Chương II
Lòng tôi chưa dịu được bao nhiêu thì lại xẩy ra câu chuyện Liễu bỏ nơi này trốn đi.
Liễu là bạn cùng groupe với tôi. Nàng giúp bà phước Hòa trông coi lũ hài nhi bên salle (phòng) số 4. Trong lớp học, Liễu là người hiểu tôi nhất. Nàng có đôi mắt to, đen và thông minh lạ thường. Tôi vẫn phục nàng là người minh mẫn hơn tôi. Vì những bài toán sin, cos về trigo mà bà phước Hạnh ra trong lớp, tôi vẫn phải nhờ Liễu giảng lại một lần nữa mới thấu đáo. Liễu có một vẻ đẹp thùy mị, nết na, nhất là những lúc nàng buồn, cái buồn sâu sắc, kín đáo chứ không sôi nổi như tôi.
Hai năm về trước, Liễu ở với một bà thím. Cha mẹ nàng mất sớm. Năm mười bẩy, nàng bị ép lấy một ông đội góa, trong khi nàng yêu một thanh niên cùng lớp. Bởi vậy Liễu trốn ra khỏi nhà để xin vào đây. Trong những ngày đầu, nàng nhất định đòi đi tu. Nhưng đâu có dễ dàng được chấp nhận ngay. Nàng còn phải trải qua một thời gian dài thử thách.
Hơn nữa, hình ảnh người yêu của Liễu vẫn chưa phai mờ trong óc nàng, Những lần tâm sự với tôi, Liễu cho tôi biết tên chàng là Hoan,
Nếu câu chuyện chỉ có thế thì Liễu đã an phận với công việc hàng ngày của mình để ấp ủ mối tình lý tưởng. Nhưng trời trớ trêu đã đẩy Liễu xuống một hố sâu đen tối hơn nữa. Bởi vì khi dò biết nàng vào trong này, Hoan đã gửi rất nhiều thư cho Liễu. Và lẽ dĩ nhiên, không một lá thư nào đến được tay nàng cả. Bởi vì thư từ ở ngoài lọt vào đây đều phải qua phòng bà Nhân kiểm duyệt. Tai hại cho Liễn vì luật lệ khắt khe và tính tình khắc khổ của các bà phước, mối duyên của nàng đã bị bóp chết.
Cho đến một hôm cuối tháng trước, Liễu được bà phước Nhân gọi lên văn phòng tính sổ chi thu thay cho bà Nguyên ốm nặng. Vô tình Liễu đã tìm được một bức thư cuối cùng của Hoan trong tập hồ sơ để dưới ngăn kéo. Lá thư đề ngày hai mươi chín tháng tư năm ngoái. Tính ra đã được một năm, bốn tháng. Tôi xin mạn phép Liễu chép ra đây:
Hà Nội ngày 29 tháng Tư năm…
Thân gửi Liễu
Không hiểu làm sao từ khi gửi Liễu những lá thư trước, tôi có cảm tưởng rằng tôi đã được yêu. Và một tháng qua tôi đã sống trong niềm vui cuồng nhiệt của kẻ được yêu. Bao nhiêu mộng đẹp liên tiếp sống êm đềm trong óc tôi từng giờ, từng phút.
Nhưng cho đến bây giờ tôi mới biết tôi nhầm. Thái độ im lặng của Liễu đã làm cho tôi biết rằng tôi chỉ là người xa lạ trong tâm hồn Liễu. Đau đớn lắng mãi trong tâm tư tôi nhưng tôi không bao giờ trách Liễu, vì chắc Liễu giờ này đã tìm thấy nguồn vui, dưới chân Chúa.
Thế là hết một tháng qua. Một tháng xoa dịu hồn tôi biết bao nhiêu. Chỉ tiếc rằng ngắn ngủi quá. Tuy vậy tôi sẽ chẳng bao giờ quên được những giờ phút êm đềm đó.
Vĩnh biệt Liễu! Vĩnh biệt Liễu thân yêu nhất của đời tôi. Mong Liễu quên tất cả những lời lẽ trong thư mà tôi gửi lần trước và mong Liễu tha thứ cho tôi. Đó là lời cầu mong cuối cùng của tôi. Từ nay trong cuộc sống tình cảm của tôi, luôn luôn bao giờ tôi cũng cầu mong cho Liễu tìm thấy lẽ sống vững bền trong bốn bức tường trắng cao ngất ấy.
Chúc Liễu vui mạnh và vững chí trên đường tìm đạo.
Người đã vui, đã buồn vì Liễu
Hoan
Tôi không cần phải nói, chắc độc giả cũng đủ hiểu rằng Liễu của tôi đã khóc biết mấy. Tâm tính nàng thay đổi hẳn. Trước nàng dịu dàng bao nhiêu thì bây giờ hằn học bấy nhiêu. Nàng căm thù tất cả các bà phước. Suốt một ngày nàng nằm khóc rưng rức và bỏ tất cả công việc. Liễu đã đi đến một độ liều lĩnh. Và một hôm nàng trốn ra để không bao giờ trở lại.
Biết tin ấy bà phước Hòa thở dài không nói, bà phước Hạnh nhún vai ra vẻ khinh bỉ, chỉ có bà phước Nhân là thay đổi nét mặt, có lẽ bà ân hận về điều bà đã làm.
Tối hôm Liễu đi, có hai người lại quì dưới chân Chúa cầu nguyện cho nàng tới khuya. Đó là bà Nhân và tôi. Nhưng lời cầu của chúng tôi không tới tai Chúa. Vì ba tháng sau tôi nhận được một lá thư của Liễu. Trong ấy nàng kèm cả lá thư của Hoan và kể lại cho tôi nghe mối tình oan trái.
Và Liễu báo tin cho tôi biết rằng Liễu đã không gặp người yêu. Nàng đã đi làm gái nhẩy.
Đọc hàng chữ thân yêu của Liễu, tôi muốn khóc nhưng không còn nước mắt. Lòng tôi tan nát đến cùng độ rồi. Suốt hai ngày, tôi quên cả bé Phượng, quên cả tâm sự của tôi. Tâm trạng của tôi như tâm trạng một người ngơ ngẩn.
***
Tôi lấy lại được thăng bằng vào một buổi sáng đẹp trời. Nắng giãi vàng trên bồn hoa sân trước. Những nếp tường trắng toát chạy dài trong nắng sớm. Qua một đêm ngủ thiếp đi, tôi trở dậy, thấy người đỡ mệt mỏi. Như thường lệ, tôi xuống giúp bà phước Tâm chia cháo cho lũ trẻ, rồi đưa bé Phượng xuống phòng nữ công. Xong công việc, chuông mới reo báo giờ của lớp tôi vào học. Sự vắng mặt của tôi hai ngày qua làm bà Hạnh có vẻ khó chịu. Bà nhìn tôi cho tôi là đồng lõa với Liễu. Nghe chị Giang kể lại thì hôm qua và hôm kia, câu chuyện của Liễu đã được bà Hạnh đem ra làm đầu đề giảng luân lý cho cả lớp. Tôi tưởng tôi đã thoát được cái nạn ấy thì bà ta lại soi mói lần nữa.
Sau khi giảng chán chê thế nào là công, dung, ngôn, hạnh, thế nào là bổn phận của người thiếu nữ, thế nào là sự hư hỏng của việc đi theo trai, thấy tôi hờ hững, bà nhìn tôi dằn giọng:
– Chị Quỳnh! Chị nghĩ thế nào về câu chuyện ấy. Tôi coi chị có vẻ chán ngán về những lời tôi giảng lắm phải không? Chị nói đi, chị nghĩ thế nào về câu chuyện cô Liễu?
Người tôi run lên vì giận dữ. Tôi biết bà ta trù tôi. Mới đầu tôi muốn gây sự êm đẹp để giữ vững kỷ luật ở đây. Nhưng trước nỗi đau khổ của Liễu, tôi không muốn ai có quyền đả động đến Liễu. Bởi vậy tôi đứng dậy nói hết với tất cả lòng mình:
– Thưa bà, em đồng ý với bà rằng trên phương diện đạo lý, hành động của Liễu là hành động vi phạm đến luật lệ ở đây. Nhưng hoàn cảnh của Liễu không thể lấy đạo lý mà xét. Liễu đã làm theo tình cảm. Tuổi của Liễu là tuổi bồng bột, mới yêu đương, làm sao lòng Liễu chín chắn được như lòng bà.
Không hiểu sao hôm ấy tôi lại nói bạo thế. Tôi nói ra một lời mà không một ai dám nói. Bà phước Hạnh cũng như tất cả nữ sinh trong lớp đều tròn mắt nhìn tôi kinh ngạc. Rồi mặt bà Hạnh đang đỏ ửng trở nên xám ngoẹt đi. Tôi biết điều đó nhưng tôi bất cần. Tôi biện hộ cho Liễu say mê như là tôi giải tỏ lòng tôi. Tôi nói lên lòng của Liễu tức là tôi nói lên lòng tôi. Bao nhiêu u uất, bao nhiêu hậm hực, bao nhiêu tủi nhục của những thiếu nữ bạc phận như tôi, tôi trút ra hết. Và khi nói xong, tôi thấy mệt lả. Trong một giây phút bồng bột tôi đã làm quá sức của tôi, quá cái giới hạn khắt khe của chốn này. Rồi tôi ngồi xuống, gục đầu vào cuốn vở khóc lên rưng rức. Tôi không còn nghe thấy tiếng lao xao của các bạn, tiếng giận dữ của bà phước Hạnh. Mang máng bên tai, tôi nghe hình như bà ta nói nhiều lắm. Buổi học vì thế phải bỏ giở nửa chừng vì bà Hạnh không thể giảng bài được nữa. Tôi lảo đảo theo Giang về phòng.
Lúc ấy mới hơn chín giờ. Lòng tôi tan nát quá. Bao nhiêu tư tưởng quay cuồng trong óc tôi. Tôi nghĩ đến Liễu, đến tôi, đến Phượng đến tất cả những người đồng cảnh ngộ như tôi. Rồi hình ảnh bà phước Nhân, bà Tâm, bà Hạnh và tất cả những lề lối sống chật hẹp u uất ở đây hiện ra và biến đi không biết biết bao nhiêu lần. Sự hoang mang, sư tủi nhục và hối hận đến cấu xé lòng tôi. Cả buổi sáng hôm ấy tôi bỏ cả công việc. Cho đến khi nghe tiếng lao xao của lũ trẻ sau giờ tan học, tôi mới trở dậy vì tôi không muốn cho chúng nó thấy rõ tâm trạng của tôi. Tôi vuốt lại mái đầu trước một tấm cửa kính. Tôi thấy mặt tôi hốc hác, mắt thâm quầng. Nhưng lần này tôi không dám nghĩ gì thêm cả…
Bé Phượng đến với tôi với một nụ cười tươi như hoa. Tháng này nó lại đứng thứ nhất. Nó ôm lấy cổ tôi, nói huyên thuyên một lúc rồi như nhận ra mắt tôi còn ngấn lệ, nó ôm lấy tôi thủ thỉ:
– Chị thương em lắm phải không? Chị đừng buồn nhé, em vẫn vui đấy thôi.
Tôi chỉ áp má tôi vào má nó mà không đáp.
Buổi chiều hôm ấy khi đã lên đèn, bà Nhân mới cho gọi tôi. Tôi ngập ngừng bước ra cửa. Bây giờ thì tôi hoang mang lắm rồi. Óc tôi chẳng có gì chủ định. Tôi bước vào cửa buồng bà với một sự thờ thẫn. Nhưng rồi tôi nghĩ rằng việc gì đến nó cũng phải đến, cũng vì vậy tôi lại cảm thấy vững lòng hơn.
Bà Nhân đón tôi với một vẻ mặt lạnh hơn mọi ngày. Bà không nhìn tôi, nhưng giơ tay ra hiệu cho tôi ngồi xuống một cái ghế. Tất cả căn phòng chìm trong im lặng. Bà ta đang lâm râm cầu kinh. Hành động của bà như vậy càng làm mềm lòng tôi hơn. Nhất là khung cảnh tịch mịch lúc bấy giờ sao mà bi thảm thế. Qua khung kính cửa sổ, bên ngoài trời ngả mầu tím sẫm. Những bức tường dài nằm im lìm dưới ánh đèn vàng vọt. Âm thanh ở thành phố vẳng về nghe mơ hồ quá. Bãi cỏ rộng mênh mông đằng trước mang một vẻ chán nản đến rợn người. Lòng tôi se lại và thấy lúc ấy là lúc tốt nhất để bà Nhân kéo tôi về chân Chúa. Tôi lo lắng nhìn bà. Giây lâu bà mới dịu dàng quay lại và êm ái bảo:
– Quỳnh! Ta đã câu chuyện buổi sáng và hiểu rõ tâm trạng của con. Con khao khát không khí bên ngoài lắm phải không? Con có muốn ra ngoài không?
Tôi không ngạc nhiên về câu nói ấy. Tôi thừa rõ bà ta nói như vậy vì bà biết tôi không bao giờ dám xin ra. Sự thoát khỏi cánh cổng sắt cao vòi vọi kia đối với tôi là một sự xa xôi quá. Viễn vọng khao khát cuộc sống bên ngoài chỉ như một cái bóng chập chờn trước mắt tôi, khi ẩn khi hiện, tôi chỉ thấy mà không nắm được, không bao giờ nghĩ đến chuyện nắm được.
Sự im lặng của tôi làm bà có cử chỉ thân mật với hơn. Bà kéo tôi ngồi xuống mép giường của bà để suốt buổi tối hôm ấy bà kể chuyện cho tôi về tâm trạng hai mươi mấy năm về trước của bà. Bà vạch cho tôi thấy những nỗi khổ của người đi lầm đường và xa Chúa, sự bất hạnh của những kẻ không dâng linh hồn cho Chúa. Nhưng những lời ấy tôi nghe đã bao nhiêu lần rồi và tôi chỉ cảm thấy lòng mình lúc ấy trơ lạ. Lời khuyên của bà không rung động được tôi nữa. Óc tôi miên man đeo đuổi từ tư tưởng này sang tư tưởng khác. Có lúc rối như mớ bòng bong, có lúc trở nên loãng đến độ mà tôi tưởng óc tôi không chứa một cái gì nữa.
Gần mười giờ, bà cho phép tôi về phòng sau khi ân cần dặn tôi phải cầu kinh để tìm được niềm tin dưới chân Chúa.