Chương 14
Tuyết xuống đã được hai hôm. Hôm nay là một ngày nắng ráo, giá rét và quang đãng.
Malinin đi từ đại đội xuống trung đội, thoạt tiên ông cúi lom khom, chạy qua chỗ trống theo đường giao thông hào tuyết phủ trắng xóa, sau đó leo thẳng lên cái gò đất có nhà máy gạch đã đổ nát; chính trung đội đang bố trí ở chỗ gạch ngói đổ nát này. Tuy trời giá rét, nhưng hơi ấm của mặt trời vẫn thấm qua cả mũ che tai, nhất là khi lên dốc.
Ông dừng lại để thở lấy hơi, quay người lại và nhìn về phía sau.
Phong cảnh thông thường của ngoại thành Maxcơva trải rộng ra ở đằng sau: phong cảnh ở địa hình gò đồi nhấp nhô với những đám rừng nhỏ màu đen và những giải rừng xanh ở chân trời. Gần đó là cơ sở của trạm máy nông nghiệp đã bị cháy thành một mảng màu đen hình vuông — tiểu đoàn bộ đóng ở đó, xa xa thấy những mái nhà của một làng quê— trung đoàn bộ đóng ở đó.
Trên nền tuyết nổi bật lên từng lối mòn mới mở, từng công sự và giao thông hào. Dù cho ngụy trang thế nào đi nữa, bây giờ từ trên cái gò nhỏ bé này vẫn trông thấy rõ những thứ đó. Tuyết làm lộ ra tất cả.
Ngay cái hôm mà các chiến sĩ của tiểu đoàn cộng sản đến để bổ sung cho sư đoàn bộ binh số 31, Malinin đã được phong quân hàm và được chỉ định làm chính trị viên đại đội. Bây giờ, sau mười ngày chiến đấu, ông vẫn giữ chức vụ này.
Các trận chiến đấu diễn ra liên miên và đều đẫm máu; sau đợt bổ sung trong đó có Malinin, sư đoàn lại được bổ sung thêm lần nữa. Thực ra, lần này bổ sung một cách dè sẻn, người ta cảm thấy chưa thể cho đủ, cốt để dành cho tương lai.
Bọn Đức vẫn dành được thắng lợi và hôm nay sư đoàn đã quay lưng về phía Maxcơva mà chiến đấu, lại còn lùi thêm hai mươi cây số về phía đông của phòng tuyến, nơi mà Malinin đã đến gia nhập sư đoàn.
Trong suốt thời gian đó sư đoàn đã rút lui ba lần khỏi trận địa đang chiếm lĩnh. Hai lần vì để cho mặt trận của mình được cân bằng với sư đoàn bạn và tránh khỏi bị bao vây. Còn lần thứ ba là vì một trung đoàn của nó hầu như hoàn toàn bị tiêu diệt, còn hai trung đoàn khác thì không thể chốt giữ được.
Mãi đến sáng hôm sau, sư đoàn mới chặn được quân Đức lại ở xa trong hậu tuyến, trên các trận địa dự bị và đánh gục được chúng ngay trước công sự bằng hỏa lực của chính mình và bằng một đòn công kích với cấp tập hỏa lực của trọng pháo từ trong tung thâm bắn ra. Sư đoàn đã bám chặt lấy những trận địa này và không rút lui nữa, mặc dầu ba ngày đêm trước đó đã trôi qua trong những trận tấn công ác liệt. Giờ đây, Malinin đang đi trên tiền duyên của trận địa đó.
Tình hình tại khu vực của sư đoàn đã diễn biến như vậy, còn tình hình chung trên địa bàn của toàn mặt trận ngoại thành Maxcơva là một cuộc giao chiến phòng ngự lớn kéo dài, trong đó hình như lực lượng của cả bên tấn công lẫn bên phòng ngự đều sắp cạn, nhưng mà mãi vẫn không cạn. Những trận chiến đấu vẫn cứ tiếp diễn một cách ác liệt như trước và cán cân vẫn nghiêng về phía quân Đức. Bọn này tuy thắng thế, nhưng càng ngày lại càng phải trả giá đắt hơn cho từng cây số chiếm được.
Malinin cũng có những cảm tưởng như nhiều người đang chiến đấu ở gần Maxcơva trong những ngày ấy. Những mũi thọc sâu của xe tăng Đức đã không chọc thủng mặt trận của chúng ta giống con dao thọc vào bơ như dạo mùa hè và như những ngày đầu tiên vỡ mặt trận ở Viadơma và Brianxk. Bây giờ lòng người đã dần dần mang một tâm trạng khác, tâm trạng của chiếc lò xo bị một sức mạnh kinh khủng đè nén đến hết nấc, nhưng dù bị dồn ép đến thế nào chăng nữa, khi xuống gần đến nấc cuối cùng, nó vẫn giữ được khả năng tiềm tàng để bật trở lên. Những con người mà trong những ngày ấy bị quân Đức dồn ép bằng cách dần dần và hung hãn, từ phòng tuyến này sang phòng tuyến khác, mỗi lúc một gần Maxcơva hơn, đã có chính cái cảm giác đó cả về thể lực lẫn tinh thần, đã cảm thấy cái khả năng tiềm tàng có thể bật trở lên và đánh trả.
Bản thân họ đã dốc hết sức mình, họ biết rằng sau lưng họ là Maxcơva, không cần giải thích cho họ điều này. Nhưng ngoài ra, căn cứ theo những đợt bổ sung quân số đúng vào những giờ phút nguy kịch nhất, theo số lượng pháo binh ngày càng kéo ra mặt trận đông hơn rõ rệt và theo những dấu hiệu khác, kể từ những thứ quà cáp, thư từ cho đến giọng ăn nói của báo chí, họ còn cảm thấy rằng ở đằng sau họ cả nước đang dốc sức ra để Maxcơva khỏi phải rơi vào tay quân địch.
Nếu một lúc nào đó có cái cớ là Maxcơva có thể lọt vào tay quân Đức thì thời điểm đó cũng đã qua rồi. Người ta chưa chờ đợi chiến thắng ở cửa ngõ Maxcơva, nhưng người ta đã không còn tin vào khả năng chiến bại nữa. Hình như địa lý đang ủng hộ bọn Đức: trên mấy con đường ôtô, chúng nó đã tiến tới những địa điểm cách Maxcơva dưới trăm cây số. Nhưng cái quy luật số học sơ đẳng của chiến tranh mà theo đó những chiếc xe tăng, sau khi chọc thủng mặt trận, có thể vượt qua khoảng cách ấy trong vòng một vài ngày đêm, hiện nay không còn phát huy tác dụng ở vùng lân cận Maxcơva nữa.
Xe tăng có thể chọc thủng mặt trận ở chỗ này chỗ kia, nhưng chỉ sau dăm bảy cây số, rồi chúng cũng bị chận lại bằng cách này hay cách khác. Nhưng theo cái quy luật số học đáng sợ kia thì một mình địa lý cũng không thể đè bẹp được tâm hồn.
Hiện nay, lợi dụng lúc tạm im tiếng súng, trạm bưu điện dã chiến liền đưa thư đến. Malinin nhận được thư vợ.
Quen sống với ông đã suốt hai mươi ba năm trời nay đến nỗi cái tính dè sẻn của chồng về mặt bộc lộ tình cảm tựa hồ như đã trở thành bản tính thứ hai của mình, bà vợ viết cho ông một cách kín đáo là luôn luôn nghĩ tới chồng và cứ lo rằng người ta có phát quân phục mùa đông cho ông kịp thời không nghe nói là sắp có những đợt rét sớm.
Ngoài ra bà báo hai tin mới
Tin thứ nhất liên quan đên cậu con trai. Nhà trường đã tản cư về vùng gần Cadan và ông hiệu trưởng viết thư báo rằng cậu Víchto Malinin, con trai ông bà, học sinh lớp chín, đã biến mất, sau khi để lại mảnh giấy nói là cậu ta ra đi bảo vệ Maxcơva và mặc dầu truy lùng mãi, nhung đến nay vẫn không bắt được.
«Làm gì mà bắt được nó, thằng hủi!»— Malinin dịu dàng nghĩ về đứa con trai.
Bà vợ viết về cậu con với nỗi đau đớn sâu sắc, điều đó lúc đầu đã không khiến cho Malinin thông cảm. «Thôi đành vậy, thằng thanh niên đó mười bảy tuổi rồi» — ông nghĩ thầm ra vẻ can đảm, nhưng sau đó sực nhớ lại buổi tối hôm qua và ngôi mộ tập thể chưa đắp đất trong đó chôn bảy người của đại đội, những tử sĩ đã hy sinh chỉ trong vòng một ngày; ông nhớ lại và đâm buồn, tuy niềm tự hào về hành động của thằng con trai vẫn còn lại trong tâm hồn.
Tin thứ hai có liên quan tới bà vợ: phòng nhà cửa quận, nơi bà làm cán bộ thanh tra lại đang bắt tay vào công tác và bà đã được đề bạt làm trưởng phòng, bởi vì thủ trưởng của bà là ông Kukuskin, mà Malinin có quen, đã từ thành phố Gorki quay về, sau khi ông ta tự ý bỏ chuồn tới đó, và đã bị cách chức, khai trừ ra khỏi đảng, tước quyền miễn động viên và bị đưa ra mặt trận làm lính. Tin này khiến Malinin vui mừng. Cái việc ở Maxcơva người ta đang xử lý với những kẻ như Kukuskin càng khiến ông thêm tin chắc rằng cuối cùng nói chung sẽ đâu vào đấy cả: không những Maxcơva không đầu hàng, mà còn có thể chúng ta sẽ không rút lui đến tận đó nữa kia.
Đối với bản thân Kukuskin, con người mà theo ông là một thằng đại xỏ lá, Malinin tức giận nghĩ rằng thằng cha này sẽ tìm được cách thoát nạn. Hắn sẽ bị tống ra mặt trận, nhưng rút cuộc hắn vẫn bật trở lại như cái nút chai về một nơi nào đó lại hậu phương.
Sau khi nghỉ lấy hơi, Malinin đi đến tận cái gò, nên trung đội của ông đang bố trí. Hôm qua, trận chiến đấu đã diễn ra tới mức mà cả ngày cả đêm ông đều không có mặt ở đây và cảm thấy mình vô cớ mà có lỗi. Ông đã đặt ra tục lệ là mỗi ngày ít ra một lần đến thăm từng chiến sĩ của mình anh em trong đại đội không còn nhiều lắm nữa. Hơn nữa, sự đời là thế đó — hôm qua chưa kịp đến thăm thì hôm nay đã không thể gặp mặt nữa; hôm qua, trung đội lại bị tổn thất và theo số liệu ban sáng thì trong trung đội chỉ còn vẻn vẹn mười một chiến sĩ, kể cả trung đội trưởng là trung sĩ Xirôta. Anh chàng Xirôta này chỉ huy trung đội đã được một tuần, sau khi cả hai trung úy đều chết trận trong một hôm: buổi sáng là người đã chiến đấu từ ngày đầu chiến tranh, còn buổi chiều là người kia, một người mới được giới thiệu thẳng từ nhà trường đến thay thế người thứ nhất.
Đống đổ nát của nhà máy gạch nói thực ra chẳng phải là đổ nát, vì ở đây chẳng có gì để mà đổ nát đâu. Nhá máy mới được bắt đầu xây dựng và đã bị bỏ dở. Đã đắp nền, xây bệ lò và bắt đầu xây tường đến những độ cao thấp khác nhau, nhưng chả có ở đâu cao quá nửa cửa sổ, ống khói tương lai của nhà máy cũng đã được xây bệ ở ngay đây, hơi xa hơn một chút. Cái bệ tròn đồ sộ nhô lên khỏi mặt đất một thước, còn trong lòng thì được khoét sâu để thông khói ngầm dưới đất. — Nó tựa hồ như một lô cốt thiên nhiên hình tròn mà bây giờ chỉ cần sửa sang cho thích hợp với một ổ súng máy.
Ngay từ ba hôm trước đây, khi chiếm lĩnh trận địa này, vì bản thân vốn là một xạ thủ súng mảy cũ, Malinin đã khuyên nên lợi dụng triệt để cái ống khói và hôm kia đã trông thấy Xintxốp vác khẩu đại liên đến bố trí ở đây; anh đã được phiên chế vào đại đội của Malinin từ khi bắt đầu đánh nhau, một phần do sự tình cờ, bởi vì nói chung anh rất có thể rơi vào một trung đoàn và tiểu đoàn khác, còn một phần do ý muốn của Malinin, bởi vì khi đã phiên chế vào tiểu đoàn này rồi thì Malinin đã nói giúp một lời, và trong lúc phân phối lực lượng bổ sung, người ta đã sắp xếp Xintxốp vào đại đội của ông.
Chả mấy chốc đã phát hiện ra rằng Xintxốp quả thực là một người từng trải và biết cách sử dụng vũ khí. Như thường tình trong những ngày đánh nhau to, con nhà lính được thăng chức nhanh vùn vụt, buổi sáng đầu tiên anh giữ chân đâm băng, buổi chiều đã làm xạ thủ số hai của khẩu «Macxim» nhưng sang ngày hôm sau đã thay thế ngườị số một bị chết trận. Cách đây bốn hôm, khi rút lui từ trận địa cũ đên trận địa nơi này, Xintxốp đã cùng xạ thủ số hai dùng hỏa lực súng máy bắn yểm hộ mãi đến tận tối cho đại đội rút lui và theo ý kiến của trung úy đại đội trưởng Iônốp thì trong lúc đó anh đã tỏ ra gan dạ và chịu đựng.
Trung úy Iônốp thậm chí còn nói rằng nên đề nghị thưởng huy chương «Dũng cảm» cho xạ thủ số một, nhưng Malinin vẫn nhớ câu chuyện cũ của Xintxốp, thành ra ông đã tránh được sự vội vàng. Bản tính nghiêm khắc và tinh thần trách nhiệm của ông đối với Xintxốp không cho phép ông vội vàng trong việc này. Ông chỉ tỏ ý khen ngợi và nhắc đến tên họ của các xạ thủ trong bản báo cáo công tác chính trị thường kỳ về hoạt động của khẩu đội súng máy, còn đối với lời đề nghị viết tờ trình để tặng huy chương thì ông cứ làm thinh. Rồi đại đội trưởng vì bận rộn công kia việc nọ, cho nên chính mình cũng quên mất Xintxốp.
Bây giờ Malinin muốn đến thăm Xintxốp, nhưng ông không đi đến ổ súng máy mà thoạt tiên đi đến chỗ gạch ngói đổ nát của nhà máy, nơi trung sĩ Xirôta bố trí quân.
Trung sĩ Xirôta cố nhiên cũng giống như mọi người, không tránh khỏi được cảm giác sợ hãi trước sự nguy hiểm, nhưng cảm giác đó không đóng một vai trò đặc biệt trong những suy nghĩ của anh về công tác. Anh cũng có thể bị giết như bất cứ người nào khác — nói chung tất cả, kể cả công tác trong quân đội, đều kết thúc như thế, tuy nhiên ý nghĩ về cái chết không thể ảnh hưởng đến tinh thần nghiêm túc hoàn thành công tác.
Nhác thấy chính trị viên đại đội từ đằng xa, Xirôta đã siết chặt thắt lưng ngoài tấm áo bông, kiểm tra xem ngôi sao trên mũ che tai có nằm đúng vào giữa trán không và khoác lên vai khẩu tiểu liên K-50 mới toanh vừa lau dầu.
Sư đoàn bắt đầu lĩnh những khẩu tiểu liên nay vào tuần trước; Xirôta là người đầu tiên trong trung đội được trang bị loại súng ấy và anh đã thử lửa nó; mặc dầu khẩu tiểu liên không có thước ngắm độ chính xác như khẩu súng trường, nhưng nó có thể bắn gục hàng loạt tên địch cùng một lúc và bây giờ, trong thời gian đầu, Xirôta đã tỏ thái độ chú ý, thậm thí quá mức, đối với khẩu K-50 của mình.
Mang khẩu K-50 lên vai xong, anh liền chạy qua lỗ cửa trên tường ra đón chính trị viên. Để đáp lại cái chào nghiêm túc hoàn toàn đúng tác phong của Xirôta, thoạt tiên Malinin đặt tay lên vành chiếc mũ che tai, nhưng sau đó lại chìa tay ra cho trung sĩ bắt.
— Xirôta, sinh hoại ra sao?—Ông ta vừa hỏi vừa dùng bàn tay nặng trịch của mình siết chặt lấy bàn tay cũng nặng trịch như vậy của Xirôta.
— Báo cáo chính trị viên, ăn uống thất thường lắm ạ! — Xirôta liền kêu ca.
Theo kinh nghiệm đời lính của mình, anh thừa biết rằng lúc nào có thể và lúc nào không nên kêu ca với cấp trên và lúc nào có thể thì bao giờ anh cũng kêu ca.
— Tại sao lại thất thường?—Malinin đã biết là vấn đề gì rồi, nhưng cứ làm ra vẻ không đoán được.
— Báo cáo chính trị viên, thế chứ sao nữa ạ, mờ sáng hôm nay, anh em mang phích đến, nhưng chỉ lĩnh được một số đủ đựng hết trong cà-mèn...
— Quy định bao nhiêu thì phát bấy nhiêu chứ, —Malinin nói, theo quân số có mặt. Như vậy thì có gì đáng bực mình?
— Tôi có bực mình đâu, —Xirôta nói, mặc dầu đúng là anh ta không bằng lòng về việc đó; anh ta không cho biết số thương vong và tính toán rằng hôm nay số được lĩnh thực phẩm theo mức hôm qua.
— Còn cái gì không tốt nữa? — Malinin hỏi.
— Thì chính đồng chí cùng biết đấy, — Xirôta nhún vai và vẻ mặt của anh có ý nói «Trời không mây, ai dám đòi ngay mưa rào».— Không chở đến thì biết làm thế nào nhỉ?
— Đó là câu nói về chuyện thuốc hút phải không?
— Báo cáo chính trị viên, còn về chuyện gì nữa chứ? Tình hình cung cấp đạn dược bình thường, chúng tôi không kêu ca gì.
Malinin nhếch mép cười, móc túi dết và móc ra bốn gói thuốc sợi rời.
— Này, cầm lầy chia cho anh em. Hôm nay vừa đúng lúc nhận được quà của những người đỡ đầu từ Maxcơva gửi đến thế là mình cầm luôn thuốc đi.
Đằng mình có cả thuốc lá điếu rồi sau đây sẽ đem tất cả đến cho các cậu, chiều nay...
Xirôta cầm lấy thuốc ở tay Malinin và thậm chí thở dài vì sung sướng; cứ nhìn mặt anh ta cũng thấy là từ lâu anh ta nhịn hút.
— Hút đi! — thoáng nhận thấy vẻ mặt đó, Malinin liền nói,—mình cũng hút đây. — Rồi ông móc bao thuốc sợi rời bóc dở ở trong túi ra, đổ thuốc cho mình và cho Xirôta, xong bắt đầu quấn một điếu.
— Có lẽ ta vào trong kia nhỉ?—Xirôta nói.—Trong đó, chúng tôi đã đào hàm ếch ở một bức tường và căng một tấm áo choàng mưa lên che.
— Được đấy, ở đây gió thật, — Malinin nói. — Thời tiết tốt lắm.
— Báo cáo chính trị viên, thế thì ngay bây giờ! Nêu đồng chí cho phép, tôi sẽ chia thuốc cho anh em chiến sĩ ngay.
— Tất nhiên rồi...
Xirôta biến vào trong lỗ cửa, gọi ai đó và chắc là ra lệnh chia thuốc sợi rồi quay ra chỗ Malinin.
Xirôta vào bộ đội từ khi còn theo luật nghĩa vụ quân sự cũ, nghĩa là không phải lúc mười chín tuổi mà lúc hăm hai tuổi. Bây giờ anh ta mới hai mươi tám, nhưng vì luôn luôn có dáng bộ đăm chiêu cho nên trông có vẻ già trước tuổi. Tuy vậy lúc bây giờ, khi anh đang quấn điếu thuốc, một nụ cười nở rộng trên mặt anh.
— Cậu có gì mừng thế? — Malinin hỏi.
— Báo cáo chính trị viên, thời tiết ạ. — Xirôta khéo léo khum bàn tay lại che ngọn lửa và châm điếu thuốc. — Giá mà băng giá thêm nữa thì tốt.
— Tốt cái gì kia chứ? — Malinin hỏi. —Băng giá nhiều thì ở dã ngoại gay đấy.
— Thế mà tôi lại thấy trước là đối với chúng mình gay thật nhưng đối với bọn Đức còn gay hơn. — Xirôta vừa nói vừa tủm tỉm cười tựa hồ như nhờ quyền lực cá nhân của mình nên đã chơi khăm bọn Đức một vố. — Trong trung đội tôi có một sinh viên hóa chất năm thứ tư, cậu ấy nói là dầu mỡ của không quân bọn hắn không chịu nổi băng giá cho nên bị đông lại. Đồng chí trông xem, — Xirôta hất hàm trỏ lên trời. —Đây là hôm thứ hai thật sự mùa đông và là hôm thứ hai mà máy bay bọn Đức ít cất cánh. Có lẽ nếu trời cứ giá rét hơn nữa thì dầu mỡ trong xe tăng của chúng nó cũng đông lại đấy nhỉ?
— Còn cậu thì đừng sợ xe tăng.
— Nhưng tôi có sợ đâu. Chúng tôi đã đốt cháy hai chiếc...
— Hai chưa phải là tất cả.
— Đối với một trung đội kia mà!—Xirôta bực mình phản đối. — Đống chí hãy tính xem, nếu chỉ lấy các trung đội bộ binh thôi: một trung đội là hai chiếc, một đại đội là sáu chiếc, một tiểu đoàn là mười tám chiếc. Một trung đoàn là năm mươi tư chiếc, — anh ta bấm đốt ngón tay, tính tiếp, — một sư đoàn là một trăm sáu mươi chiếc, mà mười sư đoàn vị chi đã là một ngàn sáu trăm...
Xem này, giá mà bọn Đức khi đến gần Maxcơva đã không còn xe tăng nữa.
Giá mà tất cả đều như thế nhỉ! Nhưng phải chăng mỗi trung đội trong tất cả các trung đội quân ta đều đốt cháy được hai chiếc xe tăng? Cứ lấy tiểu đoàn ta làm thí dụ thôi. Tôi chưa biết một trung đội nào đã dốt cháy được hai chiếc xe tăng, trừ trung đội chúng tôi! — anh ta kết luận ra vẻ tự ái.
— Thế nghĩa là cậu đã tính hết rồi, tính hộ cho cả một mặt trận, — Malinin nhếch mép cười.—Cậu đã làm xong việc của chính mình rồi, đã đốt cháy hai chiếc xe tăng phần mình rồi và có thể rúc vào bếp mà sưởi ấm: bây giờ để cho người khác làm, bây giờ đến lượt họ phải không?
— Tại sao kia? Tôi không quen lập luận như vậy đâu. Tôi chỉ vì sự thật mà nói rằng hai chiếc xe tăng đối với một trung đội không phải là ít.
— Mình không nói là ít, — Malinin nói, — mà mình nói là không nên đặt hy vọng vào dầu mỡ. Băng giá làm hỏng dầu mỡ của bọn Đức, pháo sẽ ngừng bắn, tiểu liên sẽ bị tắc và chỉ còn cách là cào lại và xếp thành đống như đống củi! Tinh thần đó không đúng đâu, đừng vì thế mà yên trí.
— Nhưng quả thật chúng tôi có yên trí đâu? — Xirôta nói. Khi ở tư thế «nghỉ» anh ta không quen nót năng hoạt bát. Anh dang tay rồi ngửa đầu lên nhìn trời. — Tất cả những điều đó đều là sự lừa dối, — anh ta vừa nheo mắt vì chói nắng vừa nói. — Nếu chúng nó định trả đũa thì tất cả thời tiết này cũng sẽ chỉ còn lại khói bụi...
— Thôi được, chúng đi thăm trận địa của cậu đi. — Malinin vứt đầu mẩu thuốc lá, di chân lên và nói, rồi chui vào lỗ cửa trước tiên.
Mười phút sau, ông ta đã ngồi trò chuyện với anh em chiến sĩ, như lệ thường trong những giờ phút tạm im tiếng súng. Có sáu người quây quần xung quanh ông, những anh em còn lại đang ở tại vị trí của mình, trong số đó có cả Xintxốp, nhưng Malinin đã quen vớì tình hình là không thể tập trung tất cả mọi người cùng một lúc nên cũng bằng lòng với đám thính giả hiện có.
— Này. Mikhnexốp, — anh bảo người chiến sĩ trẻ tuổi gầy gò, đang ra sức rít điếu thuốc lá quấn, — cố nhiên cậu là nhà hóa học còn mình thì không, cậu am hiểu vấn đề lắm; này cậu nói là chất đốt của máy bay quân Đức không chịu được băng giá, còn trong xe tăng của chúng thì dầu mỡ cùng bị đông lại và theo cậu thì có lẽ hệ thống đại bác của chúng nó sẽ ngừng hoạt dộng và các khẩu tiểu liên sẽ bắt đầu tắc. — Câu chuyện này đã khiến Malinin lo lắng và bây giờ ông ta đang kiên quyết xoay chuyển câu chuyện bằng mọi cách, định bụng rốt cuộc sẽ xoay chuyển được nó theo ý mình và đặt vấn đề theo cách mà ông cho là đúng. — Mình nhắc lại rằng có thể như thế: cậu là nhà hóa học, cậu thấy rõ hơn, nhưng riêng mình dây thì không hy vọng vào tất cả những điều đó. Cậu hy vọng, còn mình thì không. Hơn nữa, mình nói rằng: cậu hy vọng là lúc thời tiết băng giá, vũ khí và phương tiện của quân Đức sẽ ngừng hoạt động, còn mình thì không hề hy vọng một chút nào vào điều đó, mình chỉ hy vọng vào cậu, vào Mikhnexốp. Mình hy vọng vào cậu, hy vọng rằng bất cứ thời tiết nào, tâm hồn cậu cùng sẽ không run và cả khẩu súng trường, cả quả lựu đạn, tất cả những gì cậu có trong tay đều không ngừng hoạt động, bởi vì nếu tâm hồn cậu không run thì dù cho tất cả vũ khí và phương tiện của quân Đức vẫn hoạt động như chiếc đồng hồ ngay cả trong thời tiết băng giá ba mươi độ âm, thì dù sao chúng vẫn không tiến đến Maxcơva được. Nhưng nếu tâm hồn cậu ngừng hoạt động thì lúc đó chúng sẽ tiến vào Maxcơva được trong mọi hoàn cảnh, có vũ khí và phương tiện hay không có vũ khí và phương tiện, trời băng giá hay không băng giá đằng nào cùng vẫn cứ vào được! Thế nào, nhà hóa học, cậu sẽ nói sao về điều đó?
Rõ ràng Mikhnexốp không phải là một thanh niên ngờ nghệch; anh ta hiểu ngay rằng chính trị viên sẽ lái câu chuyện về hướng nào. Tuy nhiên, anh vẫn hết lòng mong sao cho tất cả ba mươi ba điều bất hạnh sẽ trút xuống đầu bọn Đức đang tấn công Maxcơva, và anh bắt đầu hăng hái nêu lên những lý lẽ mới khác nhau về thời tiết băng giá ở nước ta và vũ khí, phương tiện của quân Đức.
— Được, cứ giả thiết là như vậy, — vì cảm thấy rằng mình đã đánh bại được giọng lưỡi chủ quan đáng lo ngại, cho nên Malinin nói ra vẻ hiền hòa, — để cho chúng nó tối tăm mặt mũi lại! Nhưng cậu đã hiểu rằng vấn đề chủ yếu không phải ở chúng nó mà là ở cậu chứ? Không phải ở chỗ dầu mỡ của chúng sẽ đông lại, mà là ở chỗ cậu sẽ chiến đấu ra sao chứ?—Malinin bắn liên hồi vào một điểm.
— Vâng, báo cáo chính trị viên, cố nhiên chúng tôi hiểu điều đó,—mấy người cùng trả lời một lúc.
— Xirôta này, — Malinin ngừng lại trong chốc lát rồi nói, — hôm nay là thứ mấy nhỉ, thứ năm à?
— Thứ năm ạ.
— Cậu hãy chú ý là ngày thứ bảy sẽ có cuộc họp đảng ủy trung đoàn. Hôm ấy sẽ có vấn đề của cậu, cậu sẽ được kết nạp vào đảng.
— Tôi rất sợ bị hỏi, — Xirôta nói. — Tôi thì bao giờ cũng vẫn thế: khi chưa hỏi gì thì tôi hiểu tất, hễ có người hỏi là quên tuốt. Thật là trớ trêu!
— Từ sáng hôm nay, cậu ấy đã đọc thêm một lượt nữa cả Điều lệ lẫn «Giáo trình cơ sở», cậu ấy đang chuẩn bị đấy. — một chiến sĩ đã có tuổi nói như kiểu bố với con. Đó chính là Trôphimốp, người mà trước khi vào doanh trại của tiểu đoàn cộng sản đã bị các đồng chí khác đùa là ông ta làm y như sửa soạn đi câu cá. Bây giờ ông đội mũ che tai, mặc áo bông, khoác capốt bên ngoài áo bông, trông ra vẻ một người lính chính cống và chỉ có bộ ria bàn chải bạc trắng là làm lộ ra tuổi tác của ông. Ông đã đến đại đội này cũng một đợt bổ sung với Xintxốp và sau bao nhiêu lần thương vong, chỉ còn lại một mình ông là đảng viên ở trong trung đội.
«Nếu không tính Xintxốp», — Malinin nhớ ra và ngay lúc đó lại nghĩ rằng không thể tính Xintxốp được: nếu đã bị mất thẻ đảng viên trong những hoàn cảnh không được xác minh thì thậm chí dù có lập được chiến công chăng nữa vẫn có thể không được phục hồi đảng tịch.
— Còn bác, Trôphimốp ạ — Malinin nói. — bác hãy giúp Xirôta chuẩn bị. Tuy cậu ấy là trung đội trưởng còn bác là chiến sĩ, nhưng bác là đảng viên cũ và trong vấn đề này bác là bề trên đối với cậu ta.
— Vâng, đồng chí ấy đang giúp đấy, — Xirôta lên tiếng,— và cuốn «Giáo trình cơ sở» là của đồng chí ấy, tôi chỉ có cuốn Điều lệ thôi.
— Bác mang theo từ Maxcơva đi à?—Malinin nhìn Trôphimốp.
Trôphimốp gật đầu và nói:
— Tất cả bọn trẻ cứ tra khảo tôi về Maxcơva. Maxcơva ra sao và, phải, nghe nói là ở đó hoang mang lắm... bác hãy kể xem tình hình ra sao. Còn tôi thì trả lời; nếu có chuyện gì thì tôi cũng đã quên mất rồi. Bây giờ cũng như Lermontốp, tôi còn nhớ câu nói: «Anh em ơi, có phải Maxcơva ở đằng sau lưng chúng ta không? Chúng ta sẽ chết ở ngay gần Maxcơva!...» Tôi học câu đó từ thời Nga hoàng. Từ đầu thế kỷ này, hồi ở trong trường xứ đạo, thế mà vẫn không quên kia đấy!
— Thôi được, — Malinin nói. — Nếu các đồng chí muốn biết tin tức Maxcơva thì tôi có thể kể những tin mới nhất. Tôi vừa nhận được thư của nhà tôi...
Ông ta kể nào chuyện thằng con trai đã trốn ra mặt trận, nào chuyện bà vợ quay về làm việc ở phòng nhà cửa quận và chuyện Kukuskin bị tước quyền miễn động viên và bị đưa ra mặt trận.
Các chiến sĩ nghe chuyện có vẻ đồng tình; ai nấy đều bằng lòng vì Kukuskin đã bị tước quyền miễn trừ: đối với hắn phải thế, đồ quỷ!
— Nghĩa là trật tự đang được lập lại ở Maxcơva.— Trôphimốp nhếch mép cười, — thế là tốt. Còn chuyện thằng con ông bỏ trốn thì giận hay không giận là tùy ý ông, Alếcxây Đênixứts, còn nếu trước kia nó là thằng du côn thì nghĩa là nó vẫn như thế. Mình ở cách nhà ông hai phố, nhưng cũng có biết những trò ma mãnh của nó...
— Không sao, — Malinin nói có ý hơi tự ái về ý kiến đó, — Chính mình vào lứa tuổi nó cũng đã từng là một thằng du côn loại cứng...
—Nhưng mà thế nào,—người chiến sĩ trẻ, xanh xao, từ nãy đến giờ vẫn ngồi im lặng, chống tay vào cằm, bỗng hỏi. — Sau những trận ném bom thì quang cảnh Maxcơva thế nào chứ nhỉ? Chính tôi đây là người Maxcơva, nhà tôi ở Côrôvi Van.
— Côrôvi Van của cậu vẫn nguyên vẹn, — Malinin nói.— Mà chắc là Trôphimốp đã kể chuyện cho các cậu nghe hàng chục lần rồi. Các cậu cứ tin vào bác ấy, bác ấy là một lão nông nghiêm túc, không rượu chè và không nói dối, dù là dân chài cũng vậy thôi!
Mọi người cười rộ.
— Nhưng dù sao,—anh chàng người Maxcơva ở Côrôvi Van chưa chịu yên,—chả nhẽ ở Maxcơva lại ít bị tàn phá như đăng trên báo ấy à... Thì đêm nào chúng nó cũng bay trên đầu ì ầm, ì ầm...
— Bay nhưng không bay đến nơi. —Malinin nói.— Không phải viên đạn nào cũng bay đến cậu đâu! Đối với Maxcơva cũng vậy. Ở đây, cậu có cảm tưởng rằng ở đó, mỗi trận ném bom là một chuyện ghê gớm, còn tôi khi đi ra mặt trận thì đầu gối cứ run lẩy bẩy, nhưng khi đi đến nơi thì hình như chẳng sao cả.
— Ái chà, đồng chí chính trị viên, đồng chí có nói thật đâu: đầu gối run lên kìa ạ! — Xirôta tỏ vẻ không tin một cách lễ phép.
Malinin lườm anh có ý chế giễu.
— Thì chính thế đấy, run mà lại! Cậu làm sao thế, cậu cứ tưởng rằng tớ không biết sợ hay sao? Sợ quá đi chứ lại, — Malinin cúi xuống trước tiếng rít của viên đạn đại bác bay qua rất thấp rồi vẫn đủ sức để đùa: — Thấy không, tớ cúi chào đạn pháo...
Vài ba người mỉm cười, nét mặt của những người kia có vẻ nghiêm trang: quả đạn nố quá gần nên không thể đùa được. Phát đạn thứ hai, cũng là phát bắn thử như phát đầu, nổ tung ở đằng trước. Mọi người chạy tản ra nấp dưới chân tường. Còn pháo binh Đức thì bắt đầu bắn hết phát này đến phát khác, như điên như cuồng, giã vào khắp cái gò có nhà máy gạch. Mùi khói bốc lên khét lẹt.
— Bọn khốn nạn, chính hôm qua chúng nó đã bắn thử, khi chúng ta đánh trả lại cuộc tấn công của chúng! — Xirôta thét vào tai Malinin. — Hôm qua dội nhưng chẳng cứu vãn được gì. Nhưng rồi hôm nay lại sẽ còn dội nhiều hơn...
Chúng bắt đầu đụng ngay vào chỗ chúng ta.
Chẳng có ai và chẳng có thì giờ để suy nghĩ xem hoặc là quả thật quân Đức đã bắn thử hôm qua rồi chăng, hay hôm nay chúng mới bắn hú họa mà trúng chăng. Sau khi rải một chục quả đạn ra xung quanh, gần đến nỗi sức ép quá mạnh làm cho đất chao đi đảo lại mấy lần, bọn Đức rót một quả đạn thẳng vào trong lòng tòa nhà xây dở.
Trước đó, Malinin đang nằm dưới chân tường như mọi người để tránh những mảnh đạn đại bác nổ ở bên ngoài, cảm thấy cùng một lúc cả sức công phá, tiếng nổ rền, sức ép và nghẹt thở. Những mảnh tường đổ và những cục đất đóng băng bị đạn pháo tung lên vùi lấp người ông.
Vừa thở hồng hộc vừa dùng hết sức, Malinin đã ngoi được lên khỏi lớp gạch ngói và đất cát phủ lên người. Ông ngồi được là vì trước khi đạn pháo nổ ông đã dùng hai tay che đầu cho nên tay nằm ở trên.
Ông đã rút được tay ra và sờ bộ mặt đẫm máu rồi bắt đầu điên cuồng bởi tất cả những thứ gì cản trở ông đứng dậy và cuối cùng chui ra khỏi nấm mồ bằng gạch vụn đó, tuy tai ù nhưng còn sống, lảo đảo đứng hẳn dậy được.
Xung quanh mọi vật đều tiêu tan. Quả đạn pháo hạng nặng đã đào xới lên từng tấc đất của một khu vực rộng lớn Trên lớp tuyết lẫn với đất bị xới tung và những mảnh nền nhà đã in thẫm những vết máu, ngổn ngang những mảnh quân phục, những mẩu thân người không còn ra hình thù gì nữa, chiếc ủng của ai đó với cả cái cẳng chân bị chặt ngang phía trên đầu gối.
Malinin thẫn thờ tiến lên mấy bước và giật mình, đừng lại. Có cái gì gãy răng rắc dưới ủng ông ta: ông nhìn xuống và trông thấy cặp kính của Trôphimốp có bộ gọng buộc chỉ quen thuộc.
Ông quay lại chỗ góc tường, nơi chính mình bị vùi lấp rồi hiểu ra rằng mình còn sống sót chính là vì đã bị gạch ngói vùi lấp đi. Gạch đổ sập xuống do một phát đạn nổ dưới chân tường phía bên ngoài, còn quả đạn rơi vào phía trong thì nổ chậm hơn một chút khi Malinin đã bị những mảnh gạch rơi xuống che đỡ cho.
— Này, có ai đây không, có ai đấy không! — Malinin vừa kêu lên vừa bắt đầu nhớ lại xem cụ thể là ai đã ở cạnh mình trong giây phút cuối cùng.
Đó là Xirôta, là anh chàng sinh viên hóa chất Mikhnexốp, họ ở đâu rồi nhỉ? Ở phía bên này đống tường đổ nát không thấy xác người, thậm chỉ không có cả những gì còn lại của xác người khi đạn rơi đúng vào chỗ ấy.
«Có lẽ họ bị đạn pháo hất tung đi», — Malinin nghĩ thầm và ngay giây phút đó ông nghe có tiếng rên vẳng lên từ dưới lớp gạch vùi lấp một góc tòa nhà.
Ông liền bới đống gạch đến xước cả móng tay và cuối cùng lôi được Xirôta ra khởi lớp gạch vụn. Xirôta còn sống, thậm chí còn có những cứ động tựa hồ như đang cố sức để đứng dậy, nửa dưới của mặt anh đã biến thành một mảng lầy nhầy những máu đổ lòm. Anh ta không rên bằng mồm mà bằng cố họng và thậm chí hình như không phải bằng cổ họng mà bằng bụng; tiếng rên đó từ bụng thoát ra ngoài qua cái mồm đã bị dập nát.
Malinin bốc một nắm tuyết và lau bộ mắt gớm ghiếc của Xirôta, làm cho tuyết cũng đỏ lòm. Sau đó, ông móc gói băng cá nhân trong túi dết ra và nâng đầu Xirôta lên, hắt đầu băng phần dưới mặt cho anh ta. Thoạt tiên, ông quên mất rằng anh phải thở cho nên băng kín tất cả, đến nỗi Xirôta đâm ra thở khò khè. Đành phải băng lại từ đầu, quấn bộ mặt của người trung sĩ bằng cuộn băng đã bê bết máu. Băng cho Xìrôta xong, Malinin liền kéo anh tới dựa vào tường cho đầu cao hơn để anh đừng bị sặc máu và mãi tới lủc đó ông mới trông thấy một bàn chân thò ra ngoài đống gạch ở nơi mà ông đã lôi Xirôta lên.
Trước đó một giờ, ngay từ khi mới đến đây, ông đã nhận thấy anh sinh viên hóa chất Mikhnexốp có đôi bốt bằng dạ đã cũ nhưng còn tốt, lót hai lớp nỉ.
Mikhnexốp nói rằng vừa nhặt được nó mấy hôm trước trong một ngôi nhà gỗ bỏ hoang và Malinin còn định nóỉ đùa rằng nhà hóa học đã chuẩn bị cho mùa đông tốt nhất trong trung đội. Ông ta định đùa rồi quên đi, nhưng bây giờ khi nhác thấy đôi ủng dạ lót nỉ, ông hiểu ngay là Mikhnexốp đang nằm đó.
Không để mất thời gian, ông liền vội vàng moi Mikhnexốp lên: ông bắt đầu từ đằng chân, sau đó to tiếng tự rủa mình và ước tính bằng mắt xem cái đầu của Mikhnexốp ở chỗ nào dưới lớp gạch rồi bò sang moi ở đó. Phải bắt đầu từ đằng đầu để trong trường họp anh ta còn sống thì không bị ngạt thở. Vừa tiếp tục tự rủa mình đã không nghĩ ngay ra cái điều đơn giản như vậy, Malinin vừa cuống cuồng bới gạch. Cuối cùng, hai vai của Mikhnexốp đã lòi ra. Malinin đưa tay sờ: vai vẫn còn nóng dưới lớp áo bông. Mikhnexốp còn sống. Malinin càng vội hơn nhưng khi ông đã đưa được cổ và đầu Mikhnexốp ra một cách cẩn thận hon thì bỗng ngừng phắt lại, cầm trong tay hòn gạch vừa mới nhặt lên ở sau gáy Mikhnexốp. Thân thể còn nóng nhưng anh ta đã chết. Tất cả phần trên sọ não của anh đã bị chính mảnh gạch này phạt mất.
Malinin ưỡn thẳng lưng dậy, giận dữ ném hòn gạch xuống đất, và ngay giây phút đó, ông nghe có tiếng súng máy gõ nhát gừng ở gần đấy. Ở trong khoang nền của cột ống khói nhà máy cách ông bốn chục bước, anh em vẫn còn sống và đang chĩa hỏa lực vào quân Dức. Malinin cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm, ông cứ tưởng còn lại một mình.
Malinin đi đến bên Xirôta, nhấc cái thân hình nặng nề của anh lên lần nữa và chuyển chỗ để đề phòng trường hợp đạn pháo có bắn nữa thì anh ta cũng được che kín hơn. Tuy nhiên, hỏa lực pháo binh Đức bây giờ đã bắn xa tung thâm. Khi Malinin chuyển chỗ cho Xirôta thì anh ta làm mấy cử động yếu ớt dưới lớp băng đẫm máu, tựa hồ như toan kêu lên điều gì, sau đó anh xòe hai bàn tay đang nắm chặt giống như ngạc nhiên trước tình trạng bất lực của mình rồi nắm tay lại như cũ và lặng thinh. Chỉ có bộ ngực của anh ta nặng nề phồng lên, xẹp xuống với tiếng thở khò khè. Malinin lại nhìn anh lần nữa, trèo qua bức tường và theo giao thông hào nhỏ sâu bằng nửa người, dẫn tới ống khói mà đi về phía đang có tiếng súng máy tiềp tục nổ ròn rã.
Khi pháo bắt đầu bắn thì Xintxốp đã cùng với xạ thủ số hai của mình, một chiến sĩ trẻ đã làm nghĩa vụ quân sự được hơn một năm tên là Kôlia Baiukốp, ngồi sau khẩu súng máy, bên cạnh một trong hai lỗ châu mai khoét trên ống khói. Họ không bắn mà cứ giả chĩa súng vào những vật chuẩn đã bắn thử từ trước và đảo lộn vị trí cho nhau trong khi luyện tập: Xintxốp làm số hai còn Baiucốp thì làm số một.
Trước lỗ châu mai là bắt đầu sườn đồi dốc đứng, một phần dốc khuất không trông thấy và nằm trong tứ giác; sau đó dốc nghiêng thoai thoải và đổ xuống một khu đất hình lòng chảo phủ tuyết. Khu lòng chảo này nằm cắt ngang trận địa của quân ta, còn đằng sau nó là bắt đầu một cái gò đất khác, nơi mà các trung đội kia của đại đội đang bố phòng gần ba ngôi nhà nhỏ cách biệt nhau, Không có công sự ngay trong lòng chảo, nó đã được bắn thử kỹ càng từ hai phía và được ngăn giữ bằng lưới lửa của hai khẩu súng máy.
Hôm qua, quân Đức đã toan tấn công đúng theo lòng chảo đó, nhưng vì hai làn đạn bắn chéo cánh sẻ, nên không thọc qua được và thậm chí không thể lôi được xác chết về, mặc dầu thường thường chúng vẫn làm như vậy, dù có phải liều mạng. Hôm qua, nghe nói rằng trong lòng chảo còn lại đến ba chục xác người nhưng từ lỗ châu mai này trông ra chỉ thấy có mấy cái xác đen lù lù trên tuyết ở phía dưới. Trong khi cùng với Baiukốp ngắm thử, Xintxốp hây giờ đang dùng cái cột mốc trồng xuống tuyết và hai cái xác bên ngoải cùng, một ở lối đi vào và một ở lối ra khỏi lòng chảo, làm vật chuẩn Baiukốp cùng chiến đấu với Xintxốp đã được một tuần. Trông anh ta có cái gì giống như người chiến sĩ hồng quân mà hôm ở Maxcơva đã đồng ý gọi người sĩ quan trực ban trong viện kiểm sát cho Xintxốp. Baiukốp cũng có cặp lông mày đen và bộ mặt con gái nhẵn nhụi, hồng hào như vậy. Khi anh ta bò chiếc mũ che tai xuống thì người ta thấy rằng mái tóc bù xù lông dím của anh ta đúng là màu nâu nhạt như vải lanh
«Chắc là khi chưa vào bộ đội, cậu để tóc bồng hẳn?» —ngay từ ngày đầu, Xintxốp đã hỏi anh ta; Baiukốp mỉm cười và nói: «Chứ gì nữa!»—còn Xintxốp thì nghĩ thầm rằng với đôi lông mày đen và bộ tóc màu hạt dẻ nhạt kia, chắc hẳn cậu ta là một anh chàng đẹp trai hiếm có. Bây giờ anh đã cắt tóc ngắn đội chiếc mũ che tai quá rộng của người khác mà anh là người sử dụng thứ hai. Anh khoác tấm áo capốt tùm hụp ở ngoài áo bông, vả lại cả hai người đã nằm ở đây ba bốn ngoài trời, thoạt tiên trên bùn lầy và sau đó trên băng tuyết; ở đây quả thật không còn bụng dạ nào nghĩ đến đẹp xấu nữa.
Mối quan hệ tốt đẹp nhất đã được thiết lập giữa hai người ngay từ ngày đầu quen biết, nếu nói đúng hơn thì ngay từ cái phút mả Xintxốp bảo rằng cả haí xạ thủ súng máy đều phải biết làm động tác của cả số haí lẫn số một và anh chứng minh luôn lời nói bằng việc lảm, ngay trong giờ phút đầu tạm im tiếng súng, anh đã cùng Baiukốp tiến hành tính toán các góc bắn, góc tà và hiệu chỉnh tầm xa...
Baiukốp nguyên là nông trang viên ở bản Xôlôtra thuộc vùng rừng núi bên kia sông Ôka gần thành phố Riadan. Bản này nổi tiếng về khoai tây và nghề đánh cá trên dòng cũ của con sông Ôka là Xtarixa.
Dù sao chăng nữa thì con người không phải lúc nào cùng chỉ có chiến đấu.
Baiukốp là người có thể vừa trầm lặng vừa mồm mép, tùy theo trường hợp anh thích hay không thích người nào đó. Trong vòng một tuần, anh đã kịp kể lại cho Xintxốp nghe rằng anh chưa thi đỗ lớp bảy do hoàn cảnh gia đình: bố chết, còn mẹ thì bị ốm, và trước khi vào bộ đội, anh là đội trưởng đội thanh niên cộng sản trồng khoai tây một năm, còn sau khi phục viên thì dù sao anh vẫn muốn đi học làm kỹ sư nông nghiệp.
— Chỉ cần trước hết phải thì đỗ lớp bảy, tôi đã tưởng là sẽ thi trong quân đội, —Baiukốp nói. – Thế mà ở đây lại có cái việc này...
«Cái việc này» tức là chiến tranh.
Baiukốp là một thanh niên dễ tin và cái gì cũng muốn biết, Trong cuốn vở cất trong balô, anh ta đã ghi lại tên tất cả những cuốn sách mà anh đã đọc trên đời này. Đối với lứa tuổi anh, số sách đó không phải là ít: một trăm linh bốn cuốn và phần lớn đều là sách hay. Buổi tối, nếu hoàn cảnh cho phép, anh ta lại hồi tưởng tới những cuốn sách này và kể lại bằng tiếng địa phương Riadan hơi trọ trẹ cho Xintxốp nghe nội dung của những cuốn sách ấy.
Trong chiến đấu, Baiukốp thường hoàn toàn bị thu hút vào nhiệm vụ của mình. Anh ta tâm đầu ý hợp với Xintxốp về điểm đó và hai người hiểu rõ nhau.
Xintxốp cũng để hết tầm trí vào chiến đấu, anh không tỏ ra nể nang đối với bản thân mình và không xây dựng một kế hoạch cá nhân nào cả; bây giờ anh đã hình dung ra tất cả quãng đời tương lai của anh trong chiến tranh—đến lúc chết hay đến lúc chiến thắng chăng nữa —là cuộc đời binh nhất binh nhì. Trong một tuần qua, Baiukốp đã tỏ ra là một người phối hợp tay đôi giỏi, điều ấy giờ đây đối với anh là quan trọng nhất trên đời này và không những vì vậy anh quý trọng Baiukốp mà còn sẵn sàng làm cho cậu ta nhiều hơn là đối với nhiều người khác mà anh đã quen biết trong nhiều năm.
Khi cuộc pháo kích bắt đầu, Xintxốp và Baiukốp kéo khẩu súng máy lùi xa lỗ châu mai về phía sau một chút để những mảnh đạn lạc khỏi va vào nòng súng, còn bản thân họ thì chuyển chỗ ngồi xuống thấp hơn, ở dưới đáy ống khỏi lát bằng gạch chịu lửa chắc chắn. Họ hiểu ngay rằng pháo bắn ác liệt và chính xác. Tất cả xung quanh đều rung chuyền ầm ầm vì những phát đạn nổ gần, nhưng mặc dầu bị pháo bắn như vậy, ở đây họ vẫn cảm thấy hầu như an toàn trong cả ống khói này; chỉ có một quả đạn hạng nặng bắn thẳng từ một cự ly gần mới có thể chọc thủng nổi nhiều lớp gạch chịu lửa ấy, hơn nữa đạn không được rơi chéo góc mà phải rơi thẳng góc. Các mảnh đạn khó mà lọt được vào ống khói từ hôm kia, Xintxốp đã cùng Baiukốp đậy ống khói bằng những tấm sắt nồi hơi. Trung đội trưởng Xirôta nói rằng số sắt đó được chuẩn bị để làm các cánh cửa lò. Sắt rất dày những mười ly, và hai tấm sắt đã che gần kín hết ống khói chỉ còn một khe hở nhỏ. Đường dẫn khói chạy qua nền và bây giờ anh em chui theo đường này để vào ống khói từ phía dưới.
— Quả thật là một cái lô cốt, — hôm qua Xirôta nói và chính Xintxốp cùng Baiukốp cũng nghĩ như thế về cái ống khói.
Chỉ có thể giết chết tươi họ trong trường hợp: một quả đạn rơi thẳng từ trên xuống những tấm sắt che ống khỏi; khi ấy cố nhiên không có chỗ nào mà nấp nữa, cả hai người sẽ chí còn là một đám lầy nhầy. Nhưng thậm chí giờ đây khi bị pháo bắn họ cũng chẳng tính đến chuyện không may đó nhiều hơn bất cứ một khả năng tử vong nào, những khả năng luôn luôn tồn tại trong chiến tranh bằng cách này hay cách khác.
Hỏa lực của quân Đức mỗi lúc một mạnh thêm, Baiukốp bắt đầu dốc hết túi này sang túi khác và cứ mỗi túi đổ được một dúm thuốc sợi rời, vướng trong đường chỉ khâu, xuống lòng bàn tay. Hôm qua, thuốc sợi cũng không có: anh ta đã làm cái thao tác này một lần, nhưng hôm nay vẫn cố làm lại. Dù sao pháo bắn cũng rất ác liệt, cho nên anh thấy bồn chồn.
Xintxốp đứng dậy, đi đến bên lỗ châu mai và nhìn ra khu đất hình lòng chảo phủ tuyết nằm phía trước lô cốt.
Những quả đạn cũng đang nổ ở chỗ trống trong khu lòng chảo nhưng thưa thớt hơn, trong khi đó, một màn khói dày đặc đang bao phủ trận địa của các trung đội láng giềng ở trên điểm cao có ba ngôi nhà nhỏ, ở đó, đạn pháo nổ hàng loạt thành một bức tường, và một trong ba ngôi nhà đã biến mất tựa hồ như trước kia chưa hề có nó.
Xintxốp cảm thấy đau nhói trong lòng không phải vì anh sợ pháo địch tiếp tục bắn phá mà vì một suy nghĩ không xua đuổi được: «Hễ pháo bắn xong là bắt đầu tấn công ngay đấy». Anh ngồi xuống bên tường cạnh Baiukốp và bắt đầu đợi cho pháo ngừng hấn. Bỗng thấy ngứa đầu, anh liền bỏ mũ bịt tai xuống trong chốc lát và thận trọng dùng tay xoa xoa vết sẹo ở trên thái dương. Hai tuần lễ trước đây, Dôlôtarép tưởng rằng đây là một vết tử thương thế mà bây giờ chỉ còn lại vết sẹo nhỏ với lớp da mịn và trơn trơn cùng với món tóc lởm chởm chưa mọc hết ở hai bên mép.
Trong những giây phút đó, không phải bao giờ con người cùng suy nghĩ những điều giống nhau. Đôi khi đó là điều quan trọng, đôi khi lại là điều không quan trọng, đôi khi lại xen lẫn cả những điều quan trọng và không quan trọng, khi thì con người suy nghĩ một cách tự nhiên xuôi theo dòng suy tưởng, khi thì nghĩ cách miễn cưỡng — nghĩ một điều gì mà họ tưởng là có thể xua tan lòng sợ chết.
Xintxốp không cưỡng bức mình. Anh suy nghĩ về những điều nẩy ra trong óc nhưng ý nghĩ của anh cứ thay đổi và thúc đẩy lẫn nhau, tựa hồ như sợ rằng anh không kịp suy nghĩ mọi việc còn cần suy nghĩ.
Trong những ngày ấy, đã mấy lần có cái gì thúc giục anh ngồi xuống và viết thư cho Masa để báo tin là anh đang ở đâu và làm gì. Anh muốn vợ biết việc này, nhưng ý muốn đó càng mãnh liệt bao nhiêu anh lại càng tự hỏi mình một cách gay gắt bấy nhiêu: mà gửi đi đâu chứ? Vợ mình ở đâu? Phải, anh có số hòm thư của nhà trường, nhưng Masa không còn ở đó nữa. Chị đã sang phía bên kia hỏa tuyến từ lâu và từ nơi này gửi thư cho vợ thì cũng chẳng khác gì định dùng chiếc phong bì bộ đội bằng giấy hình tam giác để chọc thủng bức tường gạch của cái ống khói này.
Anh nhớ lại đêm ấy ở Maxcơva chị đã ngồi xổm để rửa chân cho anh trong chiếc chậu, cạy ra từng tảng bùn và nương nhẹ tay khi rửa chỗ xây xát, và trong lòng anh chợt bừng lên tình cảm trìu mến nao nao đối với hai bàn tay âu yếm của vợ, đến nỗi anh đâm hoảng sợ nỗi nhớ nhung mãnh liệt đó, cho nên anh đã lẩm bẩm tự rủa mình để dập tắt ngay ngọn lửa vừa bừng lên ấy.
— Ông làm sao thế?—Baiukốp hỏi, sau khi đã vét mãi được mấy dúm thuốc lá rời và cuộn thảnh một điếu bé tí xíu.
— Có sao đâu,—Xintxốp xua tay.
— Thế mà tôi lại tưởng là nhớ bà nhạc, — Baiukốp đùa không đúng lúc.
Với nỗi đau xót quen thuộc và âm ỉ, Xintxốp nhớ tới Grốtnô và tất cả những gì có liên quan tới nó trong trí nhớ đã chằng chịt vết thương và rắn lại như gỗ của anh. Rồi anh lắc đầu lia lịa như con ngựa bị đàn mòng đốt mà bản thân anh cũng không để ý. Sau đó, anh nghĩ về Malinin mà anh đã trông thấy đằng xa một giờ trước đây, khi ông ta trèo lên dốc, và nhớ lại câu chuyện trao đổi giữa hai người hôm đầu tiên mà Malinin được chỉ định lảm chính trị viên đại đội. Sau khi làm quen với anh em, Malinin đi một vòng xem những ngôi nhà gỗ còn nguyên vẹn của làng Klinxư mà bây giờ đã nằm lại từ lâu trong vùng sau lưng địch. Đêm ấy, đại đội đã ngủ ở đó. Trò chuyện với các chiến sĩ xong, Malinin vẫy gọi Xintxốp ra khỏi nhả và đứng dạng rộng hai chân ra, đút hai tay vào túi theo kiểu đứng quen thuộc của mình, rồi cau có nói:
— Xintxốp ạ, cậu hây viết đi, trình bày lại quá khứ của cậu. Cậu đã được phiên chế vào một đơn vị thường trực, ở đây phải hoàn toàn đúng nguyên tắc.
—Còn phải viết cho ai nữa kia? Tôi đã viết...—Xintxốp buồn bã nói.
Malinin nhìn anh vẫn với vẻ cau có và nói vẫn với cái giọng bực mình:
— Viết cho tớ. Tớ sẽ đích thân nộp cho chính ủy hay nộp lên phòng chính trị sư đoàn. Còn lên đến đó thì tùy họ quyết định xem nên gửi đi đâu theo sự cẩn thiết. Cậu chỉ cẩn nêu lên những sự việc và những người có thể xác nhận sự việc đó, hãy nêu rõ là ai. Họ muốn thẩm tra thì cứ để cho họ thẩm tra.
Hôm nay, còn ở trong nhà thì hãy viết đi, ai mà biết được rằng ngày mai chúng mình sẽ ngủ ở đâu! Thôi, tạm biệt nhé!— Malinin cau có gật đầu chào, bước trên đường phố đến ngôi nhà gỗ tiếp theo sau, nhưng bỗng dừng lại và gọi: Xintxốp!
Xintxốp đi tới gần Malinin:
— Trong đó, cậu hãy nêu lên rằng tôi biết hết mọi chuyện ngay từ đầu. Hãy mở đầu như thế này: «Như đồng chí đã biết về tôi...», còn sau đó thì hãy viết: «nhưng tôi muốn trình bày bằng giấy để phòng chính trị và bộ chỉ huy đơn vị...» Hiểu không?
— Hiểu.
Đêm ấy, anh lại viết bản trần tình lần nữa, anh viết ngắn có viện dẫn thêm tên người như lời Malinin báo.
Nhưng dù anh có viết ngắn đến thế nào, việc viết bản đó lần nữa, sau khi anh đã kể chuyện cho Masa, cho Enkin và Malinin nghe, sau khi anh đã viết lại tất cả trong viện kiểm sát, sau khi anh đã nhiều lần ngồi một mình một bóng nhớ lại tất cả chuyện này, phải viết lại lần nữa thì thật chẳng khác gì bị tra tấn, vả lại thế nào nhỉ, xét cho cùng đúng là anh ra đi để chiến đấu hay để viết những bản trần tình? Nhưng rốt cuộc anh vẫn viết và nộp cho Malinin, đó là vào hôm sau lúc hành quân. Để khép bên sườn hớ lại. sư đoàn vội vã rút lui về trận địa dự bị và ông Malinin, cứ lội bì bõm trong bùn đặc sệt, càng cau có hơn ngày thường, khi đi ngang với Xintxốp, lặng lẽ cầm lấy lá đơn ở tay anh và nhét vào túi áo capốt. Mặc dầu về sau Xintxốp có trông thấy Malinin nhiều lần, nhưng họ không nói tới việc này nữa.
Giờ đây, khi nghe những tiếng đạn nổ nặng trình trịch làm rung chuyển mặt đất, Xintxốp có tưởng tượng xem Malinin đã chuyển lá đơn của anh cho ai và chuyển như thế nào, trong lúc ấy ông ta nói gì và bây giờ anh phải đợi để được gọi lên đâu: lên phòng chính trị hay phòng Đặc nhiệm? Tuy anh đã cho rằng sau mười ngày chiến đấu, người ta sẽ không gọi anh rời hỏa tuyến, cái cảnh mà số phận chưa được giải quyết đang dày vò anh. Thêm vào đó, còn có một ý nghĩ không vui nữa là mình có thể bị thương, bị đưa về hậu phương, và lúc đó thì hãy vĩnh biệt cả bản trần tình này lẫn Malinin. Anh sẽ ra viện, sẽ rơi vào một đơn vị khác và sẽ phải viết lại tất cả từ đầu...
— Này! — Baiukốp thét vào tai Xintxốp, át cả tiếng gầm của đại bác.—Theo tôi thì chúng bắn trúng anh em đằng kia đấy!
Xintxốp đến gần lỗ châu mai dự bị, và qua đám khói đang tàn, anh trông thấy một trong những bức tường xây dở của nhà máy hình như đã trở nên thấp hơn.
— Ừ, hình như thế, — anh lo lắng nói.
Lúc đó, pháo binh Đức đã bắt đầu bắn được chừng mươi phút. Cuộc pháo kích liếp tục thêm nửa giờ nữa rồi chuyên sâu vào tung thâm, vào hậu tuyến; bây giờ không nghe tiếng nổ nữa mà chỉ nghe tiếng rít liên tục của những quả đạn bay vút qua trên đầu.
— Kôlia, cậu hãy trông về phía này, nếu có ai xuất hiện thì bắt liên lạc nhỉ, — anh hất hàm trỏ cho Baiukốp cái lỗ châu mai ở đó trông thấy được nhà máy gạch, còn mình thì đi trở lại lỗ châu mai kia, nơi đặt súng máy.
Từ chỗ này có thể quan sát rất rõ; trong hậu tuyến của ta, đạn pháo nổ thảnh một bức tường, còn xe tăng Đức thì đang tiến theo khu lòng chảo phủ tuyết giữa điểm cao có nhà máy gạch và điểm cao có ba ngôi nhà nhỏ.
Những chiếc đi đầu đã trèo lên dốc, đến chỗ trước kia có ba, nay chỉ còn lại vẻn vẹn một ngôi nhà xiêu vẹo, và ở đây theo như Xintxốp biết thì có hai trung đội quân ta bố trí trong hầm nhà và trong các công sự quanh nhà.
Chiếc xe tăng đi đầu dừng lại, bắn đại bác và căn nhà cuối cùng đã xiêu vẹo liền đổ nghiêng xuống như một ngôi nhà bằng giấy. Một ngọn lửa bùng lên dưới chiếc xe tăng và nó quay tròn tại chỗ. Sau đó, lại một ngọn lửa nữa bùng lên và một luồng khói đen đặc phụt ra từ chiếc xe tăng. Những bóng đen nhảy vọt qua cửa nắp phía trên xe tăng xuống tuyết; những phát súng trường thưa thớt nã vào chúng. Gió từ đó thổi lại, cho nên nghe rất rõ và như vậy chỉ càng làm nổi rõ thêm súng trường thưa thớt đến mức đáng lo ngại. Ở nơi có hai trung đội quân ta bố trí, hầu như không có tiếng súng. Một chiếc xe tăng khác chạy ngang chiếc đang cháy, trèo qua điểm cao và khuất sau đỉnh đồi. Những chiếc xe tăng đang chạy trong khu lòng chảo cũng đường hoàng tiến về phía trước.
Một phút nữa trôi qua và bộ binh Đức xuất hiện trong tầm mắt của Xintxốp.
Những bóng đen đang tiến trên mặt tuyết thành một chuỗi dài đằng sau xe tăng.
— Baiukốp, về chỗ! — Xintxốp hô và nhìn qua rãnh ngắn bắt được chiếc cọc chuẩn đã được bắn thử, nó còn ở cách những tên Đức đầu tiên chừng bốn chục mét.
Baiukốp chạy lại, sửa băng đạn, thoạt tiên nhìn vào lỗ châu mai, sau đó từ dưới, hồi hộp ngước nhìn lên trên, lên mặt Xintxốp. Cái nhìn ấy muốn nói:
«Sao ông chưa nổ súng?» Nhưng Xintxốp còn đợi thêm nửa phút nữa: vật chuẩn đã được bắn thử chính xác và anh muốn tận dụng điều đó.
Hàng quân Đức đã tiến đến ngang cọc chuẩn. Anh bắn một băng ngắn, rồi m?