← Quay lại trang sách

Chương 13

Khi Xintxốp đi tới gần quận ủy thì trên đường phố vắng tanh và lạnh lẽo; ở phía tu viện Nôvô-Đêvitri có một luồng khói mỏng đang bốc lên trời: có cái gì đó đang cháy dở sau trận ném bom đêm qua.

Đến góc phố Xadôvaia, Xintxốp dẫm lên một cuốn danh bạ điện thoại. Nó nằm lăn lóc ngay giữa lòng đường, đã cháy mất một nửa và mở tung ra chỗ chữ cái «TX». «Txilôvít A. V., Txitôvít E. F., Txitôvít I. A....»— anh cúi xuống đọc trang sách đã mở rồi để cuốn sách đi, ngước mắt nhìn lên. Trong cái chòi điện thoại cạnh đó, cửa kính đã vỡ và ống nghe đã bị đốt, chỉ còn một mẩu dây điện thoại thòi ra.

Làn gió lạnh cuốn những mảnh giấy cháy thành than bay qua phố. Một anh công an cùng hai người thường dân thắt dây lưng to và cầm súng trường đứng thường trực trước cửa hàng thực phẩm có một tủ kính bị nứt đôi và một tủ kính khác đã vỡ tan. Xintxốp toan đi đến chỗ họ, nhưng anh nhớ ra là mình không có giấy tờ và có thể bị giữ lại, nên vội vàng đi thẳng.

Năm phút sau, anh dừng lại trước một ngôi biệt thự hai tầng cổ kính xưa kia đã có thời quét vôi vàng với những cây cột màu trắng, còn bây giờ đã được phủ kín dưới màu ngụy trang xám lục, loang lổ.

Xintxốp kéo quả nắm cửa lạnh ngắt bằng đồng về phía mình và bước vào.

Trước đó, anh đã kịp nhận thấy có một chiếc xe đỗ cạnh trụ sở quận ủy và hai người đang xếp những chiếc bao gắn xi lên xe.

Một đồng chí công an vác súng trường đứng trong gian phòng ngoài, cạnh cây xà chắn nhỏ bằng gỗ.

— Anh cần gì?—anh ta hỏi.

— Tôi cần vào quận ủy.

— Gặp ai chứ?

— Gặp đồng chí Gôlubép, — Xintxốp xướng tên họ ông bí thư quận ủy, người mà trước kia đã cấp thẻ đảng viên cho anh ở nơi này và lo lắng nghĩ rằng có thể ông bí thư đã thuyên chuyển đi rồi.

— Đồng chí Gôlubép không có đây. — anh công an nói. — đồng chí ấy đang xuống các đảng bộ.

— Thế thì cho tôi gặp một đồng chí nào đó vậy. Đồng chí nào cũng được. Tôi cần nói...

— Thế anh có giấy tờ sinh hoạt đảng không?

— Không... — Xintxốp nói sau giây lát im lặng nặng nề.— Nhưng tôi cần phải nói, đồng chí cứ gọi bất cứ ai ra đây hộ.

— Tôi không thể làm thế được, anh ạ! Tôi đang đứng gác. Anh cho biết là có việc gì, tôi sẽ gọi điện thoại theo đường dây nội bộ.

Ngay lúc đó, cánh cửa ra vào đóng ập lại sau lưng Xintxốp và một người có vẻ còn trẻ, nhó bé, tóc vàng hoe, mặc quần bó ống và chiếc áo quân phục mùa nóng vừa vặn, thắt chiếc dây lưng to bản của sĩ quan, chạy lên bậc thang. Áo quân phục của anh ta phồng lên và mũi bao súng thò ra ngoài.

— Éptignheép, xếp hồ sơ lưu trữ lên xe xong rồi đây. Thế mà cậu bảo là đến mai cũng chưa xong! — người ấy vui vẻ kêu lên khi chạy qua anh công an và không để ý đến Xintxốp.

— Đây là đồng chí Enkin, — anh công an chậm rãi nói với Xintxốp khi anh chàng tóc vàng hoe chắc nịch kia chạy qua họ,—trưởng phòng nhân sự của quận ủy đấy. Cứ nói với đồng chí ấy.

Nghe nhắc tới tên họ mình, người tóc vàng hoe dừng lại, quay sang và nhanh nhảu reo lên:

— Tôi là Enkin, có việc gì thế?

— Đồng chí Enkin,—Xintxốp tiến một bước về phía anh chàng tóc vàng hoe và nói giọng khàn khàn vất vả. Tôi không có một giấy tờ nào cả, nhưng tôi đã lĩnh cả giấy chứng nhận đảng viên dự bị lẫn thẻ đảng viên tại quận ủy này. Tôi cần nói chuyện với đồng chí, rất cần. — Anh vội vàng nói thêm, tựa hồ như sợ rằng cái anh chàng tóc vàng hoe nhanh thoăn thoắt như con quay này sắp sửa nhảy bật lên trên cặp giò có lò xo và lăn đi dọc hành lang.

Nhưng Enkin không lăn đi đâu cả mà tiến lên một bước về phía Xintxốp.

Trong giây phút đầu tiên, anh ta có cảm tưởng là mình đã trông thấy con người phờ phạc này ở đâu đấy, sau đó lại nghĩ rằng mình chưa trông thấy, nhưng nói chung điều đó chả có ý nghĩa gì. Trong những ngày ấy, ít có ai đến quận ủy mà không có việc quan trọng.

— Thôi được, đồng chí đi theo tôi. —Enkin nói.— Cho đồng chí ấy vào, Éptignheép ạ!

Người công an lặng lẽ đứng tránh ra và Xintxốp đi theo sau Enkin.

Căn phòng mà họ bước vào là một căn phòng nhỏ có cửa sổ ngăn chấn song và chiếc tủ đựng phiếu treo trên tường mà hầu hết các ngăn kéo lúc này đều bị kéo ra và rỗng không Trong phòng kê hai chiếc bàn giấy, một chiếc giường đơn xếp và một cái phản gỗ lót đệm có. Một người đang nằm ngủ trên giường, đắp tấm áo bành tô thường phục màu đen kín cả đầu, và một khẩu súng trường dựa vào tường ở phía đầu giường.

Enkin ngồi xuống phản và chỉ cho Xintxốp chiếc ghế:

— Đồng chí ngồi xuống đây!

Khi nhìn gần hóa ra người tóc vàng hoe không có vẻ trẻ như ban nãy và nét mặt của ông tuy hoạt bát nhưng mệt mỏi. Vừa ngồi xuống là ông đã nhanh nhẹn rút phắt điếu thuốc lá, vê vê, đút vào mồm, sau đó sực nhớ ra, liền chìa bao thuốc cho Xintxốp, nhưng Xintxốp lắc đầu từ chối. Từ sáng, anh đã lại thấy đói vô cùng, cho nên sự là nếu hút lúc chưa ăn uống gì thì sẽ buồn nôn.

— Tôi nghe đồng chí đây!

Enkin khẽ động đậy hai vai và nhắm mắt rồi lại mở ra mấy lần rất nhanh như một người đã từ lâu phải đấu tranh chống cơn buồn ngủ thường xuyên.

— Tên tôi là Xintxốp, — Xintxốp nói.—Tôi đã học ở trường báo chí cộng sản và đã được kết nạp vào đảng cùng như được công nhận là đảng viên chính thức tại quận ủy này...

— Điều đó thì tôi đã hiểu rồi, — Enkin sốt ruột ngắt lời.— Thế bây giờ anh đến đây có việc gì?

Nhưng muốn trình bày rằng tại sao mình đến đây lúc này thì nhất định Xintxốp phải trình bày tất cả câu chuyên đã xảy ra với anh trước đó.

—Tôi biết rằng đồng chí không có thời giờ,— anh nhìn vào mắt Enkin nói. — Nhưng đồng chí hãy nghe tôi kế trong mười phút. Cố nhiên là nếu có thể.

— Sao lại không có thể? Cứ nói đi. Đồng chí đến quận ủy chứ có phải đến nơi chữa cháy đâu...

Xintxốp cứ tưởng là mình có thể kể tất cả những sự việc chủ yếu trong vòng mười phút, nhưng lại nói mất gấp đôi. Nếu anh đến quận ủy tối qua hay đêm qua mà không phải sáng sớm như thế này thì mặc dầu có muốn nghe mấy đi nữa, Enkin cùng không đủ sức để nghe anh kể đến hết.

Xintxốp kể xong, lặng thinh và rút cục vẫn nhoài người tới bao thuốc để trên phản, châm hút một cách thèm thuồng.

Enkin lặng lẽ nhìn anh, trong lòng xen lẫn những cảm tưởng trái ngược. Con người này, nếu tin vào lời nói anh la thì anh ta tuy vừa không có vũ khí vừa bị thương, nhưng dù sao cũng đã chịu cho quân Đức bắt làm tù binh, còn về sau tuy đã bỏ trốn, nhưng khi vượt qua được hỏa tuyến, đã không ở lại ngoài mặt trận, mà đi về nhà ở Maxcơva, nghĩa là nói chung đã có hành động đào ngũ. Đồng thời, Enkin lại muốn giúp đỡ con người đang ngồi trước mặt anh.

Vì sao? Chắc hẳn, trước hết là vì câu chuyện kể có vẻ thành thật mà trong đó không những có điều có lợi mà còn có điều bất lợi cho người này.

— Còn giấy tờ thì tôi chả có gì cả và cũng không có ai để chứng thực những điều tôi nói,—Xintxốp nhắc lại lời mớ đầu câu chuyện.—Lữ đoàn trưởng Xerpilin có thể chứng thực những việc xảy ra trước ngày mồng một tháng mười: dạo ấy ông ta được đưa về bệnh viện Maxcơva. Nhưng bây giờ ông ta có ở đấy không thì tôi không biết. Còn sau ngày mồng một tháng mười thì chả có ai để chứng thực cả.

Khi kể đến đoạn anh đã lọt về Maxcơva bằng cách nào, Xintxốp có nhắc qua tới Liuxin, nhưng anh không đủ sức để lần thứ hai gọi tên và bám lấy cái thằng hèn mạt ấy mong làm chứng cho lòng ngay thật của mình như người chết đuối vớ phải bọt.

— Chả có ai cả,—anh dứt khoát nhắc lại, đứng dậy dí đầu mẩu thuốc lá vào chiếc vỏ đồ hộp đặt trên bàn.

—Thế cái đầu anh bây giờ ra sao rồi? — Enkin nhớ đến bệnh viện, nên sực nghĩ ra, nhìn lên cái đầu quấn băng của Xintxốp và bỗng nhiên hỏi.

— Không sao, hơi ngứa một chút. Có lẽ đang lên da non.

Enkin nhảy phắt dậy và lon ton nhảy lui nhảy tới trong phòng trên cặp giò lắp lò xo của mình.

— Cố nhiên.—ông cất tiếng nói, —anh đến quận ủy là tốt rồi, nhưng làm sao mà để mất thẻ đảng viên được?.. — Enkin bực tức và ngạc nhiên nhún vai, chạy thêm một lần nữa trong phòng. — Người ta không phục hồi đảng tịch cho đâu, —ông dừng lại trước mặt Xintxốp và kiên quyết nói.

— Đồng chí Enkin, hiện giờ tôi chưa nghĩ đến điều đó đâu, — Xintxốp nói. —Tôi cũng hiểu rằng mất thẻ đảng viên là việc như thế nào. Đồng chí hãy nói cho tôi việc khác: bây giờ tôi còn nên đi đến đâu nữa để trình bày tất cả câu chuyện đã xảy ra với tôi và để xin chí có một điều là: thu nhận tôi và cho tôi làm chiến sĩ đi ra mặt trận? Tôi đã kể cho đồng chí nghe hết cả rồi, còn bây giờ đồng chí hãy báo tôi là nên đi đâu và nên làm việc đó như thế nào? Quận ủy ở đây có thể giúp đỡ tôi việc này hay không?

Enkin nhún vai. Bản thân ông cũng chưa biết rằng nên giúp đỡ người này thế nào. Dù thế này hay thế khác, nhưng anh ta đã đánh mất thẻ đảng viên, và sau đó lại bị quân Đức bắt làm tù binh. Tuy vậy người ấy không đi đến nơi nào khác mà lại đến quận ủy và đang đứng không phải trước mặt ai khác mà lại là trước mặt ông Enkin.

—Có lẽ đồng chí Gôlubép có thể giúp đỡ tôi khi đồng chí ấy trở về đây?—sốt ruột vì sự im lặng của Enkin, Xintxốp bèn hỏi.

Enkin chỉ xua tay:

— Gôlubép... Chính tôi cũng đã một ngày đêm nay không trông thấy ông ấy.

Bây giờ Gôlubép đang rối bời như thế nào anh biết không? Ngay tôi đây cùng năm đêm chưa ngủ...— Enkin xua tay lần nữa và cau mặt lại nói rằng có lê đúng hơn cả là nên đi đến gặp ủy viên quân vụ quận: —Còn ai có thể cử người ra mặt trận nữa? Ủy viên quân vụ chứ ai! —khi đã cầm lấy ồng nghe, ông vẫn tiếp tục nói,—Tôi cần nói chuyện với đồng chí Upherép. Enkin ở quận ủy đây. Thế ông ấy ở đâu bây giờ? Nói rõ hơn là ở đâu? Thôi được, tôi sẽ gọi điện nữa. Không có ủy viên quân vụ quận. — Ông bỏ ống nghe xuống.

— Người ta bảo rằng bây giờ ông ấy đang ở chỗ đắp chướng ngại vật, ở đấy thôi, gần cầu Krưm. Quân hàm của ông ta là thiếu tá, họ là Upherép. Anh cứ đi đến đó tìm ông ta và kể cho ông ta nghe, có thể lý do là anh đã gặp Enkin ở quận ủy, Enkin bảo anh đến. Ông ấy biết tôi đấy.

Enkin bốc lên trước cái ý nghĩ này, cái ý nghĩ đã giải quyết được tất cả mọi vấn đề phức tạp ngay tức khắc.

— Còn nếu không tìm ra ông ấy hoặc có chuyện gì thì cứ đến đây lần nữa nhờ anh công an gọi tôi. Rồi tôi sẽ gọi dây nói cho Upherép lần nữa cho ăn chắc. Cứ thế cậu nhé! — Lần đầu tiên từ nãy đến giờ Enkin kết luận bằng cách xưng hô «cậu tớ».

Xintxốp thở dài và đội mũ che tai vào. Chẳng hiểu tại sao anh không chờ đợi một điều gì tốt đẹp cho mình ở cái ông Upherép không quen biết kia và anh không muốn rời khỏi quận ủy.

— Cậu cứ tìm ông ta ở đằng ấy, ở cạnh cầu Krưm, — trong lúc đó Enkin nói.—Tìm ông ở bên trái và bên phải, xung quanh đều đang xây dựng chướng ngại vật, cả trên các phố Mêtrôxtrôépxkaia và Xađôvaia...

Rổi giữa lúc đang giải thích như vậy, trong óc ông ta bỗng nảy ra một ý nghĩ mà ban nãy chưa xuất hiện: «Ngộ nhỡ ra người này bây giờ sẽ rời khỏi quận ủy và không đi đến gặp ông Upherép mà biến mất thì sao? Anh ta đã bị quân Đức bắt làm tù binh kia mà, và nói chung hắn có thể làm được khối việc trong tình hình như thế này ở Maxcơva hiện nay! Tuy ý nghĩ ấy mâu thuẫn với tất cả những điều mà ông đã nghĩ trước đây, Enkin đâm ra do dự. Bây giờ ông muốn là có ai chứng thực rằng ông tin người này là đúng.

— Hay là thế này nhé, anh hẵng đợi tí đã, — bỗng ông lại xưng hô bằng «anh tôi» và bảo Xintxốp. — Đợi tí đã, ngồi xuống đây.

Xintxốp ngồi xuống.

— Này, Malinin! — Enkin gọi to.

— Cái gì thế? — một giọng nói ồ ồ cất lên.

Cái thân hình ở trên chiếc giường đơn động đậy, tấm áo bành tô tung sang bên để lộ ra một người đang nằm mở mắt gối đầu lên tay.

— Malinin này, có một câu chuyện thế này, cần phải hỏi ý kiến cậu. — Enkin nói và ngồi xuống phản. — Anh nhắc lại vắn tắt cho anh ấy nghe đi! —ông quay sang phía Xintxốp.

— Nhưng nhắc lại làm gì kia? — cái người tên là Malinin liền nói. —Tớ đã nghe hết cá, tớ có ngủ đâu...

— Thế cậu không ngủ trong bao nhiêu lâu? —Enkin vội hỏi.

— Chả ngủ tí nào cả, — Malinin đáp. — Tuy trùm áo bành tô lên đầu mà tớ vẫn không ngủ được.

Giọng nói của Malinin càu nhàu, trầm trầm như đi từ ống khói, ông ta bật ra từng tiếng nhát gừng, tựa hồ như đang bực tức vì người ta bắt ông phải mở mồm. Ông ta có bộ mặt tái xám, mệt mỏi, to lớn, nặng nề với những đường nét gãy góc, thô kệch, một bộ mặt có vẻ đẹp cau có riêng của nó. Mái tóc màu gio đã điểm bạc loăn xoăn uốn lượn trên vừng trán cao, dô và hói, còn cái miệng rộng thì mím chặt ra vẻ bực tức. Malinin im lặng nhìn Xintxốp trừng trừng không lấy gì làm niềm nở.

— Nếu đã nghe rồi thì cậu góp ý kiến ra sao? — Enkin hỏi.

— Hãy cho người ta ăn đi, — Malinin nói vẫn với vẻ cau có. — Bánh mì trên bậu cửa sổ, hộp cá cũng ở đó, còn dao...— Lần đầu tiên trong suốt thời gian ấy ông cử động, rút cánh tay to lớn vạm vỡ ở dưới đầu ra, rồi móc trong túi quần ra một con dao xếp, chìa cho Xintxốp. — Cầm lấy...—Và lại luồn tay xuống dưới đầu.

— Quả thực là anh đói lắm nhỉ! — Enkin sức nhớ ra.

Ông ta lao đến bậu cửa sổ, lấy một nửa ổ bánh mì lớn, một hộp cá để ở đó và đặt lên chiếc bàn giấy trước mặt Xintxốp. Xintxốp kéo lưỡi dao ra, định mở hộp cá nhưng tự kìm hãm được và chỉ cắt cho mình một khoanh bánh lớn rồi bắt đầu nhai, cố ăn một cách thong thả.

Malinin nhìn anh gần một phút, sau đó vươn mình tới bàn. cầm lấy con dao, gập lưỡi lại, kẽo mũi dao mở đồ hộp ra, mở hộp cá, bẻ cong cái nắp lên, đặt hộp lên bàn, lại gập mũi dao mở đồ hộp lại, kéo cái lưỡi to mà Xintxốp đã dùng để cất bánh mì ra và luồn tay xuống dưới đầu, trở về tư thế nằm như cũ.

— Enkin này, —ông ta nói, sau khi liếc mắt quan sát thêm, xem Xintxốp ăn bánh trong hai ba phút nữa. — Giá mà cậu cho anh ta uống trà thì tốt.

— Thế trà ở đâu?—Enkin đáp.

— Thế thì cho nước sôi vậy. Chắc là ở trong ấm chỗ bác Tanhia có đấy. Hay là nếu cậu ngại thì tớ dậy vậy?

— Thôi được, cứ nằm đấy. — Enkin nói và cầm lấy chiếc ca nhôm để trên bậu cửa sổ, đi ra.

— Sao, bản thân cậu đã giết được mấy tên Đức rồi phải không?—khi Enkin đã đi ra, Malinin bèn hỏi Xintxốp để tỏ ra rằng ông ta quả thực đã nghe hết câu chuyện anh kể. — Bản thân cậu trông thấy hay nghĩ ra thế?

— Tôi trông thấy chứ.

— Cứ ăn đi chứ, — nhác thấy Xintxốp đặt bánh mì sang bên, Malinin liền nói, nói xong ông ta nhắm mắt lại để Xintxốp hiểu là ông không hỏi gì thêm nữa.

Enkin quay vào và đặt một ca nước sôi xuống trước mặt Xintxốp. Xintxốp ăn ba miếng bánh mì, sau đó định thôi không ăn hết hộp cá, nhưng không nhịn nổi, nên đã ăn hết nhẵn và uống thứ nước sôi bỏng rộp cả lưỡi.

— Cám ơn, tôi đi đây, — anh đứng dậy nói.

— Malinin, cậu khuyên nên thế nào, — Enkin hỏi.

— Khuyên cái gì kia chứ?—Malinin không mở mắt đáp. — Cậu đã khuyên đầy đủ rồi, bây giờ nên làm di!

— Xin tạm biệt! — Xintxốp nói.

— Chúc anh may mắn! — Malinin hé mở mắt ra trong giây lát rồi nhắm lại như trước và đáp.

Enkin cùng với Xintxốp đi ra ngoài.

— Nếu đồng chí này ghé vào đây lần nữa,—ông ta bảo người công an, — thì gọi tôi nhé! Nhớ là Upherép đấy! — Enkin nhắc lại lần nữa và Xintxốp rời khỏi quận ủy đi ra phố.

Bày giờ không còn là thời gian trời vừa mới sáng khi mà vẻ hoang vắng vẻ thành phố là điều tự nhiên. Giò đây vẻ hoang vắng này khiến người ta chú ý.

Anh công an vẫn đi đi lại lại trước cái tủ kính vỡ ở góc phố Dubốpxkaia, nhưng không thấy hai người mặc thường phục vác súng trường nữa. Những chiếc xe ôtô tải đang chạy trên đường vòng đai Xađôvôiê. Một chiếc vừa phóng sát sạt vào vỉa hè, nơi Xintxốp đang đi vừa rít lên. Nó chở sắt đường ray và dây thép; dây thép ở trong thùng xe thõng xuống và rạch nát mặt đường nhựa Một số người xách vali đứng xếp hàng không dài lắm ở bến xe buýt. Hình như họ không còn mong gì đợi được xe. Một số người khác xách vali và đeo đẫy hoặc balô đang đi bộ trên đường vòng đai Xađôvôiê, nhưng hôm nay số người này chẳng lấy gì làm đông. Cũng không thể so sánh với hôm qua. Hôm nay, Maxcơva có vẻ ít nhốn nháo hơn và sẵn sàng chống trả hơn hôm qua.

«Ừ, người ta sẽ chiến đấu đến cùng cho thành phố,— Xintxốp nghĩ thầm.—Chính vì thế mà đang xây dựng chướng ngại vật. Cứ phát cho tôi khẩu súng trường thì tôi cũng sẽ chiến đấu trên các chướng ngại vật này; nếu cần tôi sẽ chiến đấu để bảo vệ thành phố ngay cả ở đây, trong nội thành,— Xintxốp lại nghĩ tiếp. — Chính vì thế mà đang xây dựng chướng ngại vật. Thế mà lẽ nào người ta lại không phát cho tôi khẩu súng trường? Sao nhỉ, tớ là một con người hạng bét đến nỗi không được phát súng để chiến đấu sau những chướng ngại vật này à? Không thể như thế được».

Ở quận ủy, họ đã đối xử với anh một cách đơn giản, không tỏ lòng thông cảm sâu sắc nhưng cũng không nghi ngờ, và cách đối xử như vậy đã khiến anh yên tâm. Nhưng cái điều khiến anh lại còn yên tâm hơn nữa, quả thực đó chỉ là vì vẫn có quận ủy, vì bí thư quận ủy ở đây vẫn chính là ông Gôlubép trước kia, vì có anh công an đứng bên cây xà chắn, vì hồ sơ lưu trữ được chở đến một nơi nào đó chắc chắn, máy điện thoại reo chuông và bắt được liên lạc, thậm chí chỗ bác Tanhia hóa ra vẫn có nước sôi trong ấm.

Sau cái thành phố Maxcơva rối tinh rối mù mà anh trông thấy hôm qua, còn có một Maxcơva khác của quận ủy vẫn binh tĩnh năng dộng, không hề sợ hãi. Trên đờị này không phải chỉ có một mình cái gã tổ trưởng dân phố hôm qua đã quẳng chùm chìa khóa cho anh và nghĩ khác đi, thậm chí là hôm qua, cũng là điều ngu xuẩn!

Hai mươi phút sau, anh đã đi đến gần cầu Krưm. Quả thật bên cầu người ta đã đắp chướng ngại vật chắn ngang một phía là phố Mêtrôxtrôépxkaia, phía kia là đường vòng đai Xađôvôiê. Lúc ấy dây thép và những thanh ray đang được dỡ lừ trên xe ôtô xuống. Đây chính là chiếc xe ôtô tải ban này đã chạy sát cạnh Xintxốp, quét dây thép kêu rèn rẹt trên đường nhựa. Những bao cát được ném từ trên những chiếc xe tải khác xuống đất. Mấy chục người đang cặm cụi cạy đá củ đậu giữa lòng một đường phố nhỏ chạy khuất vào sau ga tàu điện ngầm. Rõ ràng họ đã bắt đầu làm việc này từ đêm: đá củ đậu đã được lột lên xếp thành đống cao như núi. Một phần của phố Mêtrôxtrôépxkaia đã bị chắn ngang; người ta đã đặt những bao cát vào giữa hai hàng cọc gỗ đóng xuống đất, còn đằng trước thì người ta chôn nghiêng những thanh ray và những xà nhà hình chữ I như những chiếc răng nanh lợn lòi. Những xà nhà và thanh ray còn được dỡ từ trên mấy chiếc xe khác xuống và được chặt ra thành từng đoạn ngay tại đó — đằng xa nghe có những tiếng xì ngắn của máy hàn đang cắt kim loại.

Một trung úy đã đứng tuổi thuộc loại sĩ quan dự bị mới tái ngũ, đeo phù hiệu công binh có hình những chiếc rìu nhỏ trên cố áo capốt, đang đứng cạnh chướng ngại vật và điều hành công việc. Xintxốp lại gần ông ta, hỏi:

— Báo cáo trung úy. Đồng chí có thấy thiếu tá Upherép đâu không?

— Ban nãy Upherép có ở đây, ông ta đưa người đến cho tôi và đi rồi. Ông ấy hứa là sẽ quay lại. — Trung úy trả lời mà không nhìn Xintxốp. Sau đó, ông ngửng đầu lên và hỏi: — Thế anh làm sao, ở đâu đến đây?

— Các đồng chí trên quận ủy cử tôi đến đây...

— Thế còn các vị? — ông sĩ quan công binh quay sang hỏi những người khác đã đi đến chỗ ông hầu như cùng một lúc.

Trong đám này có hai người đàn bà, một thanh niên gầy nhom, cổ dài ngoẵng, đeo kính và hai người luống tuổi gầy gầy và không hiểu sao rất giống nhau, đội hai chiếc mũ tương tự như nhau, đã cũ, vành đã thõng xuống.

— Chúng tôi cũng do quận ủy cử đến, —một phụ nữ đáp, — nếu không thì còn ai cử đến nữa?

— Thế thì bà con hãy khênh những thanh sắt đường ray và xà nhà hình chữ L đến chỗ cắt, còn cái nào cắt rồi thì mang trở lại và đặt rải ra cách nhau từng quãng ở phía bên kia ở chỗ mà chúng ta sẽ chôn xuống.

Người sĩ quan công binh bước nhanh qua mặt đường, chỉ rõ nơi phải đặt những thanh ray và xà nhà đã được cắt khúc bằng máy hàn.

— Đi khênh nào! — cậu thanh niên cổ dài ngoẵng, đeo kính bảo Xintxốp.

Xintxốp lặng lẽ khom lưng xuống, nắm lấy thanh ray và vừa cùng với những người khác nhấc nó lên vừa khoan khoái cảm thấy rằng tuy có mệt nhưng tay anh vẫn khỏe gần như xưa. Thoạt tiên họ vác các thanh ray này, sau đó họ dùng giây thép to uốn thành những chiếc móc và bắt đầu khiêng bằng cách xỏ móc vào các lỗ đinh bù loong như anh em công nhân cầu đường vẫn thường làm.

Xung quanh, mỗi lúc một đông người. Trong lúc người này khiêng những thanh ray và xà nhà đã cắt đến và chưa cắt đi, ngược xuôi tất tả, thì kẻ khác dùng xà beng cạy, đục mặt đường, còn ở phía bên kia đường Xađôvôiê thì thậm chí nghe cả tiếng búa hơi gầm vang. Một anh chàng vai rộng, mặc áo quần làm việc của công nhân và áo bông, đang dùng máy hàn hơi để cắt các thanh ray và xà nhà, và mãi một giờ sau, khi người điều khiển máy cắt bỏ chiếc mặt nạ phòng hộ ra ngay trước mắt Xintxốp, anh mới ngớ ra đó là một phụ nữ mũi hếch tóc quăn.

— Các bố già ơi, khiêng lại đây, khiêng lại đây không thì vì các bố mà mọi việc phải dừng lại đấy!—chị ta quát Xintxốp và hai người anh em sinh đôi đội mũ trễ vành đang cùng anh khiêng cây xà. Hai người này đã kịp kể rằng họ đều là cán bộ thư mục ở Viện đăng ký sách. Tòa nhà cổ kính của Viện đăng ký sách ở cách đây không xa, tại phố Xađôvaia, đã bị bom phá sập, và trong khi làm việc, họ đã bàn tán mấy lần về việc này và không thể nào yên tâm được.

— Tôi thấy bất tiện quá, —anh thanh niên cao cao, đeo kính nói với Xintxốp, giọng nhỏ nhỏ, ngượng nghịu. — Đáng lẽ tôi phải ở ngoài mặt trận rồi, cố nhiên, và tói sẽ có mặt ở ngoài đó, nhung tôi vừa mới ra bệnh viện được một tuần, tôi phải cắt chỗ ruột thừa viêm mủ; viêm ruột thừa đúng vào lúc này thì thật là vớ vẩn nhỉ? Anh thấy thế nào? — Và vừa khiêng anh ta vừa nhìn Xintxốp đăm đăm bằng cặp mắt cận thị, ngượng ngùng.

Xintxốp an ủi anh ta rằng viêm ruột thừa là một việc mà mình không thể ra lệnh cho nó lúc nào nên và lúc nào không nên xảy ra.

— Nói chung thì tốt hơn cả là anh đừng khiêng nếu không thì chỗ chỉ khâu còn bục ra nữa đấy...

— Hừ, không đời nào,—chàng thanh niên đeo kính kêu lên vẻ cáu kỉnh, tựa hồ như đường chỉ khâu vết thương của anh ta không có quyền bục ra.

Họ còn tiếp tục khiêng đường ray và xà nhà thêm một giờ hoặc giờ rưỡi nữa và sau đó đến nhập bọn với những người đang đào lỗ trên lòng đường.

—Ái chà, đất Maxcơva rắn nhỉ!—có người nói.

—Tiếc rằng bọn Đức không biết ở đây chúng ta đã đào cho chúng bao nhiêu tất cả rồi, nếu biết thì chúng đã rút lui ngay...

Việc đùa cợt không bị lên án nhưng cũng không được hưởng ứng. Mọi người đều tỏ thái độ nghiêm túc đối với công việc của mình. Mặc dầu không ai nói ra miệng, nhưng ai nấy đều hiểu rằng: phòng xa hay không phòng xa thì họ vẫn cứ đang chôn cọc chống xe tăng Đức, không phải ở đâu khác mà ở trên đường vòng đai Xađôvôiê, đối diện với cầu Krưm.

Sau đó, một đoàn ôtô vận tải chở đến những chạc gỗ quấn dây thép gai và những cọc sắt để làm hàng rào lông nhím. Những cọc này được hàn vội hàn vàng bằng những xà nhà hình chữ I.

— Nhà máy «Búa liềm» hàn đấy, —một phụ nữ trong số người cùng làm việc với Xintxốp nói. — Nhà tôi hôm qua bảo rằng ngày đem ở đằng ấy họ hàng ngàn bộ cọc lông nhím như thế này...

Xintxốp làm việc say mê, nhờ đó mà quên bẵng được nỗi băn khoăn là sau đây mình sẽ gặp chuyện gì. Anh vừa khoan khoái nhấc chiếc xà nhà lên vừa tự nhủ. «Muốn gì thì gì». Anh đã thấy không muốn rời bỏ công việc này, để đi tìm ở đâu đó cái ông Upherép mà anh chả quen biết! Hơn nữa theo lời ông trung úy thì bản thân đồng chí ủy viên quân vụ quận cũng đã hứa là sẽ còn quay lại đây nữa.

Đến trưa một người dàn bà mặc áo bông và trùm chiếc khăn lông tơ màu xám đi tới nơi mọi người đang làm việc và thét to lên:

— Đợt một, những ai làm từ đêm, vào nhà trẻ ăn trưa! Chỉ những ai làm từ đêm thôi đấy! Ai đến làm muộn hơn thì hãy chịu khó đợi đấy đã! Đợt một đi vào nhà trẻ, theo tôi!

Xintxốp không vào cùng đợt một mà theo đợt hai đi vào ngôi biệt thự một tầng ẩn giữa sân sau của một tòa nhà lớn. Nhà trẻ đã tản cư từ lâu, còn biệt thự này đã được dùng làm trạm ăn uống và sưởi ấm cho những người làm việc trên công trường xây phòng tuyến.

Trong nhà trẻ chỉ có đồ gỗ trẻ em; bàn thì thấp lè tè cho nên đành phải hoặc ngồi xổm bên bàn, hoặc ngồi lên trên bàn hoặc dựa vào tường mà húp xúp trong đĩa sâu lòng. Ngoài xúp ra chẳng còn gì nữa; ai không mang bánh mì từ nhà đi thì những người lo xa hơn sẽ chia sẻ cho, nhưng xúp rất ngon, béo ngậy, nấu bằng thịt hộp với tấm lúa mạch.

Xintxốp nhớ đến cảnh ngộ mình làm tù binh lúc đi dọc đường, khi dừng lại ở trong nhà hộ sinh, và nghĩ tới bọn Đức, và nghĩ rằng không thể và không được để Maxcơva lọt vào tay chúng.

— Ai cần thêm nữa, ai cần thêm nữa nào?—chị mặc áo bông và trùm khăn vừa cầm muôi gõ xuống tấm vải nhựa trải trên chiếc bàn phát thức ăn vừa kêu lên. Bây giờ, chị ta vẫn ăn mặc như ban nãy khi đi ra ngoài đường; chỉ khoác thêm tấm áo tạp dề to và bẩn thỉu ở ngoài áo bông.—Bà con ơi, ai cần ăn thêm nữa không, kéo đợt ba vào họ ăn hết đấy!

Xintxốp xin thêm và càng ăn anh càng cảm thấy đói và nói chung hình như là tỉnh hẳn người ra.

Sau khi ăn trưa, họ lại làm cho đến tối mịt. Trời vừa tối là có báo động máy bay ngay; đường tàu điện ngầm ở sát bên cạnh và Xintxốp cùng mọi người chạy xuống đó.

Phụ nữ với trẻ con mò xuống đây trước và đã thu xếp chỗ ăn ở như tại nhà mình: đệm, chăn, gối, chai sữa. Trẻ con đã quen với cảnh này, nên cứ ngủ thiếp đi trong chăn đệm như chẳng có việc gì xảy ra.

Xintxốp tìm được một chỗ trồng, liền ngồi dựa vào tường, vòng hai tay dài nghêu ôm lấy đôi chân cũng dài nghêu và gục mặt vào đầu gối. Hơi ấm và bụng no khiến anh thấy buồn ngú, hơn nữa anh cùng chẳng cố cưỡng lại.

Ngày hôm nay, anh lại sống theo lối mà mình đã quen: cùng với những người khác làm một công việc chung.

«Còn bây giờ, khi nào hết bảo động, mình sẽ đi ra và thế nào cùng tìm được ông Upherép này...»—anh vừa thiu thiu ngủ vừa nghĩ thầm.

— Dịch sang một tí, — anh nghe tiếng phụ nữ nói, — cho tôi đặt cháu!

Anh nhích sang bên mà không mở mắt và nghe người ta đặt một đứa bé đang ngáy khò khò xuống ngay cạnh mình.

— Hôm qua có trận không giáp thứ chín trên trời Maxcơva, — một giọng đàn ông nói.

— Làm như thế thì làm sao được, cho máy bay mình đâm vào máy bay địch!

— Quả thế đây, dùng cái chết để loại trừ cái chết, — một giọng thứ ba đáp lại.

Còn cái giọng một thiếu phụ thì khoái trá ngắt lời:

—Tôi có thể cho những người như vậy tất cả mọi thử!..

— Có thể cho, nhưng họ không có thì giờ nhận đâu,— có người đáp.

Xung quanh người ta kháo chuyện máy bay húc nhau, câu chuyện đó khiến mọi người đều xúc động.

— Bọn Đức bây giờ không dám bay láo bay lếu như trước nữa, — một giọng trầm ồm ồm nói, và mọi người đều đồng ý với lời nhận xét ấy.

— Đúng, đúng, không như trước...

— Đó là sau những lần bị húc.

— Chúng nó sợ bị húc...

Xintxốp đã chập chờn nửa tỉnh nửa mê, cho nên đầu óc đã hoàn toàn bị lú lẫn; anh có cảm tưởng là mình đang bay đi đâu, rồi cứ thế mà ngủ thiếp đi, sau khi đã cố hết sức ngẩng đầu lên khỏi đầu gối và ngả vào tường.

Anh thức giấc vì có ai thúc khẽ vào vai:

— Đồng chí, đồng chí ơi...

Anh mở mắt ra. Đường tàu điện ngầm hầu như vắng ngắt, chỉ đôi nơi thoáng thấy một bóng người. Người thiếu phụ đang cuộn tấm đệm nhỏ và dùng dây buộc lại. Một cậu bé lên năm đội mũ che tai đang đứng cạnh chị.

— Xin lỗi anh nhé, tôi lay anh đấy,—chị ta nói.—Nhưng anh ngủ từ hôm qua đến giờ lâu quá, nên tôi lo có lẽ anh ngủ quên mất cả công việc...

—Vâng, vâng, —Xintxốp nhảy vọt dậy.—Thế thì sao... thế mấy giờ rồi chị?

— Đã bảy giờ rồi đấy.

— Bảy giờ rồi à?

Anh ngạc nhiên nhìn chị và tới bây giờ mới hiểu là mình đã ngủ một lèo hết cả đêm qua.

Vừa đúng một ngày đêm đã trôi qua và Xintxốp lại đứng trước tòa nhà của quận ủy. Một nửa số cửa sổ đã bị bay mất kính và được bịt bằng gỗ dán sơn theo màu tường. Tòa nhà bốn tầng ở xế trước quận ủy bị chặt ngang như dao chém.

Xintxốp từ ga tàu điện ngầm đi thẳng đến đây vừa là vì anh rất muốn đến vừa là vì anh cũng có lý do: chính ông Enkin đã bảo anh cứ ghé vào lần nữa nếu không tìm được Upherép. Hôm qua, anh không tìm ra Upherép và bây giờ lại đến đây lần nữa. Anh mở cánh cửa ăn thông vào phòng ngoài. Anh công an vẫn ngồi ở chỗ cũ, chỉ có khác là quấn băng ở má và mắt. Xintxốp đoán thầm: «Chắc là mảnh kính vỡ làm bị thương».

— Làm thế nào đó gọi đồng chí Enkin anh nhỉ? —anh đi lại gần người công an và hỏi. — Đồng chí ấy đã nói là có thể gọi được.

— Không có đồng chí ấy ở đây đâu. Đồng chí ấy bị thương đang ở trong bệnh viện, đang băng bó...

— Thế bao giờ đồng chí ấy sẽ đến đây?

Anh công an nhún vai.

Xintxốp đứng trước mặt anh ta, không biết làm thế nào nữa. Khi đi đến đây không hiểu sao anh tin chắc là sẽ có kết quả. Anh sẽ gặp Enkin; ông ta đã gọi điện thoại cho Upherép như lời hứa; ngay bây giờ anh sẽ từ đây đi thẳng đến gặp ủy viên quân vụ quận và số phận anh sẽ được giải quyết theo cách này hay cách khác. Thế mà bỗng nhiên mọi việc lại xảy ra không đúng như vậy.

Làm thế nào nhỉ? Đợi Enkin ở đây, đi tìm Upherép hay quay lại làm việc ở quảng trường Krưm?

Anh đứng tần ngần mất chừng một phút, nhìn xuống nền nhà phủ đầy mảnh kính nát vụn và khi ngẩng đầu lên thì trông thấy người bạn láng giềng ở cùng phòng với Enkin. ông Malinin đang đi dọc hành lang, qua gần chỗ đó, tầm vóc cao lớn, vẻ mặt cau có, mắt nhìn vào một điểm đằng trước và bưng chiếc ca nhôm có mùi soa quấn vào quai, ông ta cứ đi, chẳng nhìn ngó ai hết, nhưng khi đi ngang qua Xintxốp, ông bỗng quay sang tựa hồ như từ đằng xa đã nhìn về phía anh.

— Cậu lại đến đây làm gì thế? — ông ta hỏi với giọng càu nhàu. — Không tìm ra Upherép à?

Xintxốp im lặng lắc đầu.

— Cậu đến gặp Enkin à? Enkin không có đây. — Malinin nói tiếp với vẻ mặt tựa hồ như ông ta lấy làm thích thú được báo cho Xintxốp cái tin đó.

— Thế đồng chí có biết ông ấy đã nói về việc của tôi với ủy viên quân vụ chưa? —Xintxốp hỏi,

— Anh ta quên mất chả nói gì hết... —Malinin đáp như nói tới một điều gì tất nhiên. Rồi thật là bất ngờ đối với Xintxốp, ông ta càu nhàu bảo người công an: —Cho cậu ấy vào chỗ tớ nhé. Ta vào đây!

Thế là họ bước vào căn phòng hôm qua, Malinin đi trước, tay cầm ca nước sôi, còn Xintxốp thì đi sau, thắc mắc không hiểu cái ông cau có này gọi mình vào làm gì..

— Ngồi xuống! — Malinin hất hàm trỏ cho Xintxốp chiếc phản và đặt chiếc ca lên bậu cửa sổ rồi đứng tựa vào tường.

Chiếc giường đơn của ông ta đã được xếp dọn ngăn nắp theo tác phong quân sự, chăn đệm không có một nếp nhăn, chính vì thế ông không ngồi lên giường.

— Thế nào, anh ấy bị thương nặng hả đồng chí? — Xintxốp hất hàm trỏ chiếc phản trống có ý nói tới Enkin và hỏi.

— Bị rạch cổ... Sẽ lành trước ngày giỗ tổ! —Malinin đáp.

— Vì mảnh bom hay mảnh kính ạ?

— Vì dao găm. — Malinin đáp và nhác thấy ánh mát của Xintxốp liền nói thêm ra ý không bằng lòng.—Sao cậu lai ngạc nhiên? Cậu tưởng là ở Maxcơva bây giờ người ta không giơ dao găm ra đấy hẳn? Bọn lưu manh ở Maxcơva có ngủ yên đâu, chúng nó cũng làm ăn... Mà cố nhiên là Enkin phải thò mũi vào... — Malìnin nói, chẳng ra buộc tội mà cùng chẳng ra khen ngợi.

— Ban đêm khi anh ta đi xe qua cửa hàng thấy bọn ấy đang cạy cửa liền rút súng lục ra chĩa vào chúng: Giơ tay lên!.. Thế là chúng dùng dao găm đâm cho. May mà không đi một mình, nên đã hạ được bọn lưu manh ngay tại chỗ!

Bây giờ có thể hiểu rằng Malinin tán thành hành động của Enkin, nhưng ông ta nói mọi chuyện đó với cải giọng không bằng lòng chỉ là do thói quen.

—Thế thì sao cậu lại ngạc nhiên? — ông ta lại hỏi Xintxốp. — Theo quy luật tự nhiên thì cháy nhà mới ra mặt chuột. Đôi khi nhìn cảnh đó và tự hỏi: chả nhẽ cả nhà đều đầy chuột bọ hết hay sao? Không phải thế đâu, đừng hòng!

Rõ ràng là ông đang nhớ tới một việc gì khiến ông vô cùng xúc động và không thể dừng lại được:

— Và bọn sâu mọt của chế độ cũ cũng đang thập thò ở các khe hở để gặp cơ hội tốt là chui ra! Hôm qua, chính tay tớ đã quai cho một đứa vào mồm...—Ông ta giơ nắm đấm chắc nịch lên và ngắm quả đấm, tựa hồ như tự ngạc nhiên về mình. — Xin hỏi là sự tự chủ của tớ ở đâu? Tớ vốn có thế tự chủ được, thế mà có lúc lại không đủ tự chủ... Nghĩa là cậu không tìm ra ủy viên quân vụ à? — ông ta tự ngắt lời mình.

— Không, —Xintxốp nói và trình bày rằng hôm qua anh đã làm việc tại công trường xây dựng chướng ngại vật ở gần cầu Krưm, còn ban đêm thì ngủ dưới ga tàu điện ngầm.

— Thế mà hôm qua Enkin ngờ là cậu không đến...— Malinin nhếch mép cười.

— Sợ cậu bỏ trốn.

— Trốn đi đâu và để làm gì kia chứ? — Xintxốp hỏi.

— Chính thế đấy, đi đâu và để làm gì? Còn tớ thì vẫn nhớ cậu. — bỗng Malinin lại tự ngắt lời mình: đó chung quy chỉ là phong cách trò chuyện của ông ta. — Hồi ấy tớ làm công việc của Enkin bây giờ và đã chuẩn bị hồ sơ lý lịch của cậu, khi cậu vào đảng. Trí nhớ của tớ như thế đấy: đã kết nạp chừng ba ngàn đảng viên mới, mà trông thấy những kẻ bị khai trừ cũng đã quá nhiều, nhưng nếu nhìn kỹ thì có thể nhớ được một nửa.

Xintxốp mừng rỡ vì con người cau có này hóa ra lại nhớ việc anh vào đảng và về phía mình cũng cố nhớ lại Malinin, nhưng không nhớ nổi.

— Còn cậu thì đừng cố nhớ ra tớ, — đoán được ý nghĩ của anh, Malinin nói.—Nhớ ra tớ cũng chả có ích gì, còn tớ nhớ ra cậu thì lại có ích đây. Nấy bạn thân mến, làm thế nào mà cậu lại gặp tai họa như vậy?—Malinin lắc đầu.

Ông không có ý xem nhẹ cái tai họa đã xảy ra với Xintxốp. — Hôm qua, từ đầu đến cuối, cậu không nói dối chỗ nào đấy chứ? Tất cả đều đúng sự thật à?

—Tất cả,—Xintxốp nói.

Anh còn có thể nói gì thêm, còn có thể phân trần gì thêm nữa?

Malinin im lặng nhìn anh hồi lâu.

Trái với ông Enkin vui tính, cái ông càu cạu, già đi khi làm việc trong phòng nhân sự quận ủy này, không bao giờ có một ý kiến nhận xét thứ hai, một ý kiến dự bị để phòng xa. Đối với mọi người, ông chỉ có một nhận xét độc nhất tức là tốt hay xấu, ông tin họ hoặc không tin. Nếu ông tin thì tin đến cùng, mà nếu không tin dù chỉ một việc nào đó thì không tin tất cả.

Nếu trong lòng ông còn một chút nghi ngờ rằng toàn bộ câu chuyện của Xintxốp chưa chắc là sự thật thì ông sẽ không nghĩ tới cái việc mà hiện giờ ông đang định làm. Ông chỉ còn phân vân một điều: liệu mình có toàn quyền làm như vậy không?

«Có chứ! — cuối cùng ông quyết định. Mình sẽ tiến hành, chính mình sẽ ở ngay bên cạnh... Và sẽ chứng minh cho Gube... Mà nếu không chứng minh được thì lúc ấy sẽ xem xem».

— Vậy thì thế này nhé. sau một lát im lặng, Malinin nói, —Hiện giờ một tiểu đoàn cộng sản đang được thành lập trong quận này, nhưng trong tiểu đoàn đó không phải chỉ có đảng viên và đoàn viên, mà còn có cả những anh em tích cực ngoài đảng. Tớ sẽ gia nhập tiểu đoàn đó. Đêm qua, tớ đã trình bày, người ta đã đồng ý... Nội trong một đêm đã thành lập thêm mấy trung đội nữa, hiện nay chưa có chỉ huy, tớ được coi là cấp bậc cao nhất trong trung đội; thế thì tớ sẽ ghi tên cậu vào trung đội mình. Sau đây một giờ nữa, chúng ta sẽ lên tiểu đoàn, tới phố Plusikha. Thế nào, ghi tên cậu nhé?— Malinin vừa hỏi vừa rút cuốn vở học sinh gấp đôi để trong túi quần sĩ quan ra.

— Đồng chí còn hỏi làm gì nữa?

Malinin đi lại gần bàn, rút trong túi áo quân phục mùa nóng ra một cặp kính không ăn khớp chút nào với bộ mặt to lớn đầy đặn của ông, mở cuốn vở ra và đưa ngón tay dò trên bản danh sách. Danh sách gồm hai mươi sáu người, ông ta nhúng bút vào mực, ghi thêm số thứ hai mươi bảy và viết nắn nót từng chữ đẹp như mẫu: «Xintxốp»...

— Tên, phụ danh?

— Ivan Pêtơtôvíts.

«I. P.» — Malinin viết xong, thấm khô, lại bỏ cuốn vở vào túi quần và tới lúc đó mới nói:

— Chúng mình đến ra mắt, rồi tớ sẽ báo cáo với chính ủy tiểu đoàn. Xem ông ta giải quyết ra sao... Còn tớ thì sẽ trinh bày ý kiến mình.

Ông ta không nhấn mạnh câu nói này, tuy nó có rất nhiều ý nghĩa. Đã mười sáu năm, ông ngồi ở chiếc bàn nhân sự, và chỉ cách đây hai năm, vì hỏng mắt, nên ông mới chuyển sang làm chỉ đạo viên. Ở quận ủy này, ý kiến của ông rất có trọng lượng, nhất là trong những việc như thẩm tra cán hộ, nên tín nhiệm hay không tín nhiệm. Cố nhiên do đó mà trách nhiệm của ông về con người đang ngồi đối diện mình càng nặng hơn, và Malinin hiểu rõ điều đó tuy không nhấn mạnh.

Câu Malinin nói rằng ông sẽ còn báo cáo với chính ủy đã thoáng qua ngoài tai Xintxốp. Anh quá đỗi sung sướng về việc ngay hôm nay anh sẽ có thể cùng Malinin gia nhập tiểu đoàn cộng sản.

— Suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên ơn đồng chí,— anh nói.

—Thế nhớ để làm gì?— Malinin đáp vẫn với cải tật cau có thường ngày của mình.—Giá mà tớ xoay được cho cậu cái vé để mang cả nồi niêu xoong chảo đi đến tận Cadan thì thật đáng nhớ ơn đấy, — ông ta nhếch mép cười. — Hôm qua đã có chừng hai chục người hứa là đến chết không quên. Còn đối với cậu thì sao nhỉ, tớ chỉ giúp cậu quay ra mặt trận! Rút cục rồi thế nào cậu cũng được ra đó. Khỉ thật, chỉ vì cái bệnh quá sính giấy tờ đâm ra gây phiền hà.

— Thôi được, tôi xin im lặng, — Xintxốp nói.—Chi vì tôi quá mừng về việc đồng chí đã tin tôi. Có thể không tin mà đồng chí vẫn tin. Chỉ có thế thôi.

— Nhưng không thể tin tất cả mọi người đâu nhé,— Malinin lại hiểu lời nhận xét của Xintxốp theo ý mình và tưởng đó là lời phê bình về ý thức cảnh giác nên bực tức đáp. — Bạ ai cùng tin thì có ngày đổ thóc giống ra mà ăn. Thôi mặc thây cậu đổ thóc giống ra mà ăn, làm cho chính quyển Xô viết vung tiền qua cửa sổ. Tớ định cạo râu nhưng nghĩ lại, — ông ta lại tự ngắt lời mình. — Nếu cậu muốn thì cứ cạo đi; dao cạo và chổi xoa xà phòng của tớ để trên bậu cửa sổ ấy. Còn ối thời gian...

Xintxốp vội vàng xoa xà phòng và bắt đầu cạo bộ râu quai nón rễ tre đã ba hôm chưa cạo.

—Tìm phèn chua ở đấy mà xoa; ấy chết, bật cả máu ra như là cạo lông con lợn hoạn ấy. — Malinin nhòm qua vai vào bộ mặt xây xát của Xintxốp và nói.

Nhưng ông ta không kịp chỉ rõ là phèn chua để ở đâu. Có người gõ cửa.

Malinin lên tiếng thưa, Không lấy gì làm niềm nở: «Cứ việc... »— cánh cửa kêu ken két và mở ra. Xintxốp thôi tìm phèn và quay lại. Một người đàn bà cao, hơi gầy, tay cầm chiếc balô đang đứng trước cửa.

— Mình đấy à, tôi mang đến cho mình đấy, — bà ta gọi và Malinin bước tới đón bà..

Xintxốp hiểu rằng đó là vợ Malinin và để cố tránh không nghe họ chuyện trò, anh bèn thu dọn các đồ dùng sau khi cạo râu xong, nhưng một đôi câu nói vẫn vẳng đến tận tai anh.

— Thế thì tốt lắm, — Malinin nói. — Còn cáí này thì không cần. Tôi đã nói không cần là không cần mà lại, hai bộ thay đổi là đủ rồi.

— Mình cứ cầm lấy, em biết để nó vào đâu bây giờ — bà vợ nằng nặc nói.

Nhưng Malinin càu nhàu rằng ông không phải là con lạc đà, mà sẽ không có người mang hộ đâu... Sau đó, Xintxốp không nghe rõ mấy câu, rồi Malinin nói:

— Cầm lấy, bốn trăm đấy.

— Sao lại đưa cả thế, còn mình? — bà vợ nói.

— Tôi bây giờ thì cần tiền làm gì? — ông đáp lại và hình như câu nói ấy làm bà ta đâm sợ, cho nên bà khóc nấc lên.

Xintxốp đã thu dọn xong mọi thứ và không biết làm gì nữa, thành ra vẫn cứ ngồi quay lưng về phía vợ chống Malinin. «Chắc là bây giờ họ đang ôm hôn nhau để từ biệt và nếu họ có nói gì với nhau thì cũng nói rất khẽ... »,—anh nghĩ thầm.

— Cầm lấy bộ quần áo lót này, — bỗng Malinin nói to sau lưng Xintxốp, và một bộ quần áo lót cũ, đã phải mạng nhưng sạch sẽ, bay xuống đùi Xintxốp.

— Tớ thấy là cậu không có gì thay. Bà vợ tớ đã mang đến đây thừa ra một bộ đấy.

Xintxốp quay lại và thấy rằng bà vợ Malinin đã không còn ở trong phòng nữa. Họ chia tay nhau lặng lẽ và kín đáo đến nỗi anh không nghe tiếng bà ta đi ra ngoài.

Malinin nhét hộp dao cạo vào balô, mặc chiếc áo bành tô bằng dạ đen cũ kỹ bên ngoài bộ quần áo nửa quân sự màu xanh và chụp lên đầu chiếc mũ lưỡi trai cũng bằng dạ đen rồi khoác lên vai khẩu súng trường đang dựng trong góc nhà.

— Đi nào!

Khi họ ra đến phố, Malinin dừng lại trên vỉa hè và ngửa đầu ra, đưa mắt ngắm tòa nhà quận ủy, tựa hồ như để ghi nhớ nó cho kỹ hơn trước lúc chia tay.

— Đồng chí đã làm việc ở đây được bao nhiêu lâu? — Xintxốp hỏi.

— Tôi làm việc ở quận ủy này từ năm hai mươi ba, còn làm trong ngôi nhà này thì từ sau khi chuyển tới đây, từ hai mươi sáu. Trước kia có cả kính dày nguyên tấm, —chợt ông nói thêm, — từ thời Nga hoàng còn lại, thế mà trong có một đêm một quả bom đã làm vỡ gần hết nhỉ? Đành phải bịt kín lại bằng gỗ dán như một quán hàng!

Hôm qua và hôm kia, Malinin cùng đã trông thấy đúng những cái mà Xintxốp trông thấy, nhưng với cương vị một cán bộ quận ủy ông còn biết nhiều hơn là trông thấy. Cố nhiên cả hôm qua lẫn hôm kia, bọt đã sủi lên trên mặt nước, nhưng quả thực tình hình dưới mặt nước này cũng đáng lo ngại. Cuộc tản cư đã diễn ra ồ ạt và tới giai đoạn cuối cùng trở thành quá ư vội vã đến nỗi tình trạng đó đáng lẽ còn gây ra nhiều hoang mang hơn trong thực tế.

Mặt trận đã bị chọc thủng, và đã ba ngày đêm nay, người ta ném vào đó như ném vào cái thùng không đáy tất cả những gì có trong tay, nhưng tình hình đến bây giờ vẫn còn gay go lẳm.

Năm giờ sáng hôm nay, khi Malinin tranh thủ một phút rồi ghé vào từ biệt bí thư quận ủy Gôlubép, ông ta nhìn vào mắt Malinin và nói:

— Hôm qua vì bốc đồng nên tớ đã cho cậu gia nhập tiểu đoàn, nhưng hôm nay lại tiếc. Tớ lại cần có cậu ở đây...

—Thế ở đó? — Malinin hỏi và sẵn sàng làm theo lời Gôlubép, nhưng trong thâm tâm không muốn rằng đồng chí bí thư thay đổi ý định.

— Ở đó cũng cần. — Gôlubép nói. — Chẳc là họ sẽ tung các cậu ra trận ngay.

Chỉ có hai người ở trong phòng làm việc, họ công tác với nhau đã được tám năm.

— Hôm nay, tình hình Maxcơva ra sao hở anh? Chỉ cần... Malinin giơ bàn tay đồ sộ chặt ngang không khí để tỏ ra rằng hoặc đừng nói hoặc đã nói thì phải nói toạc móng heo ra.

Và Gôlubép đã nói toạc móng heo:

— Theo tớ thì ngày hôm kia không được sáng sủa lắm. Còn bây giờ thì đang dần dần trở lại bình thường rồi. Rõ ràng là không đời nào chúng ta chịu để mất Maxcơva, nhưng mong sao cho đừng phải đánh nhau ở ngay ngoại thành. Mà cùng đừng phải đánh nhau trong đường phố. Không loại trừ khả năng đó.

Tâm trạng của bí thư quận ủy là như vậy và Malinin không có lý do gì để không tin ông ta được. Đó là một con người mà Malinin biết rõ, một người biết cân nhắc lời nói của mình và không thích nói thừa.

«Có lẽ phải đánh nhau trên đường phố thật cũng nên,— Malinin suy nghĩ trong khi đi bên cạnh Xintxốp, trên đường phố Plusikha, — Nhưng đánh trên đường phố nghĩa là thế nào? Thế thì có nghĩa là đánh ở đây, trên đường Plusikha! Trong ngôi nhà này là quân Đức, còn trong nhà kia là quân ta. Hoặc sau cầu Krưm là quân Đức, còn phía bên kia cầu là chúng ta, chúng ta không cho chúng nó tiến vào trung tâm thành phố. Vậy có nghĩa là giống những trận chiến đấu đường phố năm mười bẩy với bọn học sinh trường sĩ quan Nga hoàng, chỉ có khác là nhân lên gấp trăm lần!» Ồng vừa đi vừa thử cho quen với ý nghĩ đó, nhưng rốt cuộc ông vẫn không thể quen nổi.

— Có lẽ ngày mai chúng mình sẽ ra mặt trận ngay,—sau một hồi lâu im lặng, ông bảo Xintxốp.

Xintxốp gật đầu. Anh đi và suy nghĩ rằng ở tiểu đoàn có súng trường phát cho anh không, hay họ sẽ được trang bị vũ khí ngay ở ngoài mặt trận. Trường dạy nghề nơi mà bây giờ tiểu đoàn cộng sản đóng quân, ở sâu trong góc sân, sau bức tường gạch cao. Có chừng hai chục người mặc thường phục đang xúm xít cạnh bức tường vậy.

—Đây chính là cái trung đội còn lại. — Malinin nói.— Thoạt tiên định họp mặt tại quận ủy, nhưng sau đó lại quy định địa điểm tập trung ở đây. Gần với công việc hơn.

Với một vẻ hiên ngang bất ngờ, ông xốc lại khẩu súng trường trên vai và tiến lại gần những người đang tập trung bên tường.

Hầu hết ở đây đều là những người có tuổi, nhiều người đeo kính, một số mang balô con cóc, số khác đeo balô thường, hai người xách vali con, còn một người nữa lại xách cả chiếc làn đựng quần áo lót buộc rất cẩn thận... Ba bốn người cấm súng săn, hai người có súng trường, một người đeo súng lục ở thắt lưng bên ngoài áo bành tô. Tất cả đều nai nịt chỉnh tề, và tuy ăn mặc linh tinh, nhưng cố sửa vuốt áo quần thế nào cho gọn gàng trong lúc hành quân.

Khi Malinin và Xintxốp đi đến thì họ đang đùa cợt người đàn ông tóc hơi bạc, có chiếc làn đựng quần áo lót.

— Lão Trôphimốp lại sửa soạn đi câu đây, ái chà trông bà xã gói ghém cho kìa! Trong đó nào là thức ăn nhậu trong hai hôm, nào chai rượu, nào gối thêu... Đủ lệ bộ!

— Thế cần câu của bác đâu, bác Trôphimốp? Quên rồi hả?

— A-a, Malinin, Malinin đây rồi!—có mấy người cùng lên tiếng gọi Malinin ngay lập tức.

Rõ ràng là hầu như mọi người đều biết ông.

— Cấp cao nhất đến đây rồi, nghĩa là đã tới lúc tập hợp, — một người nói.

— Thế Ikônnikốp ở đâu nhỉ?—Malinin đưa mắt đếm hết tất cả mọi người và hỏi. — Không đến à?

— Ikônnikốp sẽ không đến đâu, — người xách làn mà anh em gọi là Trôphimốp liền đáp.—Tôi đã ghé vào gọi bác ấy nhưng thấy đội cứu sập đang bới tầng hầm ở đó... Còn bác ấy thì đang ở dưới tầng hầm.

— Thế ở dưới hầm họ có báo hiệu gì không? — Malinin hỏi.

— Họ đang gõ để báo tin là còn sống.

Có người cười khẩy nói rằng không có gì tệ hại hơn các tầng hầm đó, thà chết ở nhà mình còn hơn!

— Nếu Ikônnikốp không đến thì đủ rồi đấy! — Malinin nói.

Họ xếp hàng đôi. Malinin đứng đầu còn Xintxốp thì đứng một mình ở cuối. Thế là họ đi thành đội ngũ vào cái sân rộng thênh thang của trường dạy nghề, ngang qua người lính gác mặc thường phục. Người ấy để họ đi qua và chào Malinin theo kiểu thân mật:

— Chào bác Alêcxây Đênhixứts!

— Chào đồng chí. — Malinin đáp lại có ý không bằng lòng với lối chào hỏi dân sự như vậy.

Ông để anh em đứng ngoài sân và đi vào nhà gặp chính ủy tiểu đoàn báo cáo là trung đội đã đến.

Lâu sau chừng hai mươi phút, ông vẫn chưa trở lại. Cuối cùng, ông quay ra và mặt còn cau có hơn thường ngày.

— Trôphimốp. — ông nói với người xách chiếc làn. — Tôi chỉ định đồng chí làm chỉ huy trong lức vắng mặt tôi. Xin thông báo rằng hôm nay đã quy định là ngày luyện tập, Nội trong ngày hôm nay, các đại đội trưởng sẽ phải đến.

Hôm nay trung đội ta sẽ lĩnh mười lăm khẩu súng trường, còn sau đó sẽ hay.

Việc luyện tập chung bắt đầu vào lúc mười giờ, còn bây giờ thì có thể vào trong doanh trại cho ấm. Chúng ta đã được phân chia phòng số mười chín, phòng thứ hai về bên phải. Còn cậu Xintxốp thì ở lại đây, — Malinin nhìn Xintxốp tựa hồ như ông ta bị đau răng và từng tiếng nói ra đều khiến ông đau nhức. — Chúng ta đi đến gặp chính ủy.

Xintxốp thoáng nghĩ: «Bắt đầu rồi đây».

— Tôi dẫn vào đây rồi, đồng chí hỏi chuyện đi, — khi họ đã đi vào chỗ chính ủy tiểu đoàn, Malinin liền nói, vẫn với vẻ cau có như thế.

Chính ủy tiểu đoàn ngồi trong lớp học, sau chiếc bàn giáo viên; sau lưng ông là tấm bảng đen, trên đó chằng chịt những nét chữ và hình vẽ bằng phấn.

Malínin ghé ngồi xuống bên chiếc bàn học sinh. Xintxốp vẫn đứng.

Chính ủy tiểu đoàn là một người ăn mặc gọn gàng tuổi trạc năm mươi. Ông