Chương 11 Chiến đấu đến viên đạn cuối cùng
Sáng sớm ngày mồng 7 tháng 7, những trận chiến đấu lại tiếp diễn như cũ. Một lần nữa pháo lại gầm vang, lại xảy ra những trận đấu tăng và những trận không chiến.
Chúng tôi bảo vệ khu vực Belenhikhinô và Prôkhôrôpca - nơi tập kết xe tăng của chúng ta. Chúng tôi mới kịp bẻ gãy đợt tấn công này của máy bay ném bom địch thì lại xuất hiện đợt khác đến. Tôi dẫn toàn phi đội tấn công đối đầu với lực lượng tiêm kích địch đang yểm hộ với mục đích trượt qua đội hình chúng, không giao chiến, sau đó quay lại nện lũ "Junker". Chúng tôi vượt qua phòng tuyến.
- Tấn công tự do, tôi sẽ nện thằng đi đầu! - Tôi ra lệnh qua đối không.
Thằng máy bay ném bom lớn dần trong kính ngắm. Tôi ngắm vào chính giữa chiếc đầu tù của thằng "Junker" và ấn cò súng. Một giây, hai giây - và thằng ném bom bay ở vị trí dẫn đội bốc cháy, rơi vào xoắn ốc. Thằng số 2 của nó cũng bị phi công trẻ Đerđich cho ăn đạn, cháy tiếp. Số còn lại thấy thế vứt bom chạy tán loạn. Chúng tôi truy đuổi, nhưng bọn tiêm kích địch đã đến ứng cứu cho lũ "Junker". Bọn chúng khá đông xông vào giao chiến với chúng tôi.
- Truy kích bọn "Junker"! - Người chỉ huy ở đài mặt đất ra lệnh.
Chúng tôi bẻ gãy đợt tấn công của lũ "Metxersmit". Dầu liệu đã cạn kiệt. Tôi thấy một số phi công đã bắn hết đạn rồi, chỉ còn làm động tác công kích giả mà thôi. Nhiệm vụ của tôi là phải bảo toàn lực lượng cả người lẫn máy bay, nhưng đài dẫn dắt vẫn ra lệnh:
- Bỏ bọn tiêm kích, tấn công bọn ném bom đi.
- Bọn tiêm kích không chịu nhả tôi ra. - tôi trả lời.
Cũng may, khi bọn "Junker" đi khuất thì lũ "Metxersmit" cũng thoát ly khỏi cuộc chiến.
- Chúng tôi quan sát được trận không chiến của các đồng chí, - Zakirôp nói với tôi trên sân bay, lộ hàm răng trắng loá và đôi mắt nhanh như mắt sóc. Tôi nghe được cả tiếng súng của đồng chí nữa. Thấy một chiếc cháy, rồi tiếp một chiếc nữa, rồi lại một chiếc nữa cháy. Thấy súng nổ giòn, tim bỗng đập rộn ràng lắm.
- Súng rất tốt, Zakirôp ạ, - tôi nói.
- Tôi thấy rồi, - người thợ máy vui mừng khi được khẳng định là súng thông và đạn không còn viên nào trong băng đạn.
- Bắn đến tận viên cuối cùng. Không còn sót lại viên nào cả, tôi trực tiếp kiểm tra mà.
- Làm thế nào mà phân biệt được tiếng súng của chúng tôi ở trên trời hả Zakirôp?
- Theo tiếng nổ chứ. Anh bắn loạt dài, các người khác bắn loạt ngắn. Một vài người trong biên đội còn bắn 2 đến 3 loạt dài nữa kia.
Sự nhận xét của Zakirôp cho tôi biết được rằng không phải phi công nào cũng khắc phục được việc bắn loạt ngắn.
- Hãy nghe đây, hỡi các chú đại bàng, có vẻ như những loạt đạn của ai đó bắn còn quá ngắn nên không tới được máy bay địch. Cần phải bắn đủ loạt.
- Rút ra một điều là cần phải học tiếp, - Axkircô nói. - Trong trường thì luôn luôn được dạy rằng cần phải bắn những loạt ngắn. Sống lâu bao nhiêu - thì phải học nhiều bấy nhiêu.
- Đúng như thế đấy, đồng chí Axkircô ạ! Còn phải đánh nhiều nữa, nên cần phải học nhiều hơn nữa, - tôi khuyên.
Trong thời gian thợ máy chuẩn bị máy bay cho lần xuất kích tiếp theo, chúng tôi ngồi thảo luận mọi phương án cơ động trong không chiến để tìm ra cách đánh mới, có hiệu quả hơn.
Phòng tuyến mặt trận lại có sự thay đổi. Nó dịch về phía sân bay chúng tôi vài cây số nữa. Những trận đấu tăng ác liệt đã xảy ra. Cố gắng chọc thủng phòng tuyến quan trọng và để khuếch trương chiến quả, kẻ địch đã đưa vào đây những sư đoàn tăng và thiết giáp thiện chiến, nhưng chúng đã vấp phải sự chống chọi kiên cường của những người lính tăng Xô viết. Bộ binh và pháo binh của chúng ta cũng chiến đấu rất dũng cảm. Bằng những khẩu pháo bắn thẳng, những khẩu súng chống tăng, họ đã ngoan cường thiêu cháy những cỗ máy chết chóc sắt thép kia. Trong những trận không chiến khốc liệt, các phi công Xô viết cũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.
Thượng úy cận vệ Gôrôves đã nổi tiếng bởi những hành động anh hùng trong chiến đấu. Khi gặp tốp lớn những máy bay ném bom "Ju-87", đồng chí đã cắt ngay vào đội hình địch và lần lượt bắn cháy 8 chiếc liền. Khi hết đạn, người anh hùng ấy đã dùng máy bay của mình đâm vào máy bay địch và tiêu diệt thêm một chiếc "Junker" nữa. Hàng ngàn loạt đạn pháo và mìn của quân đội Xô viết đã nổ vang khắp chiến trường để tiễn biệt người anh hùng.
Đerđich cũng hy sinh dũng cảm. Trong chuyến bay cuối cùng của mình, đồng chí đã bắn rơi hai máy bay "Junker", nhưng bọn "Metxersmit" đã kẹp máy bay đồng chí giữa hai gọng kìm. Hiểu rằng không còn đường nào khác, người phi công Xô viết đã dùng máy bay mình cắt ngay vào máy bay địch.
Những đêm mất ngủ, những ngày căng thẳng làm tôi hao tâm tổn trí. Những tiếng đại bác nổ rền rĩ làm chúng tôi càng căng thẳng, thành ra cáu gắt cả những chuyện không đâu. Ngay như Orlôpxki, một người tính tình điềm đạm mà còn có lần không giữ được bình tĩnh. Sau khi tiếp đất xong, đồng chí nhảy ra khỏi máy bay, chạy bổ đến chỗ thợ quân giới Belôp, chửi rủa. Còn cậu kia thì chuồn thật nhanh.
- Có vấn đề gì đấy? - Tôi hỏi.
- Báo cáo phi đội trưởng, súng hỏng. Tôi bám được đuôi một thằng "Phôcker", ấn cò súng, nhưng chẳng thấy gì hết.
- Thế đã tìm nguyên nhân chưa?
- Việc gì phải tìm! Belôp là thợ quân giới thì nó phải chịu trách nhiệm về vấn đề này chứ.
Tôi ra lệnh tìm Belôp. Cậu ta đã chạy biến đâu mất tăm mất tích. Phải tìm bằng được nguyên nhân tại sao súng lại tắc, không bắn được. Nguyên nhân đúng là do thợ quân giới gây ra thật - cậu ta không kéo dây điều khiển băng đạn vào vị trí cần thiết.
- Tôi sẽ kỷ luật cậu một cách thích đáng, - tôi nói với Belôp. - Ngoài ra, còn phải kiểm điểm trước chi bộ.
Trong những ngày này, việc cần thiết hơn lúc nào hết là phải duy trì nền nếp nội quy và kỷ luật.
Một chiếc xe tải loại nhẹ chạy đến sở chỉ huy. Gavrilôp từ buồng lái nhảy xuống. Đồng chí từ giã chúng tôi để về trường chính trị.
- Nào, Anatôli, chúng ta chia tay nhau thôi, - Gavrilôp nói. - Có thể, chúng ta chẳng còn được gặp nhau nữa cũng nên.
- Đừng nói thế, Bôrix Alêchxanđrôvich ạ. Chúng ta đã từng cùng nhau chiến đấu, từng sống với nhau thắm thiết thế kia mà.
Chúng tôi trao ảnh kỷ niệm cho nhau.
Theo phong tục, chúng tôi ngồi với nhau trước lúc lên đường. Chúng tôi im lặng nhìn nhau. Trong tâm trí hiện lên những ngày tháng cùng đội ngũ. Thật nặng nề khi phải chia tay chính trị viên! Đấy là người có tâm hồn cao thượng và học vấn rộng. Chúng tôi, những phi công, rất nhiều người đã được đồng chí giúp mở rộng tầm hiểu biết và được quan tâm chu đáo...
Mấy phát đạn pháo nổ trong khu rừng. Có một phi đội nữa ở cách chúng tôi không xa lắm.
- Tôi đến với mọi người đây, - Gavrilôp phá vỡ sự im lặng buồn bã. - Tôi không lưu lại lâu đâu. Biết đâu bom đạn nó lại đùa rỡn mình...
Mấy lời nói ngắn gọn với giọng đầy xúc động.
Để đáp lại, tôi ôm chính trị viên trong vòng tay mình:
- Tạm biệt Bôrix!
Và chúng tôi chia tay nhau.
Chiều đến, các Đảng viên tập trung trong hầm. Người thì ngồi bệt dưới đất, người thì ngồi xổm dọc giao thông hào theo lối vào. Chủ tịch đoàn ngồi quanh chiếc đèn bão. Tổ trưởng Đảng - Cônxtantinôp phát biểu đầu tiên. Gavrilôp rời khỏi đơn vị, mọi vấn đề về công tác tổ chức, tư tưởng của phi đội bây giờ đè nặng lên vai đồng chí ấy. Đồng chí nghiêm khắc phê phán sai sót của Belôp. Các đồng chí Đảng viên khác cũng đồng ý với ý kiến của tổ trưởng Đảng.
- Đồng chí đã thấy được hết tác hại của việc lơ là của mình rồi chứ? - Đồng chí hỏi cặn kẽ người thợ máy. - Đây không phải là trò đùa, không phải là chuyện nhõng nhẽo của trẻ con. Đây là chiến trận. Hãy nhớ - là chiến trận. Đồng chí có thể gây ra cái chết cho đồng đội mình.
- Belôp đã làm hỏng chuyến xuất kích của người phi công ưu tú. Đấy không phải là Lucavin bay, mà là Orlôpxki! Sai phạm của Belôp đã tạo điều kiện cho thằng phát xít có cơ hội lại được cất cánh lên trời lần nữa. - Xêmưkin tức giận phát biểu.
Cuộc họp kéo dài chừng nửa tiếng, nhưng làm cho Belôp nhớ đến suốt đời. Đồng chí đã nhận được bài học nghiêm khắc.
Một đêm ngắn ngủi không yên tĩnh. Pháo bắn không ngớt, bom nổ không ngừng. Tôi chợt tỉnh bởi những tiếng động cơ nặng nề.
- Tiếng gì đó như là tiếng xe tăng ấy, - Xêmưkin dậy sớm hơn tôi, nghe ngóng, nói. Chẳng lẽ bọn phát xít lại chọc thủng phòng tuyến rồi à?
- Phỉ thui! Cậu thì! Chúng đi đâu mà chả bắn.
- Đúng vậy!
Chúng tôi ra sân đỗ máy bay. Trời chưa sáng hằn. Ngay bìa rừng, sát cạnh những máy bay của chúng tôi là những chiếc xe tăng "T-34" nấp dưới các lùm cây.
- Tôi không thể hiểu ra làm sao cả, - Xêmưkin giang rộng hai tay, giơ lên trời.
Những người lính tăng chừng như cũng ngạc nhiên không kém khi mình chiếm lĩnh phòng tuyến cạnh các máy bay.
- Tôi tham gia chiến đấu năm nay là năm thứ hai rồi, nhưng đây là lần đầu tiên chúng tôi có người láng giềng như thế này, - người chỉ huy xe tăng gần nhất nói trong sự ngạc nhiên.
Khi trời sáng hẳn, bộ đội tăng nhận nhiệm vụ chiến đấu. Cánh rừng đầy ắp tiếng động cơ gầm rú. Đất nhàu nát dưới những vòng xích sát. Đoàn tăng lao vào trận đánh.
Những chuyến xuất kích sáng ngày mồng 8 tháng 7 của chúng tôi không hề gặp một bóng dáng máy bay nào của bọn Hítle cả.
- Lũ châu chấu sắt của Thống chế Ghêrinh đã bị bóp vụn rồi, - Orlôpxki nói.
Phòng tuyến mặt trận dù cho có bị bọn Hítle tấn công, vẫn đứng vững, không suy chuyển. Bọn địch có nhích được chút nào về phía trước không hay cuộc tấn công của chúng đã bị sặc rồi? Hình như, ngày mồng 7 tháng 7 là ngày nặng nề nhất đối với quân đội chúng ta. Trong ngày ấy, những trận đấu tăng ác liệt đã xảy ra. Chúng tôi quan sát được họ từ trên không. Chỉ riêng vùng Iakôlevô thôi, các phi công trinh sát của chúng ta đã chụp được bức ảnh có đến 200 chiếc tăng của bọn phát xít cùng cháy một lúc.
Sang nửa ngày thứ hai, trung đoàn trưởng Utkin quyết định thân chinh cất cánh. Trong biên đội của đồng chí có cả tôi và các phi công trẻ Carablin và Philipôp.
Giai đoạn đầu, chúng tôi không hề phát hiện được gì ở trên không. Nhưng rồi, ngay ở phía trước mặt hình như có những chấm đen. Chúng lớn lên rất nhanh. Điều kiện thuận lợi cho việc tấn công bất ngờ. Utkin ra lệnh: "Tất cả theo tôi, vào tấn công!" - Và bắt đầu chiếm vị trí có lợi.
Thời điểm ấy bọn phát xít cũng phát hiện được chúng tôi. Hai chiếc của bọn chúng giữ nguyên độ cao, còn hai chiếc tách ra lao xuống phía dưới. Vững tin vào trình độ bay điêu luyện của mình, Utkin quyết định giao chiến. Đồng chí cử tôi cùng đồng chí bám theo bọn "Metxersmit" đang giảm độ cao, còn các số 2 của chúng tôi thì lao vào biên đội hai chiếc của địch ở cùng độ cao.
Quyết định ấy chưa chuẩn xác về mặt chiến thuật, bởi vì các số 2 không có ai chỉ huy.
Với tốc độ lớn, Utkin đuổi theo kẻ địch. Có lẽ, đồng chí quyết định sẽ bắn vào thời điểm khi thằng địch cải ra khỏi bổ nhào, nhưng vì quá tập trung vào kẻ địch nên đồng chí đã không kéo máy bay mình ra khỏi góc lao lớn được và đã đâm thẳng xuống đất.
Cái chết mới thật vô lý làm sao! Sự sai sót ấy trong quá trình điều khiển máy bay lẽ ra không đáng có, kể cả đối với phi công mới. Đằng này, lại là với phi công giàu kinh nghiệm bay!
Những ý nghĩ ấy đến với tôi muộn hơn. Còn vào thời khắc ấy, trong tôi chỉ thấy tổn thất đau đớn. Và hơn nữa, còn cảm nhận được vị trí thay thế chỉ huy. Tôi tăng góc lao, đuổi kịp thằng "Metxer", đưa nó vào giữa kính ngắm và ấn cò súng.
Thế là xong chuyện!
Trong thời gian ấy, bọn địch bổ sung thêm 4 chiếc "Metxersmit" nữa vào khu chiến. Tổng cộng có 6 chiếc của bọn chúng lao vào các số 2 của chúng tôi. Những chiếc "Iak" cơ động liên tục, cố gắng thoát ly khỏi những làn lửa đạn. Bằng động tác vòng chiến đấu gấp "lật qua cánh", tôi lấy độ cao, cố gắng đến giúp đồng đội.
- Hoan hô! - Philipôp vui mừng reo lên trong đối không.
Kẻ địch khi phát hiện được tôi liền chuẩn bị quay ra tấn công. Philipôp lợi dụng ngay cơ hội ấy. Đồng chí nhanh chóng ngoặt gấp, bám vào sau thằng "Metxersmit" và bằng một loạt đạn chính xác, hạ gục nó.
Số còn lại không dám tham chiến nữa.
Cho đến chiều tối, chúng tôi còn xuất kích thêm một lần nữa với biên đội 8 chiếc. Thành phần biên đội gồm có các phi công của cả 3 phi đội. Chúng tôi cất cánh khi nhận được thông báo từ sở chỉ huy có một tốp máy bay ném bom địch đang tiến đến phòng tuyến. Chúng tôi tập hợp biên đội, chia thành hai tầng, nhanh chóng lấy độ cao để tiếp cận địch.
Phía thành phố Belgôrôđa đang có 6 chiếc "Junker" với 9 chiếc "Hâyken" dưới sự yểm hộ của các biên đội tiêm kích "Metxersmit" và "Phôcker - Vulph".
"Sẽ nện nhau tới số đây, - tôi nghĩ. - Chúng bay rồi sẽ thành những đống sắt vụn thôi...".
Tôi chiếm vị trí có lợi từ hướng mặt trời. Bọn địch bay bình tĩnh vì chưa phát hiện ra chúng tôi. Tôi chọn thời điểm thuận lợi để nện vào lũ Hítle.
- Tất cả theo tôi vào công kích!
Bọn phát xít hoảng loạn bởi lửa đạn của chúng tôi, vội vã vứt ngay bom lên đầu quân chúng và quay ngược trở lại, tháo chạy. Chúng tôi bổ vào lũ "Hâyken". Đợt công kích đầu tiên, chúng tôi không chia cắt được đội hình địch, nhưng thế vào đó là một chiếc ném bom bị bốc cháy. Cùng lúc ấy, Philipôp cũng tách khỏi đội hình của chúng tôi.
Tôi ra lệnh:
- Giữ đúng vị trí trong đội hình!
- Tôi bị thương rồi, - Philipôp báo cáo. - Cho phép tôi quay về!
- Cho phép, chúng tôi sẽ yểm hộ.
Cuộc tấn công bọn "Hâyken" vẫn tiếp diễn. Bọn tiêm kích địch đi yểm hộ cũng đã kịp giao chiến với một biên đội hai chiếc "Iak". Sau lần công kích đồng loạt lần thứ ba của chúng tôi, bọn ném bom không thể chịu nổi, liền vứt hết bom, tăng cửa dầu tháo chạy.
- Xin phép được truy đuổi! - Êgôrôp hét.
Tôi không đồng ý.
Tôi tập hợp toàn biên đội để chuẩn bị nghênh chiến với đợt tấn công mới. Bất ngờ tôi nghe thấy:
- Chim kền kền, các anh có phát hiện được cánh rừng nằm ở phía Nam của khu làng kia không?
- Tôi phát hiện được rồi.
- Tấn công về phía Bắc cánh rừng, ở đó bộ binh ta đang chuẩn bị tấn công, - "mặt đất" ra lệnh, - đấy là mật danh của Tư lệnh.
Sau khi tập hợp đội hình về cạnh phải, tôi lượn vòng trái để lao vào tấn công. Rừng chạy vùn vụt theo hướng đối đầu. Càng xuống gần, càng rõ hình dáng của bọn Hítle với sắc màu xanh sẫm. Bọn chúng mới đông làm sao! Những tràng súng máy xé không khí. Sượt trên các ngọn cây, bằng một vòng khép kín, toàn phi đội chúng tôi bay vụt qua.
- Giỏi lắm, các phi công tiêm kích ạ! - Giọng nói từ mặt đất vang lên. Các đồng chí bộ binh gửi lời cám ơn đấy. Tôi đề nghị công kích tiếp lần nữa!
- Đánh đến viên đạn cuối cùng - Tôi ra lệnh qua đối không và tiến hành công kích hết lần này đến lần khác.
Các khẩu đội pháo cao xạ của địch nấc sặc lên trong cơn điên dại yếu ớt.
Đến lần công kích cuối cùng thì các họng súng trên máy bay tôi im bặt: đạn đã hết nhẵn. Tôi chuyển máy bay lấy độ cao, theo sau tôi là đồng đội, sau khi đã tưới lửa đạn lên đầu kẻ thù.
- Công việc kết thúc rồi, - tôi truyền lệnh qua đối không.
Bất ngờ, máy bay tôi bị va đập mạnh. Động cơ bị thương, ngừng hoạt động. Giữ tốc độ, tôi lao về phía đất mình. Dưới cánh là những giao thông hào của địch, những vùng đất bị cày xới vì bom đạn lướt qua rất gần. Cần phải bay tiếp, chỉ cần vài giây nữa thôi, dù một giây nữa cũng được. Nhưng máy bay đã tuân theo đúng luật của khí động lực học, mất tốc độ. Tôi chọn chỗ hạ cánh. Trong nháy mắt - máy bay nặng nề cày xuống vùng đất "đang tranh chấp".
Tôi nhanh chóng nhảy ra khỏi buồng lái, chạy chừng chục mét, nhảy xuống hố bom. Đạn bắn theo tôi như mưa. Tháo dù ra khỏi người, tôi rút súng ngắn, chuẩn bị lựu đạn - quà tặng của chính trị viên Gavrilôp. Tôi nhớ lại lời của đồng chí ấy: "Này, cho phi đội trưởng quả lựu đạn này, cứ mang theo người đi, có thể, sẽ có lúc cần đến nó đấy!". Đúng thật, quả lựu đạn giờ phút này thật đáng quý giá biết bao. Vô cùng cám ơn chính trị viên.
Giữa những tiếng rít của đạn, tiếng nổ của mìn, tôi nghe thấy giọng quát:
- Thằng Nga, đầu hàng đi!
"Bây giờ tao sẽ cho bọn chó đểu biết tay. Chỉ tiếc là tao chỉ có một quả lựu đạn thôi" - tôi nghĩ và kéo chốt an toàn.
- Đứa nào chán sống thì đến đây! - Tôi ném quả lựu đạn về phía tiếng quát vừa rồi.
Một tiếng nổ vang lên. Tôi định lợi dụng dịp ấy để chạy đến giao thông hào, nhưng vừa nhổm lên thì tôi bị trẹo chân phải, ngã ngay xuống.
Pháo binh ta đã chuyển tầm hoả lực, dập trúng vào bọn địch. Đạn pháo đã ấn bọn bộ binh dúi xuống đất. Trong giây phút may mắn ấy, một đồng chí bộ binh đã bò xuống hố bom và đưa được tôi về với quân ta.
Tôi phản đối việc đi bệnh xá, và đồng ý điều trị tại hầm. Sau mỗi chuyến xuất kích, Xêmưkin đều thông báo tỉ mỉ cho tôi biết mọi chuyện, và các buổi chiều, vẫn như trước đây, chúng tôi vẫn tiến hành những cuộc giảng bình, phân tích các trận đánh.
Ngày 12 tháng 7, ở khu vực Prôkhôrôpca đã nổ ra trận đấu tăng khốc liệt, cả hai phía tham gia vào trận đấu này có đến nửa ngàn chiếc tăng, nhưng xe tăng của Đức không chọc thủng được phòng tuyến của chúng tôi. Ngày hôm ấy, 400 xe tăng Đức cùng pháo tự hành của chúng đã bị phá huỷ.
Đến ngày 15 tháng 7, bọn phát xít còn tiếp tục mở những cuộc tấn công nữa, nhưng không có kết quả. Hai ngày sau đó, quân đội của chúng ta sau khi đã làm cho kẻ thù kiệt sức, chuyển sang phản công và đến ngày 23 tháng 7 thì đẩy chúng trở về vị trí ban đầu.
- Sự im lặng mới lạ làm sao, - Cuzơmin nói khi từ xuất viện trở về. - Cứ như là chưa hề xảy ra vấn đề gì ở nơi này vậy.
- Ôi cha, chưa hề xảy ra vấn đề gì, - Orlôpxki cười. - Phi đội chỉ còn lại cái tù và, vậy mà cậu ta lại bảo chẳng có vấn đề gì. Nếu mà cậu thấy được cảnh tượng ở Prôkhôrôpca, hoặc ở tuyến đường quốc lộ Obôianxki!
Cảnh tượng quả là không bút nào tả nổi. Hàng ngàn xe tăng cháy rụi, xác pháo ngổn ngang, máy bay rơi khắp phố, khắp đồng.
Phi đội chúng tôi giáng cho kẻ thù những tổn thất không nhỏ, nhưng bản thân chúng tôi cũng gánh chịu những mất mát. Chúng tôi không còn đủ người. Số này thì hy sinh, số khác thì bị thương không thể bay được. Hình như chỉ còn độc Orlôpxki và Axkircô là chẳng bị vết xây xát nào cả.
- Chúng ngán tôi rồi, - Axkircô đùa. - vì thế mà chẳng đạn bom nào của bọn Đức muốn đụng đến tôi cả.
Người ta chuyển chúng tôi về hậu phương. Đi ngược chiều với chúng tôi là những binh đoàn tăng, những lữ đoàn pháo binh, bộ binh hành quân rung chuyển đất, những trung đoàn không quân bay rợp trời. Họ có nhiệm vụ phải phát huy những thắng lợi của những trận phản công vừa qua để đánh bại lũ phát xít về phía Tây.
Trong khu rừng Nhicônxki ở ngoại ô Vôrônhes, chúng tôi được nghỉ ngơi trong vòng 10 ngày, sau đó lên máy bay vận tải và được chuyển sâu vào trong hậu phương.
Đến sân bay thuộc trung đoàn quân dự bị, trong một thời hạn ngắn, chúng tôi bay chuyển loại sang loại máy bay mới và được trang bị hoàn thiện. Nơi đây tất cả đều cảm thấy khác thường. Không hề thấy dấu hiệu của sự căng thẳng chiến trận như các sân bay ngoài chiến trường. Các chế độ trong ngày chặt chẽ, không có những chuyến bay xuất kích, chẳng có những lo lắng cho số phận của đồng đội. Ngay cạnh sân bay là thành phố còn nguyên vẹn, thanh bình, tươi đẹp. Thực ra, đấy chẳng qua chỉ là cảm giác ban đầu. Chúng tôi đã khẳng định được rằng ở đây đã có những cuộc chiến đấu dũng cảm chống lại bọn thú phát xít. Buổi chiều, khi chúng tôi gặp gỡ những người công nhân trong nhà máy thì mới biết rằng họ làm việc với trách nhiệm lớn lao như thế nào để thực hiện được những yêu cầu của quân đội. Các công nhân hỏi chúng tôi cặn kẽ về những cuộc chiến đấu.
Trong một thời gian ngắn, chúng tôi, những phi công và thợ máy đã nghiên cứu kỹ lý thuyết, cấu tạo máy bay và động cơ. Chẳng mấy chốc đã đến thời hạn thực tập trên loại máy bay mới.
Vào thời gian đó, thiếu tá Obôrin được bổ nhiệm chức vụ trung đoàn trưởng trung đoàn mới. Đồng chí đến với chúng tôi tự nhiên như người đã từng phục vụ trong trung đoàn rồi, chỉ vừa mới đi công tác xa về thôi. Vóc người tầm thước, hoạt bát, với mái tóc chớm bạc, cái nhìn sáng suốt, thông minh, trung đoàn trưởng lập tức gây được thiện cảm với toàn trung đoàn. Đồng chí đã xuất kích hơn 300 chuyến, bắn rơi một số máy bay địch và đã từng thực hiện chuyến dùng máy bay đâm nhau ở vùng gần Xtalingrat. Đồng chí khác với các đồng chí chỉ huy khác ở chỗ là trên tay áo va-rơi của đồng chí có thêu những ngôi sao đò. - Trước kia, đồng chí đã từng ở cương vị chính ủy.
- Những ngôi sao ấy làm cho nhân dân tôn trọng hơn, - Obôrin nói như vậy khi có lần có người đề nghị đồng chí tháo ra. Đồng chí đã kể về sự tích những ngôi sao ấy. Sau khi dùng máy bay của mình đâm thằng "Metxersmit", đồng chí đã hạ cánh với chiếc máy bay bị thương xuống cánh đồng. Những người nông trường viên chạy đến phía đồng chí. Họ cứ nghĩ đấy là máy bay của phát xít.
- Trói nó lại, các bạn ạ, cứ dẫn đến đằng kia rồi hãy hay, - một người nông trường viên lớn tuổi ra lệnh. - Quần áo thì bọn địch cũng có thể ăn mặc giả thế được.
Nhưng có một phụ nữ kiên quyết phản đối:
- Ôi giời, các ông đàn ông! - Đây chính là chính ủy của chúng ta rồi. Chẳng lẽ các ông không nhìn thấy những ngôi sao trên tay áo à?
Đúng vậy thật, bọn phát xít cũng thường mặc trang phục, giả làm Hồng quân Xô viết, nhưng dấu hiệu của chính ủy thì chúng không bao giờ dám dùng vào ý đồ trà trộn của chúng.
... Những phi công trẻ được biên chế về trung đoàn dự bị. Một số về trung đoàn tôi và họ nóng lòng muốn được tham chiến. Họ sợ nhất là không được phân công nhiệm vụ.
Có lần, có hai phi công thuộc lực lượng "ăn đợi nằm chờ" đến gặp tôi ở gần nhà nghỉ.
- Chúng tôi xin phép gặp đồng chí có được không ạ? - Tôi là thiếu úy Môtuzcô, - một chàng trai khoẻ mạnh, mắt đen với cái nhìn trong sáng của con trẻ tự giới thiệu.
- Tôi nghe đây, đồng chí Môtuzcô ạ.
- Hãy cho chúng tôi ra mặt trận, - cậu ta nài nỉ. - Tôi cùng với Xôpin ở trường đã cố gắng tốt nghiệp đầu tiên, đến đây với hy vọng là sẽ được nhập cuộc ngay. Và như vậy đấy, họ lại đưa chúng tôi đến trung đoàn dự bị.
- Thật xấu hổ khi đi vào thành phố, - thiếu úy Xôpin nói thêm. - Thưa đồng chí chỉ huy, đồng chí tiếp nhận chúng tôi chứ ạ.
- Đâu chỉ có một mình các cậu ở hậu phương.
- Nhưng thưa, số kia là dân sự ạ, họ đều làm việc ở nhà máy, còn chúng tôi là quân nhân. Vị trí của chúng tôi là ở ngoài mặt trận, - thiếu úy Môtuzcô nài nỉ.
- Nào, thế các cậu định chiến đấu thế nào nào?
- Chúng tôi sẽ chiến đấu đến tận Beclin, - cậu ta vui vẻ trả lời.
- Đến tận ngày toàn thắng ạ, - Xôpin nói chêm vào.
Tôi nhớ lại giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh và lời hứa của mình với chính ủy Vôncôp. Tôi cũng đã cam đoan chiến đấu đến cùng với bọn phát xít. Trái tim tôi đập run rẩy.
- Nào, chúng ta cùng đi gặp trung đoàn trưởng vậy. Tôi sẽ đặt vấn đề. Cũng có thể, đồng chí sẽ đồng ý.
Obôrin gặp gỡ và nói chuyện với các phi công rất thân thiện rồi lệnh cho tham mưu trưởng tiếp nhận bổ sung cho trung đoàn. Thế là, Môtuzcô trở thành số 2 của tôi. Ngay từ những chuyến không chiến tập luyện đầu tiên, cậu ta đã tỏ ra là một phi công can đảm và có năng lực.
... Mọi chuyện đã trọn vẹn. Phi đội đông đủ. Chúng tôi chuẩn bị chiến đấu. Trước khi cất cánh ra mặt trận, các đồng chí thợ máy kiểm tra lại một lần cuối, soát xét lại xem những gì đủ, những gì chưa đủ. Những khí tài dự bị, họ nhét hết vào trong các hốc trống của máy bay.
Tôi dẫn phi đội bay qua dãy Capcadơ. Có cảm tưởng như các dãy núi kéo dài vô tận. Tôi lại nhớ lại chuyến bay đầu tiên qua Capcadơ và cái chết bi thảm của Xôcôlôp.
Giai đoạn đầu của cuộc hành trình, chúng tôi bay yên ả, nhưng đến trước khi lấy hướng qua những dãy ở phía Bắc thì thấy xuất hiện những đám mây giông, còn ở xa xa phía dưới những khe núi, có những đám sương mù.
"Các cánh cửa vào núi đã mở", - tôi mỉm cười nhớ lại báo cáo của đồng chí trực ban khí tượng. Tôi chuyển đội hình bay theo hàng dọc để bay qua núi. Chuyến bay thật khó khăn, nguy hiểm, nhưng chúng tôi tin tưởng sẽ hoàn thành. Cuối cùng thì các dãy núi cũng đã ở lại phía sau lưng. Đã thấy thảo nguyên của vùng Bắc Capcadơ. Phía trước là dòng sông Cuban uốn lượn như một dải lụa mềm. Chúng tôi xuống hạ cánh ở Armavir, nạp dầu liệu.
Trước chuyến bay, đồng chí dự báo khí tượng không yên tâm lắm về tình hình thời tiết. Trên hướng hành trình bay có những đám mây thấp với những làn mưa bụi. Từ vùng Tikhôres trở đi còn có khả năng có sương mù. Mây thấp không cản trở được chúng tôi. Mưa bụi cũng không đáng sợ, nhưng mà sương mù thì...
- Thì gió sẽ thổi quang, - Cuzơmin nói vẻ cau có. Ông ấy làm ầm ĩ lên rồi bỏ đi. Dẹp việc của ông ấy sang một bên được rồi đấy. Cái chính là - ông ấy đã tuyên bố - phòng ngừa thôi: có khả năng có sương mù.
- Chúng ta sẽ bay, - tôi quyết định.
Dự báo khí tượng đã không lầm: bay đến gần Tikhôres, chúng tôi gặp những tầng mây của phơ-rông nóng. Chúng tôi hạ thấp độ cao, bay dưới những tầng mây gây mưa. Toàn phi đội bay ở độ cao cực thấp. Tầm nhìn xấu đến nỗi chúng tôi có thế va vào các chướng ngại vật bất kể lúc nào.
Nhưng tôi vẫn dẫn phi đội bay về phía trước, với hy vọng rồi thời tiết sẽ tốt dần lên. Các phi công im lặng bay trong lo ngại. Không có đủ thời gian nói trên đối không nữa. Còn khoảng chừng hơn 30km nữa thì sẽ đến sân bay hạ cánh, nhưng bờ bên phải của sông Đông bị sương mù che kín hết cả. Tôi quyết định bay đến Bataixk, nhưng ở đó sương mù cũng che phủ hết. Làm gì bây giờ? Máy bay thì vẫn bay, không dừng được. Hy vọng cuối cùng đặt vào Azôp, ở đó may ra thời tiết có thể phù hợp cho việc hạ cánh. Dầu liệu ngày càng ít dần, mà dưới cánh máy bay của chúng tôi thì toàn là ruộng cày sũng nước mưa thôi.
Cuối cùng, khi gần đến biển Azôp, ở khu vực Caganhich thấy thấp thoáng bóng những đống cỏ khô.
Tôi thu cửa dầu, hạ cánh thẳng xuống cánh đồng cỏ vừa được cắt. Theo sau tôi là cả phi đội lần lượt tiếp đất.
- Chỉ khoảng 10 giây nữa thôi là mình xông vào cánh đồng hoa hướng dương mất, Cuzơmin phấn khích nói. - Tôi vừa mới định thu cửa dầu, thì động cơ đã tắt ngấm rồi.
- Đúng thế, dầu liệu ở máy bay tôi cũng chỉ còn đủ cho vào bật lửa thôi, - Axkircô nói đùa.
Mọi chuyện qua đi một cách may mắn. Tất cả máy bay của chúng tôi đều nguyên vẹn, nhưng tôi lại lo: ở sân bay chúng tôi cần đến hạ cánh chắc mọi người chờ chúng tôi ghê lắm. Obôrin tha hồ mà đoán già đoán non! Cần phải nhanh chóng báo cáo cho trung đoàn trưởng biết là chúng tôi đang ở đâu mới được.
Tôi cùng với Olâynhicôp đi vào thành phố Caganhich. Chúng tôi tìm gặp chủ tịch nông trường.
Tôi giải thích lý do tại sao chúng tôi phải đến đây.
- Cần phải nhanh chóng gọi điện về sân bay.
- Nhưng đường dây bị đứt mất rồi, - chủ tịch trả lời, - chúng tôi chưa kịp sửa.
- Các anh đưa hết số phi công đến đây, máy bay cứ để đấy chúng tôi canh gác cho, tất cả ăn tối ở đây, ngủ lại đây rồi sáng sớm mai cất cánh, - một ông già người Côdăc vừa mới đến khuyên nhủ chúng tôi.
- Bố ơi, trước hết, chúng con phải báo cáo chỉ huy đã.
- Điều đó hoàn toàn đúng. Phục vụ là phục vụ. Chú ngựa của tôi cũng đang nằm chết gí ngoài đường kia kìa, mà nó mới ngoan ngoãn làm sao chứ. Nhiều chuyến hàng quan trọng chỉ mình tôi được tin tưởng thôi. Ây à, bây giờ thì tôi đào đâu ra được ngựa đây? - Ông già thở dài, ủ rũ.
- Thế này này. Cách đây khoảng 3 cây số có trạm gác của quân đội. Có thể ở đó họ có điện thoại đấy, - Chủ tịch nông trường chợt nhớ ra.
Đành phải đi đến đấy vậy, mặc dù chân chúng tôi không muốn nhúc nhích tý nào.
Đến trạm quan sát, chúng tôi nối được liên lạc và nói chuyện được với Obôrin. Đồng chí hứa là sáng hôm sau sẽ phái xe chở nhiên liệu đến.
Trên đường quay về, những người Côdăc đã cho chúng tôi những ổ bánh mỳ vùng sông Đông với mùi thơm thật quyến rũ, cùng với những thùng mật ong và những xô sữa tươi.
Quá nửa đêm chúng tôi mới về được đến chỗ máy bay của mình sau khi vượt qua chặng đường lầy lội. Đến sáng thì trời tạnh mưa. Gió lạnh xua những đám mây xám ra phía biển. Chẳng bao lâu thì xe chở nhiên liệu cũng đến. Chúng tôi nạp đầy dầu và cất cánh quay về sân bay mình.
- Tôi không kịp đình chỉ các anh cất cánh, - Obôrin nói, không nghe tôi báo cáo. Chúng tôi khó khăn lắm mới về được sân bay, còn mây thì tôi thấy ngày càng sà thấp xuống, lại còn thêm sương mù nữa chứ. Tôi nghĩ rằng các anh không thể xuyên qua được. Tôi chạy bổ đến chỗ máy điện thoại thì các anh đã cất cánh mất rồi và chẳng thể nào liên lạc qua đối không được nữa. Thời gian bay của các anh theo tính toán thì đã hết, tôi chỉ còn thiếu nước phát điên lên mà thôi. Trước mắt tôi cứ hiện lên cảnh tượng cả một phi đội bị tai nạn...
Trung đoàn trưởng hiểu rằng, trong trường hợp thời tiết xấu như vậy, cả một phi đội xuống hạ cánh được trên bãi cỏ tình cờ phát hiện được thì đâu có phải chuyện đơn giản. Đồng chí vô cùng mừng rỡ khi thấy chúng tôi lại có khả năng bay tốt đến như vậy.
Cũng trong ngày ấy, sau một thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi, chúng tôi lại chuyển cơ động đến sân bay tiền duyên, mà ở đó chẳng bao lâu sau, toàn bộ trung đoàn không quân tiêm kích đã được tập hợp đông đủ.