← Quay lại trang sách

Chương III

Tháng Tám năm ấy, chúng tôi sửa soạn làm lễ kỷ niệm ngày thành lập Cô Nhi Viện. Sự sửa soạn của chúng tôi có tính cách quan trọng. Bởi vì nhân dịp ấy, chúng tôi còn quyên tiền cùa những quan khách được mời tới dự. Bà Nhân đã thảo chương trình từ một tháng trước. Buổi hôm đó sẽ đầy đủ cả Ca, Vũ, Nhạc, Kịch. Học trò lớp Nhất của tôi phải phụ trách đóng một vở. Tôi băn khoăn mãi về cái đề tài tôi sẽ chọn cho chúng nó. Dĩ nhiên rằng trong tạp chí “Coeur Vaillant” lưu hành trong trường không thiếu gì đề tài khuyến khích lòng can đảm của tâm hồn trẻ. Nhưng bà Nhân lại muốn nhằm vào lòng từ thiện của các vị quan khách, cho nên vở kịch phải có tính cách tuyên truyền. Bởi vậy tôi phải lên tìm Hồng người bạn thường có nhiều sáng kiến của lớp tôi. Hồng viết cho tôi một vở kịch, trong đó tả nỗi khổ của em bé mồ côi, bơ vơ trong một đêm mưa gió, cầu mong sự giúp đỡ của các nhà hảo tâm và cuối cùng em đó được đưa vào trại Cô Nhi này. Tôi không hài lòng lắm về vở kịch đó, vì tôi không muốn đem sự khổ nhục của chúng tôi ra cầu xin lòng thương của người khác. Nhưng để vừa ý bà Nhân, tôi bắt buộc phải cho chúng nó tập vở kịch đó. Tôi chọn con Ban đóng vai đứa trẻ. Nó là một con bé gầy gò, ốm yếu, dáng điệu dễ thương lạ. Vừa ngây ngô, vừa bé bỏng, lại thêm cặp mắt lúc nào cũng như cầu mong một sự che chở, tôi đoán nó sẽ làm rung động được nhiều khán giả. Nhưng con bé nhất định nằng nặc từ chối vì sợ nhất là phải ra trước đám đông. Tôi phải dùng uy quyền của tôi để bắt ép nó. Điều ấy làm tôi ân hận và thương hại nó. Nhưng công việc bắt tôi phải làm như thế.

Tôi không ngờ nó thành công đến thế. Nó lột được một cách rất tự nhiên, rất tế nhị sự đau khổ trong vai trò của nó. Nhưng vai của nó càng nổi bao nhiêu, tôi càng khổ sở bấy nhiêu. Trong những “sen” (scène) nó ôm lấy mẹ nó khóc sướt mướt dưới mái hiên một đêm trời lạnh gió, nó gào lên khi mẹ nó chết, tôi có cảm tưởng rằng đó là màn kịch sống diễn ra trước mắt. Bởi vì ngày xưa, bọn chúng tôi cũng cùng một hoàn cảnh ấy, mất cha, mất mẹ, nhục nhã ê chề mới có ngày nay. Cũng bởi vậy nên đến hôm dượt tổng kết, có nhiều đứa xem vở kịch đã bật ra tiếng khóc. Những sự đau khổ của chúng tôi sau bao nhiêu năm im lìm trong cuộc sống kín đáo bây giờ bật ra như cái nút tức hơi. Và chính tôi cũng phải rơm rớm nước mắt.

Tối hôm khai mạc, hai cánh cửa sắt bên ngoài mở rộng. Đèn giăng như sao sa. Chiếc sân cỏ im lìm mọi ngày trở nên tưng bừng náo nhiệt. Những tiếng chân dẫm lên sỏi lạo sạo. Tiếng cửa xe hơi mở ra đóng vào sầm sập. Hàng quà bánh rao inh ỏi. Trong khung cảnh ấy lòng chúng tôi không khỏi bâng khuâng và nao lên một niêm vui khó tả. Tôi lẩn quẩn trong buồng trò giúp bà phước Hòa hóa trang cho lũ trẻ. Phấn sáp bầy la liệt trên bàn. Tranh thủ được mấy thứ đó, bà phước Hòa đã phải biện lẽ với bà Nhân mất hơn nửa giờ. Ý bà Nhân muốn cho chúng nó trình diễn một cách mộc mạc. Càng mộc mạc bao nhiêu, khán giả càng thông cảm với chúng bấy nhiêu. Nhưng bà Hòa không nghĩ thế. Bà muốn tỏ cho người ta biết bọn chúng tôi có thể tổ chức không thua kém gì bên ngoài. Nhất là mấy màn múa trong nhạc cảnh Thiên Thần Mừng Chúa sinh ra trong hang Bê Lem. Nếu sân khấu chơi đèn xanh nhạt mà không có phấn sáp, mặt chúng nó sẽ khó coi. Bà Nhân đành phải bỏ ra tới hai trăm đồng mua phấn, son.

Bà Hòa đánh phấn thạo lắm. Bàn tay mềm mại của bà xoa nhanh trên má chúng nó một cách rất nghệ thuật. Điều đó làm cho tôi đoán thêm rằng ngày xưa bà cũng đã có một thời sống trên nhung lụa của xã hội bên ngoài. Nhìn nét mặt thoáng một vẻ trầm tư của bà, tôi chắc bà đang nghĩ tới một điều gì đau khổ. Riêng tôi chưa bao giờ được cầm những thứ ấy. Mùi hương thoang thoảng qua mũi tôi, làm tôi thấy rạo rực. Một ý tưởng khao khát mơ hồ thoáng qua óc tôi, tôi phải xua đuổi đi ngay và tôi thấy ngượng với lòng mình. Còn lũ trẻ thì thích lắm. Chúng nó ngắm nghía mãi bộ mặt đánh phấn và soi gương với một vẻ thích thú. Tôi muốn chia vui với chúng nó nhưng không hiểu sao lòng tôi lại thấy buồn và cũng vì thế mà tôi có vẻ mặt tư lự.

Quan khách bên ngoài hình như đã đến đông đủ, và ban nhạc Trường Mù đã bắt đều dạo nhạc. Âm thanh sôi nổi của những chiếc clarinette, accordéon sen lẫn tiếng trống, tiếng bạt vang lên rộn rã. Tôi liên tưởng ngay đến cuộc sống hiện thời của Liễu, đến những bức tường đỏ như máu, đến ánh đèn néon gay gắt của những tiệm dancing. Lúc ấy lòng tôi tràn ngập thương Liễu. Nhưng tôi lại nghĩ rằng không biết hiện tôi thương Liễu hay chính Liễu đã đang thương hại cho cuộc sống của tôi. Cũng vì vậy mà óc tôi lại bắt đều miên man suy nghĩ. Tôi phải vội quay ra tìm bé Phượng để cắt đứt những ý nghĩ vơ vẩn ấy.

Tôi gặp Phượng trong lúc nó đang tập hát ở buồng dưới. Tôi không ngờ nó hát hay thế. Giọng nó như chim hót. Nếu nó được luyện tập hẳn hòi thì nó cũng chẳng kém gì những nhạc sinh trong ban đồng ca bên Nhà Thờ Lớn. Hôm nay bé Phượng hát bài “Chân trời hào quang” của bà Cécile bên nhà Dòng. Nhìn bộ mặt của nó đánh phấn vào nom xinh tươi như đứa con cưng của một gia đình quí phái. Rồi tôi phảng phất hình dung được hình ảnh chị Loan của nó. Không hiểu sao tôi vẫn có cái ấn tượng rằng Loan đẹp lắm. Có lẽ điều ấy tôi bị ảnh hưởng qua tâm hồn trong sáng của bé Phượng.

Thấy tôi, Phượng giang hai tay ra chờ tôi ôm lấy nó. Tôi ép nó vào lòng tôi như trút cả lòng yêu thương dành cho nó. Hình như tôi có cảm giác rằng Phượng đối với tôi còn thân hơn tình chị em ruột.

Tôi và Phượng dẫn nhau ra phía sân khấu. Ghé tấm màn nhìn ra ngoài, tôi thấy khán giả đã đến đông nghẹt trên tất cả các hàng ghế. Tôi nhận thấy có ông bà Thị trưởng, ông phó Thị trưởng, ông bà Giám Đốc, vài bà Y tá, cùng rất đông các Cha, các Soeur bên nhà Dòng.

Chợt bé Phượng đập tay vào tôi như khám phá ra một điều lạ. Theo tay nó chỉ, tôi thấy con Nguyệt đang ngồi bên ba má nuôi nó. Hôm nay nó diện thật. Nó mặc váy đầm và đầu đã phi- dê ( friser=uốn quăn). Tay nó cầm một cái kẹo mút, thỉnh thoảng nó lại đưa lên miệng với tất cả vẻ sung sướng, đầy đủ. Nó đã thay đổi hoàn toàn từ khi ra khỏi nơi này. Mặt nó bầu bĩnh ra, trắng trẻo và xinh xắn hơn trước nhiều. Tôi cũng lấy làm mừng cho nó. Kể ra nó cũng tốt số hơn lũ trẻ ở đây. Tôi cầu mong cho nó được như vậy mãi.

Bé Phượng đứng bên tôi đã chạy đi từ lúc nào. Một lát tôi thấy nó kéo con Dung trở lại Mặt con Dung hình như có vẻ cảm động lắm. Tay nó run run kéo tấm màn nhìn ra ngoài. Bé Phượng bảo:

– Dung gọi Nguyệt đi.

Con Dung chỉ nhìn ra mà lắc đầu. Hình như nó muốn khóc. Tôi thông cảm với cái buồn của nó. Bây giờ thì con Nguyệt đã xa hẳn nó rồi. Chúng nó không còn là đôi bạn đồng cảnh ngộ. Trong hai thái cực khác hẳn nhau, nó là đứa ở dưới mà con Nguyệt là đứa đứng trên. Điều đó làm lòng tôi se lại. Hình ảnh con Nguyệt với bộ quần áo mồ côi sẽ không còn ở lại trong óc Dung, để mà nhớ nhung, để ôn lại những kỷ niệm nữa. Nó đã mất hẳn hình ảnh người thân yêu nhất trong đời mồ côi của nó rồi. Tôi thấy nó tần ngần một lát rồi lùi lũi ra sân, đi vào trong bóng tối. Từ lúc ấy tôi không thấy bóng nó nữa, mãi sau này, mười một giờ đêm khi tan cuộc vui trở về, tôi mới biết nó đã ngủ trên giường. Bên cạnh nó là cỗ chuyền cũ kỹ của con Nguyệt.

Nhưng tôi không có thì giờ để bận tâm đến điều đó, vì bà Phước Nhân đã cho người đi gọi tôi. Tôi vội rời bé Phượng để xuống gặp bà ta ở buồng dưới. Hình như bà có điều gì giận dữ lắm. Ngang qua cái sân nhỏ, tôi đã nghe thấy bà đang to tiếng. Vừa gặp tôi, bà hỏi ngay bàng giọng gay gắt:

– Con Thu đâu?

Tôi ngơ ngác nhìn bà ta lắc đầu. Người bà dẫy lên đầy vẻ nóng nẩy. Thu là một đứa học trò trong lớp tôi. Nó giữ nhiệm vụ phải đọc bài chúc từ ngày hôm nay. Gần tới giờ khai mạc rồi mà mất hút nó. Bọn chúng tôi nháo lên đi tìm. Thì ra nó đã về giường nằm từ lúc nào. Mấy đứa chúng tôi xúm lại kéo nó dậy. Mắt nó hơi đỏ. Bọn chúng tôi không biết nó khóc về chuyện gì. Hình như nó vừa cãi nhau với con Vân và bị con Vân nói móc một câu gì nặng lắm. Nhưng lúc ấy chúng tôi chỉ biết lôi nó dậy. Tuy vậy nếu không có mặt bà Nhân ở đấy thì nó đã bỏ giở công việc rồi.

Là đêm vui mà lòng chúng tôi chán ngán làm sao. Chúng tôi len lén nhìn bộ mặt giận dữ của bà Nhân. Trong căn phòng ngủ vắng vẻ ấy, bà mắng con Thu không tiếc lời. Bởi vậy con Thu càng khóc dữ. Tôi phải an ủi nó bằng những lời dịu dàng. Tôi lau nước mắt cho nó và đẩy nó ra ngoài sân khấu.

Bộ mặt bi thảm của nó, với cặp mắt còn ngấn lệ, chúng tôi không ngờ lại phù hợp với bài chúc từ của nó thế. Nó đã làm mủi lòng nhiều quan khách. Phía hàng ghế các bà sang trọng tôi thấy có một vài người chấm nước mắt. Mỗi người hiểu bộ mặt ảo não của nó một cách khác. Bà Nhân thì cho nó trẻ con, hễ hơi động vào là khóc, khán giả thì tưởng rằng nó khóc vì hoàn cảnh khổ sở của nó. Nhưng riêng bọn tôi thì chúng tôi thông cảm với nó hơn. Tôi biết rằng nó khóc vì tủi thân, vì có người moi móc đến những cái cơ cực của lũ trẻ mồ côi. Chẳng riêng gì nó, trong hoàn cảnh ấy chúng tôi cũng khóc.

Nhưng phút đầu tiên dầu sao cũng chót lọt. Tất cả chúng tôi đều vui mừng. Và từ đấy trở đi, bọn chúng tôi được hoan nghênh nhiệt liệt.

Tuy vậy hôm nay con Ban không làm trôi vai của nó bằng hôm diễn thử. Điều ấy cũng không có gì lạ. Bởi vì tâm trạng của nó hình như đã nhiễm tính chất kịch ở bên trong. Nó không còn những xúc cảm mãnh liệt của những phút đầu tiên khi nhắc đến một người mẹ. Nhưng các bà phước không nghĩ như thế. Mấy hôm sau này, khi bàn tán đến buổi vui, các bà vẫn cho nó không giữ được bình tĩnh để làm giảm giá trị của vai trò.

Một sự tình cờ làm cho chúng tôi thành công hơn trong buổi tổ chức.

Trong màn đơn ca bản “Lá lành đùm lá rách” của nhạc sĩ Thẩm Oánh do bé Nga lên sáu tuổi ở dưới lớp Năm trình diễn, đáng lẽ Giang phải ra đệm đàn cho nó, thì năm phút trước khi ra trình diễn, Giang thử đàn làm đứt mất một dây. Bởi thế con bé phải ra một mình trước sân khấu. Hình dáng tí teo của nó như lạc lõng trước sự im lặng của hàng ngàn khán giả. Nó bé, người ta đã yêu nó rồi, sự côi cút của nó làm người ta lại càng thương nó hơn. Chính chúng tôi cũng nhận thấy rằng sự có mặt của Giang sẽ làm giảm đi nhiều ý nghĩa.

Điều đó làm cho tôi nhớ đến quang cảnh bận rộn với những tiếng khóc của lũ hài nhi bên salle số 4. Sự đau khổ đến với đời chúng nó quá sớm. Nhưng thà rằng cứ được bé như chúng nó mãi thì có lẽ kiếp mồ côi của chúng tôi sẽ đỡ khổ hơn.

Mười một giờ, màn chót hạ xuống và khán giả ra về trong bản nhạc tạm biệt. Mọi người đổ ra cổng chen nhau như sóng nước. Nhưng khung cảnh ồn ào ấy lần này gieo vào lòng chúng tôi một cảm giác bâng khuâng.

Cho đến khi trong giảng đường chỉ còn tiếng chân đi lại dọn dẹp, lòng chúng tôi lại cảm thấy trống rỗng hơn. Không gì uể oải bằng những giây phút tàn một cuộc vui. Hoa giấy vương bừa bãi. Căn phòng lúc nãy chật chội và ấm áo bao nhiêu thì bây giờ rộng rãi và vắng lặng bấy nhiêu. Dẫy đèn bao quanh sân khấu đã tắt hết. Bây giờ chỉ còn ánh sáng vàng vọt đổ dài trên những tấm vách. Mầu đen thẫm, nhạt in trên tường lại nhắc chúng tôi nhớ tới những buổi tối sau giờ cơm trở về phòng học.

Tôi lại bắt đầu nghĩ đến cuộc sống buồn nản, dài như hàng thế kỷ ở đây.