc cao và kiên cố, giống hình một cái liềm gẫy gập làm ba khúc, cũng lại giống một nửa hình lục lăng bao lấy phía đông thành. Trong ngoài đều có hào sâu đến mươi – mười hai sải. Chỉ ở khúc giữa mới có một con đường hẹp chạy qua để quân lính có thể đi lên mặt thành.
- Đây là thành ngoài. – Đôbô nói – Anh có thể thấy ngay ở cạnh nó về phía đông có một quả đồi mọc cao như núi. Đó là đồi Ghế Vua. Sở dĩ người ta đặt tên cho nó như vậy là vì ngày trước Thánh vương Isơlơvan đã ngồi ở đó, trước cửa trướng, để xem việc xây dựng nhà thờ. Cái đồi này đã phải xẻ làm đôi ở ngay dưới chỗ ta đứng đây.
- Tôi hiểu rồi. – Gergey đáp – Người nào đã làm việc đó rất thông minh.
- Perénhi đã làm việc đó mười năm về trước. Ở đầu đằng kia cũng có một pháo đài nữa, đó là pháo đài Bebec. Còn cái tháp ở chỗ góc kia là để có thể nhìn thấu địch tình và bắn vào quân địch suốt đến chỗ cổng và đến tận đây.
Bức tường ở đó, cũng như ở khắp xung quanh, được nối cao thêm bởi những công sự che ngực đắp bằng bối và đất bùn cao hàng sải. Đôi nơi bùn vẫn còn ướt. Tầng công sự che ngực đó cần thiết để quân địch từ ngoài không thể nhòm ngó vào thành được và không thể thấy những người giữ thành đi lại trên mặt lũy.
- Bây giờ ta đi đến chỗ pháo đài nhà thờ. – Đôbô nói và lại khoác lấy tay Gergey.
Từ pháo đài Sanđô họ chỉ cần đi có vài bước và một tòa nhà đặc biệt đã đứng sững trước mặt Gergey. Đó là phần nửa của một cái nhà thờ đồ sộ. Hai cái tháp phía sau của nó vẫn còn (trước kia có bốn tháp). Trên cánh cửa đầy những hình khắc gỗ, phía trên cửa là những bông hoa đá khổng lồ, những thiên thần tạc bằng đá mặt mũi sứt sẹo. Nhưng đây là loại nhà thờ gì mà đất lại chất đầy bên trong thay cho các tín đồ; những khẩu pháo chễm chệ trên tháp chuông, và thay cho tiếng đại phong cầm là tiếng gầm của đại bác sẽ vọng ra: tiếng đại phong cầm của chết chóc.
Dọc tường bên phải và b?