Chương 9
Đã hơn bảy giờ, khi vị tướng bước ra khỏi phòng mình. Tựa vào chiếc gậy bịt ngà voi, với những bước chân thẳng và chậm rãi, ông đi dọc dãy hành lang dài, nối khu bên này của tòa lâu đài, những phòng ngủ, với những căn phòng lớn, với phòng khách, phòng nghe nhạc và những xalon. Các bức ảnh cũ bao phủ tường dãy hành lang: những bức chân dung tổ tiên, các cụ tổ năm đời, những người quen, các gia nhân cũ, bạn quân ngũ và những vị khách một thời, nổi tiếng, được đóng khung mạ vàng. Trong gia đình vị tướng có truyền thống lâu đời là nuôi dưỡng các họa sĩ: những nhà họa sĩ vẽ chân dung lang thang, hay bất chợt đi qua và cả những người nổi tiếng, như ngài S gốc Praga- Tiệp, đã từng ở tám năm trong lâu đài, thời bà của vị tướng còn sống. Người họa sĩ vẽ tất cả những ai mà chàng gặp, từ người quản gia đến những con ngựa quý. Các cụ tổ năm đời trở thành nạn nhân cho cây cọ của các nhà nghệ sỹ nhất thời: từ trên cao, các cụ nhìn xuống với những cặp mắt vô hồn, trong các bộ lễ phục. Tiếp sau đấy là những khuôn mặt đàn ông nghiêm nghị, bình thản hơn, là bạn bè của ngài vệ binh với những bộ ria kiểu Hung, tóc chải xoắn ốc trên vầng trán, trong các bộ lễ phục đen hoặc quân phục đại lễ. Đấy là một thế hệ xứng đáng, vị tướng nghĩ và ngắm nhìn chân dung họ hàng, bạn bè, bạn đồng ngũ của cha. Một thế hệ xứng đáng, cho dù hơi đơn độc, họ không hòa nhịp được với thế gian một cách may mắn, họ kiêu hãnh, nhưng tin vào một cái gì đấy: vào danh dự, vào phẩm chất người đàn ông, vào sự im lặng, vào nỗi cô đơn, vào những lời đã nói và cả vào phụ nữ nữa. Khi bị thất vọng, họ im lặng. Phần lớn trong số họ suốt đời im lặng, buộc bản thân mình vào nghĩa vụ và sự im lặng, như một lời thề. Cuối dãy hành lang là những bức chân dung của những người Pháp, những người phụ nữ Pháp ngày xưa trang điểm bằng những vòng tóc rắc phấn, chân dung những người đàn ông đội tóc giả, có cặp môi đầy hưởng thụ, to béo và xa lạ, họ hàng xa của mẹ, chân dung của họ nổi bật trên nền vải màu xanh, hồng nhạt, hoặc màu xám. Những người xa lạ. Rồi đến chân dung cha, trong bộ đồng phục vệ binh. Và một bức chân dung khác về mẹ, mẹ với mũ cắm lông chim, tay cầm roi ngựa, như một nữ diễn viên xiếc điều khiển ngựa. Một khoảng trống chừng bốn mét hiện ra trên tường, giữa những bức chân dung: vạch xám nhạt đóng khung trắng cho biết, nơi đây đã từng treo một bức tranh. Vị tướng, với khuôn mặt bất động, đi qua khung tranh rỗng đó. Rồi tiếp đến là những bức tranh phong cảnh.
Cuối hành lang, người nhũ mẫu trong bộ quần áo đen, chiếc khăn trắng tinh, hồ cứng buộc trên mái đầu nhỏ bé.
- Ông xem những bức tranh? - Bà hỏi.
- Vâng.
- Ông có muốn chúng ta treo lại bức tranh không? - Bà hỏi và với vẻ bình thản của người già, chỉ tay lên tường. Bà chỉ vào vị trí của bức tranh bị gỡ bỏ.
- Vẫn còn? - Vị tướng hỏi.
Người nhũ mẫu ra hiệu bà vẫn giữ bức tranh.
- Không, - vị tướng nói sau một phút yên lặng. Rồi ông nói khẽ khàng: - Tôi không biết là bà vẫn cất giữ. Tôi tưởng bà đã đốt đi rồi.
- Chẳng có ý nghĩa gì, - người nhũ mẫu cất giọng sắc lạnh: -khi đốt những bức tranh.
- Đúng thế, - vị tướng nói một cách tin tưởng, như khi người ta nói với bảo mẫu của mình, - điều ấy chẳng có ý nghĩa gì.
Họ cùng quay về phía cầu thang lớn, nhìn xuống dưới phòng khách, một gia nhân và một cô hầu phòng đang cắm hoa vào những bình phalê.
Lâu đài trong vài giờ đồng hồ bỗng sống dậy, như một cỗ máy được khởi động. Không chỉ đồ đạc sống lại, những ghế bành và ghế dài được lột tấm vải phủ, mà cả những bức ảnh trên tường, những giá đựng nến bằng sắt lớn, những vật lưu niệm đặt trong các tủ kính và trên giá lò sưởi. Trong lò sưởi người ta đã chuẩn bị sẵn các thanh củi để nhóm lò, vì khí ẩm ướt của đêm hè, sau nửa đêm, phủ những làn sương trắng mỏng lạnh buốt vào phòng. Đồ đạc dường như tỉnh giấc, tựa hồ muốn chứng minh rằng trên thế gian mọi vật chỉ có giá trị, nếu liên quan đến con người và chỉ là phụ tùng của số phận cũng như của hành động con người. Vị tướng nhìn căn phòng, nhìn những bông hoa cắm trên bàn cạnh lò sưởi và những ghế bành được sắp đặt.
- Cái ghế da này, - ông nói, - ở bên phải.
- Ông nghĩ thế à? - Người nhũ mẫu hỏi và hấp háy đôi mắt.
- Đúng thế, - ông nói, - Konrád ngồi đây, dưới chiếc đồng hồ, cạnh lò sưởi. Ở giữa, đối diện lò sưởi, trong ghế Firenze là tôi. Krisztina ngồi đối diện, trong ghế bành, mà mẹ tôi mang về.
- Ông vẫn còn nhớ rõ, - người nhũ mẫu đáp.
- Vâng. - Vị tướng tựa lưng vào lan can cầu thang, nhìn xuống dưới. - Những bông cẩm chướng cắm trong bình pha lê xanh. Bốn mươi mốt năm rồi.
- Nếu ông nhớ thì chắc đúng như vậy, - người nhũ mẫu trả lời và thở dài.
- Tôi nhớ, - ông bình thản trả lời. - Bà cho dọn đồ sứ Pháp chứ?
- Vâng, màu sáng. - Nini nói.
- Tốt rồi. - Vị tướng gật đầu hài lòng. Giờ đây họ im lặng ngắm hồi lâu bức ảnh, phòng khách phía dưới, những đồ gỗ vĩ đại, giữ gìn một kỷ niệm, một ý nghĩa của một giờ đồng hồ, của một khoảnh khắc, như thể tất cả từ trước tới nay chỉ tồn tại theo quy luật của vải, của cây, của kim loại, nhưng trong một khoảnh khắc cách đây bốn mươi mốt năm, những đồ vật câm lặng này chứa đầy một nội dung sống động khác và khoảnh khắc này là ý nghĩa của sự tồn tại của chúng. Và bây giờ, khi chúng bắt đầu sống động trở lại như một cỗ máy được khởi động, các đồ vật cũng bắt đầu hồi tưởng.
- Bà cho khách ăn gì?
- Cá lăng. - Nini nói. - Xúp và cá lăng. Thịt bò tái và xà lách. Gà rừng. Kem. Đã mười năm nay đầu bếp không làm rồi, nhưng chắc sẽ đâu vào đấy. - Bà nói đầy lo âu.
- Bà hãy để mắt đến cho mọi việc ổn thỏa nhé. Hồi đó có cả tôm, - vị tướng nói nhỏ nhẹ, như thì thầm.
- Vâng, - người nhũ mẫu bình thản, - Krisztina thích ăn tôm, nấu kiểu gì cô ấy cũng thích. Hồi đó dưới suối còn có tôm, bây giờ hết rồi. Buổi tối tôi không mua được trong phố.
- Bà hãy để mắt tới các loại rượu nhé. - Vị tướng nói khẽ với một vẻ tin cậy đồng lõa. Nghe giọng nói này, người nhũ mẫu buộc phải đến gần vị tướng, đầu cúi thấp với vẻ thân thiết của người nhà, để hiểu hết mọi từ. - Bà cho lấy loại Pommard tám mươi sáu nhé. Và loại Chablis, để uống với món cá. Và một chai loại Mumm cũ, loại chai to nhất ấy. Bà còn nhớ chứ?
- Vâng, - người nhũ mẫu suy nghĩ, - loại đấy chỉ còn rượu chát thôi. Krisztina thích loại ngọt.
- Và chỉ một hụm thôi, - vị tướng nói, - lúc nào cô ấy cũng chỉ nhấp một hụm, với món rán. Cô ấy không thích rượu sâm banh.
- Ông muốn gì từ con người ấy? - Người nhũ mẫu hỏi.
- Sự thật, - vị tướng trả lời.
- Ông biết rõ sự thật.
- Tôi không biết, - vị tướng nói to và không để ý đến người gia nhân và cô hầu phòng lập tức thôi cắm hoa, mắt nhìn lên. Nhưng họ lại lập tức cụp mắt xuống, một cách máy móc, lại bày biện. - Chính sự thật tôi lại không biết.
- Nhưng hiện thực rành rành ra đấy, - người nhũ mẫu trả lời bằng giọng tấn công sắc lạnh.
- Hiện thực chưa phải là sự thật, - vị tướng trả lời, - hiện thực chỉ là một phần. Krisztina cũng không biết sự thật. Có thể chỉ Konrád biết. Bây giờ tôi sẽ lấy của anh ta, - ông nói bình thản.
- Lấy cái gì? - Người nhũ mẫu hỏi.
- Sự thật. - Ông trả lời ngắn gọn và im lặng.
Khi người gia nhân và cô hầu phòng đi khỏi phòng khách, họ còn lại, trên cao, hai người, người nhũ mẫu cũng chống khủy tay vào lan can cạnh ông, như thể hai người đang ngắm cảnh bên một sườn núi. Bà nói, quay về phía căn phòng, nơi một thuở nào đấy cả ba người cùng ngồi trước lò sưởi:
- Tôi cần nói điều này với ông. Khi hấp hối, Krisztina đã gọi tên ông.
- Vâng, - vị tướng nói, - tôi đã ở chỗ này.
- Ông đã ở đây, nhưng thực ra cũng không ở đây. Ông xa xôi như đã đi mất rồi. Ông ngồi trong phòng ông, còn cô ấy thì hấp hối. Cô ấy có một mình với tôi, vào rạng sáng. Lúc đó cô ấy gọi tên ông. Tôi nói điều này để ông biết, tối hôm nay.
Vị tướng im lặng.
- Theo tôi, anh ta đã đến, - ông nói và đứng thẳng dậy. - Bà hãy để mắt tới rượu và mọi thứ khác nhé, Nini.
Đã nghe tiếng sỏi xào xạc trên lối đi và tiếng bánh xe ngựa trước lối vào. Vị tướng dựa gậy vào tay vịn hành lang và đi ra, không cần gậy, ông đi xuống cầu thang, về phía vị khách. Bỗng ông dừng lại trên bậc cầu thang.
- Những cây nến, - vị tướng nói, - bà còn nhớ không? Những cây nến để bàn màu xanh, còn không? Bà hãy cho đốt nến vào bữa tối, hãy để chúng cháy lên.
- Về điều này tôi không còn nhớ nữa, - bà nhũ mẫu đáp.
- Tôi thì vẫn nhớ, - ông tướng trả lời một cách bướng bỉnh.
Với dáng người thẳng đứng, trong bộ quần áo đen, một cách già nua và long trọng, ông chậm rãi xuống cầu thang. Cửa phòng khách mở, từ khung cửa xe ngựa lớn, sau người gia nhân, xuất hiện một ông già.
- Anh thấy đấy, tôi đã trở về, - người khách nói khẽ khàng.
- Tôi chưa bao giờ nghi ngờ điều đó, - vị tướng trả lời, cũng khẽ khàng như thế và mỉm cười.
Họ bắt tay nhau, rất trịnh trọng.