Chương 16 Trên đất địch
Một lần nữa tôi lại vể với trung đoàn thân yêu của minh.
Những ai trong thời gian chiến tranh từng phải nằm viện thì đều biết rằng, khi mình đã hồi phục thì chỉ có nghĩ sao cho nhanh chóng được về đến đơn vị của mình. Để thực hiện nguyện vọng ấy anh phải xây dựng kế hoạch thật táo bạo, thậm chí phải trốn viện. Hạnh phúc làm sao khi về được đến trung đoàn, nơi gắn bó cả cuộc sống chiến trận của mình!
Những cây số cuối cùng tôi cảm thấy như con đường dài vô tận. Tôi căng thẳng nhìn địa hình, cố đoán xem bạn hữu ở chỗ nào. Rất nhiều lần bị nhầm. Cuối cùng thì tôi cũng thấy sân bay dã chiến, ở đó là những hàng máy bay chiến đấu được ngụy trang.
Ở đây, tôi gặp những bạn chiến đấu cũ, mới... và đấy là cuộc gặp gỡ tuyệt diệu, thân tình mà chỉ có được giữa những người chiến binh trong chiến tranh. Tất cả chúc mừng tôi đã hồi phục sức khoẻ, đã trở về với đội ngũ và hỏi tôi hàng trăm câu hỏi. Trong đám đông ấy, tôi không nhận ra được người phi công với khuôn mặt hốc hác, khập khiễng chạy lại phía tôi.
- Orlôpxki! Côlia phải không
- Đúng thế.
- Còn sống à?
- Còn sống.
Đấy là một niềm hạnh phúc thực sự - gặp lại người bạn giống như Nhexcherencô, cứ ngỡ là hy sinh rồi.
Đấy là câu chuyện dài và buồn kể về đồng chí đã bị thương ở gần Kirôvôgrat vào tháng 12 năm 1943, máy bay đồng chí bị bắn, đồng chí đã nhảy dù và bị bắt làm tù binh.
- Bây giờ đồng chí chỉ huy ạ, - Orlôpxki đăm chiêu nói, tôi đã thực sự hiểu thế nào là bọn phát xít. Trước đó tôi chỉ thấy chúng ở cách một khoảng cách, còn lúc ấy thì mặt giáp mặt, tôi lại không có vũ khí nữa. Anh hiểu không, tôi bị thương, nằm không động đậy được, còn nó, - quân súc sinh ấy, nó lấy ủng đá tôi...
- Hồi phục sức khoẻ đi rồi sẽ trả nợ sòng phẳng hết, - tôi cố an ủi người đồng đội đang xúc động vì ký ức. Đúng thật, số phận của con người trong chiến tranh được xếp đặt thật lạ lùng. Bao nhiêu trận vào sinh ra tử, máy bay cũng không một vết xây xát - vậy mà đùng một cái bị thương rồi bị bắt làm tù binh.
- Sẽ không lâu đâu. Tôi đã và sẽ nện chúng. Đúng sẽ phải nện chúng! - Orlôpxki thề tin tưởng... Chỉ có điều phải hồi phục thật nhanh.
Orlôpxki được giải phóng khỏi trại tù giam những tù binh quân đội Xôviết. Đồng chí tìm ngay về trung đoàn mình. Ngày hôm sau, đồng chí vào bệnh viện điều trị.
Thời tiết tốt dần lên, chúng tôi cũng đưa dần số phi công trẻ vào chiến đấu. Trong thời gian tôi vắng mặt, Pêtrôp đã trở thành số 1 và tôi tìm số 2 mới cho mình. Tôi quyết định lấy trong số mới được bổ sung về trung đoàn.
Một lần, sau khi nhận nhiệm vụ đi trinh sát, tôi vào trong hầm, nơi các phi công trẻ đang học tập. Tôi nói về chuyến bay sắp tới. Đường bay sẽ phải qua những vùng hoả lực của pháo phòng không và trên hai sân bay tiêm kích địch. Các phi công chăm chú lắng nghe nhưng chưa đoán được tại sao tôi lại kể tỉ mỉ về chuyến bay trinh sát sắp tới như thế. Họ chỉ hiểu ra sau khi tôi trình bày nhiệm vụ xong và hỏi:
- Nào, ai đồng ý bay cùng biên đội với tôi?
Không cần suy nghĩ, người xung phong đầu tiên là Phêđia Sapsan, một phi công trẻ với cái nhìn thông minh và cương nghị.
- Đồng ý, - tôi gật đầu. Chúng ta sẽ cùng bay. Giai đoạn nửa đầu của hành trình, Sapsan giữ đội rất nghiêm chỉnh, lặp lại tất cả những cơ động của tôi, không tiếp cận những điểm nổ của cao xạ. Tôi không ngạc nhiên về sự dũng cảm của phi công trẻ. Tôi hiểu rằng, để giữ được vị trí của mình trong đội hình, cậu ta không hề quan sát được gì hết ngoài máy bay của số 1 ra. Điều ấy thường xảy ra khi bay chuyến đầu tiên.
Nhưng khi quay về, chúng tôi đến gần địa phận của mình thì cậu ta đã tự do hơn.
Ở tuyến trước, bọn Đức bắn như điên như dại. Đạn địch vây kín máy bay của chúng tôi. Bấy giờ Phêđia báo cáo qua đối không:
- Bọn cao xạ đang bắn!
Chỉ đến bấy giờ cậu ta mới thấy được các điểm nổ mặc dù nó diễn ra suốt cả cuộc hành trình đầy nguy hiểm của chúng tôi.
- Ừ thì nó cũng phải bắn cái gì đó, - tôi trả lời bình tĩnh.
Khi Sapsan bước ra khỏi buồng lái, lập tức bị đồng đội vây quanh. Họ quan tâm đến tất cả, hỏi han từng chi tiết của chuyến bay với sự hồi hộp. Tôi rất thú vị khỉ thấy cậu ta trả lời một cách bình tĩnh, kìm nén.
"Cậu ta sẽ trở thành một phi công tiêm kích tốt!". - Tôi nghĩ và không lầm về sự đánh giá của mình. Cho đến trước chiến dịch tấn công tôi với Sapsan xuất kích gần 10 chuyến. Can đảm, sáng ý, cậu ta đã nhanh chóng quen với tôi, hiểu được những cơ động của tôi trong chuyến bay tức thì.
Các biên đội khác cũng tiến hành bay như vậy. Càng ngày chúng tôi càng nhận nhiệm vụ đi trinh sát lực lượng địch thường xuyên hơn. Các phi công rất quan tâm đến nhiệm vụ này và lần lượt chờ đến lượt mình. Tất cả đều phấn khởi vì trong những chuyến bay như vậy, có thể thể hiện được tính độc lập và sáng tạo của bản thân, lựa chọn những quyết định. Trinh sát, đúng ra chúng tôi thường kết hợp với nhiệm vụ "tự do săn lùng" - oanh kích những đoàn xe riêng lẻ, những đoàn tàu, nện những máy bay vận tải và những máy bay liên lạc của địch.
Trong những ngày ấy, bất ngờ xuất hiện Axkircô đáng yêu trong trung đoàn. Đồng chí bị bắn bị thương trong trận không chiến gần Iax. Đồng chí quay máy bay về phía đất ta và nhảy dù, nhưng lại tiếp đất trên miền đất lạ, giữa giao thông hào thứ nhất và thứ hai của địch. Chưa kịp tháo dù ra khỏi người, đồng chí đã bị bọn địch bắt làm tù binh. Sau đó một giờ, Ivan Axkircô tay bị trói quặt sau lưng, bị dẫn vào Bộ tham mưu Đức.
- Nhiệm vụ của binh đoàn các anh là gì? - Viên đại tá Đức hỏi.
- Là nện bọn phát xít, - không cần suy nghĩ, phi công ta trả lời luôn.
Đại tá cau có:
- Phiên hiệu của trung đoàn anh, sư đoàn anh? "Chà, bọn chúng muốn gì đây!" - Axkircô nghĩ. Rồi xuất hiện ý định sẽ cho bọn chúng những tin giả, nhưng lại quyết định là ngay việc cung cấp những tin giả cho địch cũng không xứng đáng là phi công Xô viết.
- Sao lại im lặng thế, anh bạn trẻ? Cứ trả lời đi đừng sợ, - Đại tá nói!
- Tôi mà sợ à? Tôi không sợ các ông đâu mà chính là các ông đang sợ tôi thì có. Các ông ở đây có bao nhiêu người, còn tôi chỉ có một, lại còn bị trói nữa.
Đại tá ra lệnh cởi trói cho đồng chí ấy, cho rằng với sự nhân từ ấy sẽ khiến đồng chí bộc lộ tất cả. Nhưng đã lầm.
- Anh là Đảng viên Đảng cộng sản?
- Đúng, tôi là Đảng viên.
- Anh sẽ trả lời câu hỏi của tôi chứ?
- Không!
Tên phát xít bắt đầu la hét, đe dọa sẽ bắn bỏ. Rồi lại thử đàm phán, hứa hẹn tặng thưởng các loại huân chương, nhưng không lung lạc được Axkircô. Đại tá ra lệnh giam. Phi công của ta bị giam trong phòng trống trơn với những cửa sổ chi chít song sắt. Một ý nghĩ xuất hiện trong đầu - Chạy trốn. Và đồng chí bắt đầu lên kế hoạch cho cuộc chạy trốn này. Cuối cùng đã có một quyết định táo bạo - chui qua cửa sổ trốn vào nhà vệ sinh.
Đến đêm tên lính gác theo yêu cầu của tù nhân đến để dẫn đi vệ sinh ở cuối hành lang. Axkircô cởi áo da bay đưa cho tên lính. Khi tên lính chỉ mới cầm lấy áo thì bằng một động tác điêu luyện, phi công ta giật được khẩu súng từ tay tên Hítle và giáng cho nó một báng súng vào tai. Vóc người gầy gò, nhỏ nhắn, Axkircô nhanh chóng trườn được qua khe cửa sổ và chạy biến vào trong bóng đêm. Đồng chí chạy dọc bờ tường đá cao với hy vọng tìm được lối ra. Đồng chí chạy rất nhanh, nhưng con đường lát gạch như kéo dài vô tận. Cổng đây rồi. Axkircô tiếp cận và nấp trong bóng tối. Bọn lính gác đang đi lại ở cổng. Cần phải tìm chỗ khác thôi. Phi công nằm xuống bò về phía khác, bám sát bờ tường. Đúng lúc đó, tiếng còi rúc lên phá tan sự yên ẳng. Đồng thời nghe thấy tiếng la hét và tiếng chó sủa. Một con chó săn to lớn, nhe răng dữ tợn, bổ vào phi công ta.
Đồng chí bị đánh. Thoạt đầu thì còn nhớ được tất cả, còn cảm thấy đau, về sau thì không phân biệt được gì nữa - vì đã bất tỉnh nhân sự.
Những tháng ngày dài nặng nề trong nhà giam. Những cuộc hỏi cung, những đợt tra tấn liên tục không bẻ gãy được ý chí của người chiến binh Xô viết. Trước lũ Hítle, đồng chí giữ được phẩm chất và lòng dũng cảm như trong trận chiến. Khi ấy bọn Hítle quyết định chuyển đồng chí vào trong trại tù binh. Thân thể bầm dập, đói khát, áo quần rách bươm, đồng chí bị tống lên tàu. Trong toa chật cứng người. Axkircô ngồi tựa lưng vào cửa sổ. Khi đoàn tàu chạy đến khu rừng, phi công ta trong chớp nhoáng đập cửa kính và nhảy ra khỏi toa.
Đồng chí không có cảm giác bị đập xuống mặt đất như thế nào, đồng chí lăn mấy vòng trên những ụ cát theo sườn dốc rồi đứng dậy được. Nhanh chóng phải chạy vào rừng khi tàu hoả vẫn đang chuyển động. Đằng sau lưng, súng bắn loạn xạ. Cuối cùng thì những cành cây mềm cũng xoà xuống mặt người phi công, nhưng đồng chí vẫn không gặp may. Trong rừng, Axkircô lại đụng độ với một đơn vị địch và một lần nữa lại rơi vào tay bọn phát xít.
Lại những cuộc tra tấn, những cuộc hỏi cung, những câu phỉ báng. Lần này thì chúng đưa đồng chí đến trại giam tù quân sự. Rồi ở đây, tìm được đồng đội tin cậy, Axkircô lại quyết chạv trốn. Vào một đêm mưa gió, hai người vượt hàng rào dây thép gai chạy một mạch, vượt khoảng 15 cây số. Nhưng rồi sáng ra họ lại bị bọn cảnh sát bắt.
Sau lần này, người phi công kiên cường ấy bị giam trong nhà giam đặc biệt. Nhưng sau chưa đầy một tháng, đồng chí lại cùng với một nhóm tin cẩn chuẩn bị cho cuộc chạy trốn mới. Và vào đêm mưa giông của tháng Bảy, năm con người dũng cảm đã thoát ra với tự do.
Họ đi thâu đêm, đến sáng thì gặp cánh đồng ngô. Họ giấu mình trong đó suốt cả ngày. Buổi chiều lại lên đường. Nhưng rồi ở đó, họ bị bọn Ghetxtapô bao vây.
- Bọn Nga, đầu hàng đi, - tiếng quát nổi lên tứ phía.
Những người chạy trốn chia làm hai nhóm. Axkircô và nhóm của mình bị bọn phát xít phát hiện ngay tắp lự.
- Số khác đâu rồi? - Phiên dịch hỏi. - Axkircô lâc đầu
- Chúng tôi chỉ có hai người.
Thằng Ghetxtapô nâng khẩu súng máy lên. Một loạt đạn ngắn bắn chết luôn người kia. Còn Axkircô bị đạn găm vào tay trái. Đồng chí ngã xuống, bất tỉnh. Đồng chí tỉnh lại trong một bệnh viện ở Rumani, không còn tay nữa.
- Nếu không có người nông dân đưa tôi lên xe ngựa, thì chắc tôi đã toi rồi. Ông ta lấy dây băng bó, buộc tay cho tôi, - Axkircô kể.
Vóc dáng năng động, mắt xanh, với nụ cười luôn nở trên khuôn mặt rám nắng, chàng trai là người dũng cảm hết mức và yêu hết lòng. Khi bắt đầu hồi phục, ý nghĩ chạy trốn lại nung nấu. Từ bệnh viện trong thành phố Galas vượt ra ngoài chẳng mấy gì khó khăn. Và đồng chí đã vượt khỏi viện.
Đây là lần chạy trốn thứ năm...
Axkircô đi vào ban đêm, tránh những nơi có người, sáng ra thì tìm nơi ẩn nấp sao cho không bị phát hiện. Đồng chí đi được năm ngày đêm. Buổi sáng ngày thứ sáu, từ nơi ẩn nấp nhìn thấy con đường quốc lộ, phát hiện thấy những chiếc xe tăng của ta. Người đằng mình rồi!
Nỗi đau đớn nặng nề không kìm nén được khi nhìn con người năng động, sôi nổi ấy không còn tay. Còn đồng chí thì không bao giờ bằng lòng với ý nghĩ là không bao giờ được cất cánh lên trời nữa. Đồng chí không tin là mình tàn phế.
... Vào cuối tháng 12 năm 1944, quân đội của Phương diện quân Ucraina - 1 bắt đầu mở trận chiến dịch tấn công trên chiến trường Xanđômirxki.
Sương mù và mây thấp đã làm hạn chế sự hoạt động của không quân. Tất cả gánh nặng chọc thủng phòng tuyến đè lên lực lượng pháo binh, bộ binh và xe tăng. Bộ đội mặt đất tạm thời tham chiến thiếu sự yểm hộ của không quân. Thời tiết vừa hửng lên một chút là chúng tôi bay chuyển sân đến một sân bay khác, nhanh chóng tra nạp dầu liệu và cất cánh đi làm nhiệm vụ.
Tôi dẫn đầu biên đội 8 chiếc. Trên tuyến đường quốc lộ có những đoàn xe đang di chuyển. Chúng rất đông. Đấy là lực lượng bộ binh cơ giới địch. Bọn phát xít rút chạy vô trật tự, bỏ lại nào súng ống, đạn dược và các loại khí tài.
Phía trước là Đzelôsin. Trong thành phố vẫn tiếp tục những cuộc chiến đấu. Các khu vực khác - là những đám cháy khổng lồ. Các xe tăng của ta vượt trước đội quân tháo chạy của Hítle. Họ chiếm giữ đường tháo lui của chúng.
Tấn công trên toàn tuyến. Quân đội Xô viết vò nát kẻ địch, đẩy chúng vào sự tháo chạy hoảng loạn! Chúng tôi bay tiếp mấy phút nữa. Tôi giở bản đồ bay ra để kiểm tra địa tiêu. Không có gì nghi ngờ cả.
- Dưới cánh bay của chúng ta là nước Đức đấy! Tôi hét qua đối không bằng giọng vui vẻ lạ thường.
- Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô!..
Các phi công trong biên đội reo lên.
Ước mơ biết bao cái giây phút này ở những ngày căng thẳng của chiến tranh. Năm 1941 khi chúng ta phải rút lui trước sức mạnh vũ bão của kẻ xâm lược. Rồi những trận đánh ở vùng sông Đông, sông Von-ga, từ đây bắt đầu những bước tiến không gì ngăn cản nổi đội quân của chúng ta tiến về phía Tây. Rồi vùng sông Đnhepr, Vixla... Khi đó, từng ngày từng giờ chúng ta đẩy dần chiến tranh về đất Đức phát xít - kẻ đã giơ cao thanh kiếm trên đầu chúng ta nghĩ sẽ làm được điều gì đó phi thường. Nhưng tất cả đều rất thường tình và đơn giản: bầu trời mùa Đông, tuyết đầy mặt đất, khói trên thành phố với những mái nhà nhọn, những dòng xe trên đường... tất cả thấy rộn ràng trong tim! Đá đến rồi! Giờ trừng phạt đã điểm. Ngày 20 tháng giêng năm 1945, đội hình mật tập của các máy bay tiêm kích Xôviết đã bay trên đất nước phát xít Đức.
Chuyến hạ cánh đầu tiên trên đất kẻ thù đáng nguyền rủa. Sân bay Alt-Rôzenberg. Thực ra đấy cũng chỉ là một bãi đất bằng phẳng của người họ hàng nhà Rôzenberg. Ngôi biệt thự 5 tẩng kiểu cổ xây ở cạnh, - qua bên kia suối - là ngôi nhà một tầng kiến trúc theo lối mới. Xa hơn nữa là những làng quê Đức bình thường với những ngôi nhà, những nhà thờ xây bằng đá, thẳng hàng, thẳng lối. Không có lấy một bóng người. Tất cả đều mạnh ai nấy chạy. Một số thì chạy về phía Tây, vào sâu trong đất Đức, số khác thì chui vào rừng rậm. Chúng bỏ chạy không kịp mang theo cả những thứ cần thiết tối thiểu. Chừng như đấy là sự hoảng loạn mà bầy thú khi chỉ nghĩ đến mạng sống của mình thôi, không lo được thứ gì khác nữa. Bọn Đức sợ bị trả thù.
Chúng tôi ngắm nghía ngôi biệt thự với sự tò mò, đi dạo khắp nơi, tha hồ chọn phòng ở. Trong thư viện lớn có hàng ngàn cuốn sách cổ quý giá. Trong gian phòng săn bắn, trưng bày trên tường những bộ sừng hươu - chiến lợi phẩm từ đời ông cha để lại, rồi những khẩu súng đắt tiền, rồi những chiến tích từ thời trung cổ, ở sảnh giữa - là lá cờ với chữ thập đen được thêu rất nhiều loại quốc huy khác nhau.
Các phi công, thợ máy được bố trí ở trong biệt thự. Những chiến binh mệt mỏi trong chiến tranh nằm nghỉ trên những chiếc giường, chiếc đi văng đát tiền, quên mất thói quen có được tiện nghi và ấm cúng. Niềm vui của chiến thắng đang đến gần làm cho những bài hát Nga bay bổng không ngừng.
Chúng tôi ăn sáng trong phòng ăn của toà biệt thự. Trên bàn ăn bày những đồ ăn quý giá được làm bằng sứ, pha lê, bằng bạc. Chúng tôi không đụng vào những thứ xa xí ấy. Chúng tôi nhìn chúng cũng thấy bình thường như những ca những cốc bằng nhôm mà thôi.
Ăn sáng xong, chúng tôi ra sân bay. Buổi sớm bình minh chiến tranh chưa kịp lên tiếng, những bông tuyết nhẹ nhàng rơi, xung quanh là cả một sự yên ắng lạ lùng. Chỉ nghe thấy tiếng gia cầm bị nhốt trong chuồng, bị bỏ đói kêu thảm thiết.
- Mấy con bò sẽ chết đói mất, - ai đó trong số phi công nói. - Cần phải cho chúng ăn thôi kẻo chết hết.
- Không phải thương xót đâu, chủ nó còn chẳng thương nữa là, cậu sao thế? Bước vào cuộc chiến thì ra đấy mà thương! - Saruep nói.
- Chỉ qua vài ba ngày thôi là chủ nhân của nó sẽ xuất hiện cho mà xem, - Cuzơmin khẳng định. - Chúng không ngồi lâu trong rừng đâu. Cứ bình tĩnh đi. Rồi chúng sẽ hiểu chúng ta không tàn bạo như khi chúng xâm lược chúng ta đâu. Tốt nhất là cậu suy nghĩ xem nên thực hiện nhiệm vụ chiến đấu như thế nào, đừng bỏ rơi các anh em bộ binh vì tầm nhìn kém lắm, - đồng chí chuyển đề tài của cuộc nói chuyện.
Đúng, cần phải bay. Trực ban tác chiến nhận được nhiệm vụ phải yểm hộ quân vượt sông Ôđe. Bay sát các ngọn cây, tôi dẫn đầu biên đội 8 chiếc vào khu vực Ôpeln - Ôlau. Tuyết đã ngừng rơi, đáy mây nâng cao dần đến độ cao 1000 m, nhưng đường chân trời vẫn bị những dải khói màu xám che như cũ.
Bộ binh của chúng ta tổ chức vượt sông ở mấy địa điểm nhưng hầu như không gặp trở ngại gì. Trận chiến ác liệt diễn ra ở Ôpeln. Quan sát những điểm nổ và những phát pháo hiệu vọt lên thì có thể dễ dàng xác định là chúng ta đã chiếm được nửa thành phố rồi. Bầu trời hiện nay yên tĩnh, không thấy bóng máy bay thù. Để không phải mang đạn dược ngược trở về, tôi lệnh cho toàn phi đội oanh kích vào nơi tập trung quân của địch ở ven thành phố.
Những viên đạn nổ trên đất lạnh cóng, để lại trên cánh đồng tuyết những hố đen ngòm. Những thân hình mặc áo màu xanh đang quằn quại dưới lửa đạn. Bọn địch tháo chạy bừa ra đồng, một số thì rúc vào những giao thông hào gần đó, số bị mảnh đạn găm vào thì ngã gục trong tư thế không bình thường.
- Bọn đểu giả, cho chúng mày chết này, - tôi nghe thấy giọng nói của Pêtrôp.
Cái chết khắp nơi đều đáng sợ. Bọn phát xít chạy trốn trên đất của chúng không khác gì đã chạy trên đất nước chúng ta. Nhưng chúng không sao thoát khỏi những họng súng liên thanh. Chúng tôi chia nhau tiêu diệt từng đại đội địch một.
Giữa trưa, chúng tôi lại tiếp tục bay đến Ôđe. Chúng tôi yểm hộ quân bộ binh đã sang phía bờ Tây sông - chiến trường nhanh chóng được mở rộng. Chúng tôi bay dưới mây. Tầm nhìn vẫn kém như cũ, nhưng mây đã có những lỗ hổng đâu đó để những tia nắng mặt tròi mùa Đông chiếu qua. Tuyết sáng chói dưới cánh bay của chúng tôi.
Bất ngờ từ phía xa thấy xuất hiện hình dáng một máy bay. Sau nó là 2 chiếc, 3 chiếc và là cả bầy "Phôcker-Vulph" bay cao trên mây. Chúng cất cánh từ sân bay trong hậu phương để đi đánh phá lực lượng tiểu đoàn pháo của ta. Chúng chưa phát hiện ra chúng tôi. Sau khi triển khai đội hình bay thành hàng ngang, chúng tôi đồng thời công kích vào một phía, toàn phi đội cắt vào đội hình địch đúng lúc chúng bắt đầu bổ nhào. Bốn chiếc bốc cháy dưới làn lửa đạn, rơi ngay gần tiểu đoàn thành bốn đống lửa. Số còn lại sợ hãi lủi ngay vào mây.
Chúng tôi vòng lại, bay lướt trên tiểu đoàn pháo ở độ cao thấp. Những người lính tung mũ, vẫy tay để cảm ơn. Đấy là phần thưởng cao quý nhất đối với chúng tôi.
Chúng tôi trở về sân bay gặp gỡ các đồng chí thợ máy trong niềm vui tràn ngập vì chiến thắng. Các đồng chí chúc mừng chiến công trong trận chiến đấu thắng lợi.
- Bốn máy bay địch bị bắn rơi, có nghĩa là trận không chiến ác liệt lắm phải không? - Tamara hỏi. Cô ấy vừa mừng, vừa lo: còn biết bao nhiêu trận không chiến nữa phải sống trong sự hồi hộp cho đến khi kết thúc chiến tranh!
- Thưa đồng chí chủ nhiệm kỹ thuật, bọn Đức bây giờ không còn như trước nữa, - Cuzơmin trả lời hộ tôi. - Ngày hôm nay chúng tôi vào oanh kích, vừa bắn rơi máy bay địch, còn bọn chúng thì không bắn lại được phát nào cả. Nói một cách ngắn gọn là chúng ta đã hoàn toàn làm chủ bầu trời!
Về chiều, thời tiết xấu. Chúng tôi không phải xuất kích đi làm nhiệm vụ nữa liền lên chiếc ô tô chiến lợi phẩm đi vào thành phố Kraisburg. Chúng tôi thấy choáng ngợp trước thành phố quá lớn của Đức lần đầu tiên được tiếp xúc.
Thành phố Kraisburg là thành phố quý tộc, không một bóng người. Chỉ còn những dấu vết của sự tháo chạy kinh hoàng. Trong các căn phòng của các nhà giàu mọi thứ không suy chuyển. Chỉ có những chiếc giường với chăn màn là nói nên điều các chủ nhân bỏ chạy khi còn chưa tỉnh ngủ.
- Thú vị thật đấy. Toàn bộ thành phố thuộc về chúng ta, thích gì thì lấy đi. Nhưng mà chẳng ai thèm lấy gì hết, chúng ta đâu phải là những kẻ tiểu nhân, - Cuzơmin vừa đi dọc theo phố vừa phán xét.
Dẫu sao thì họ bỏ chạy cũng rất vô lý, - Pêtrôp nói với vẻ tiếc rẻ. - Họ đã biết rằng chúng ta là những người chiến thắng và Hítle là tên bịp bợm rồi.
Tuyết rơi suốt đêm. Sáng ra trời lại hửng nắng. Sân bay bị che phủ bởi sương mù, đất thì tuyết nhão như cháo.
- Nào, chiến đấu thế nào đây, - các phi công vừa lắc đầu vừa nhìn bãi cất hạ cánh lầy lội.
Suốt ngày chúng tôi đợi thời tiết xem có tốt lên được chút nào không, chỉ mãi đến tận tối mới thấy le lói ánh sáng của những ngôi sao qua lỗ hổng của mây. Tôi tính là thời tiết sẽ lạnh hơn. Nhưng điều ấy không xảy ra. Trong khi đó thì không quân địch đóng ở trên các sân bay với đường cất hạ cánh bằng bê tông xi măng đã hoạt động tích cực, oanh kích các binh đoàn tăng của chúng ta. Không thể để chúng hoạt động ngang nhiên như thế được. Trung đoàn chúng tôi được giao nhiệm vụ phải yểm hộ đội hình tăng tiến phía trước ở khu vực Parkhvitsa.
Khi chạy đà, máy bay đánh võng phía nọ sang phía kia, cánh quạt máy bay tung những cột nước và bùn lên, che mờ kính buồng lái, bắn bẩn các thiết bị. Dẫu sao, phi đội cũng đã cất cánh được lên trời.
Tăng hết cửa dầu, chúng tôi bay vào khu vực cần yểm hộ. Chúng tôi đến Parkhvitsa thật đúng lúc: bọn máy bay ném bom của địch bay thành từng tốp từ phía Tây đang đến. Trận không chiến kéo dài. Chúng tôi bẻ gãy hết đợt tấn công này đến đợt tấn công khác của kẻ địch định oanh kích bộ đội tăng của chúng ta. Bất ngờ, tôi thấy động cơ máy bay tôi làm việc trục trặc. Rung ghê gớm. Nhưng tôi không thoát ly khỏi không chiến khi còn địch. Sau đó tôi vòng về hướng sân bay mình, nhưng máy bay không còn chút lực kéo nào nữa, và tôi bắt buộc phải hạ cánh xuống một sân bay trên đường gần đến sân bay mình.
Cần phải tìm nguyên nhân trục trặc cho động cơ và xác định được khả năng tiếp tục các chuyến bay. Tôi tháo bầu lọc dầu kiểm tra. Đúng là trong bầu lọc toàn những mạt sắt của vòng bi.
- Thế là hết! Cần phải thay động cơ thôi, - đồng chí kỹ sư đi đến nói!
- Báo cáo đồng chí chỉ huy, tôi có một đề nghị. - Phêđia Sapsan cũng vừa hạ cánh xuống sân bay này nói, cố gắng cho tôi đồng ý. - Đồng chí sang máy bay của tôi, còn tôi sẽ bay trên máy bay của đồng chí.
Cậu ta nhìn tôi như van xin, người bạn chiến đấu trung thành, can đảm.
- Phêđia, có gì khác nhau nào? Nếu mình không bay được trên đó thì cậu cũng không bay được trên đó mà.
- Tôi ư? - Cậu ta cau có. - Tôi một thân một mình, còn anh thì có chị Tamara Bôgđanôpna chờ đợi.
Tôi bực mình vì câu nói của cậu ta, nhưng kìm nén.
- Thôi đi Phêđia, tự mình phải hiểu chứ. - Và tôi hỏi kỹ sư: - theo anh thì động cơ có thể làm việc thêm được khoảng 20 phút nữa không?
Đồng chí ấy nhún vai:
- Cũng có thể được, nhưng bay như vậy mạo hiểm lắm.
Mạo hiểm thì không ai quen. Tôi quyết định cố bay về đến sân bay mình. Khó khăn lắm tôi mới cho máy bay tách đất rời khỏi sân bay nhão nhoẹt. Tôi gặp may: dẫu sao cũng về được đến sân bay mình.
- Anh đã bay, đúng là trên lời nói danh dự, - Tamara trách móc. - Không thể hiểu được, thế nào mà các bạn đồng nghiệp của tôi lại có thể cho máy bay như thế này lên trời được?
Đến sáng thì máy bay đã được thay động cơ mới. Nhưng tình trạng sân bay thì hoàn toàn xấu. Không thể nói gì đến việc cất cánh. Thợ máy bì bõm trong bùn, lắp dưới máy bay những cái giá đỡ. Bây giờ mà xuất hiện biên đội "Phôcker-Vulph" thì máy bay ta toi mất.
- Người anh em ạ, mùa Đông ở nước Đức thật thối nát, - Sapsan bực tức nói, - tháng Hai rồi mà trời vẫn còn mưa.
- Đành phải đợi trời lạnh thôi, - Pêtrôp phán đoán - trời sắp lạnh đến nơi rồi!
Ý kiến ấy thúc đẩy tôi ra chỉ thị phải cào cho bằng phẳng bề mặt đường cất hạ cánh bằng đất. Chi cần trời lạnh thêm một chút thôi - đất sẽ cứng hơn, đường cất hạ cánh sẽ sẵn sàng, cần phải bay dù trung đoàn chỉ cất cánh một lần thôi cũng được. Bộ đội tăng của ta đã chiếm được sân bay Brig - sân bay cấp một. Chúng tôi cần phải cơ động đến đấy.
Ba ngày liền mặt trời của mùa Xuân chiếu sáng, những dòng suối chảy róc rách, trong rừng tuyết đã tan. Những chiếc máy kéo liên tục lu lèn mặt đường cất hạ cánh. Toàn trung đoàn sống trong một ý tưởng: bàng mọi cách phải thoát ra cảnh cầm tù bời đường cất hạ cánh lầy lội này.
Chúng tôi làm khổ mấy đồng chí dự báo khí tượng. Tất cả yêu cầu phải có thời tiết lạnh, tựa như mấy đồng chí ấy điều hành được thời tiết vậy. Cuối cùng thì khi chiều đến, đã thấy những làn gió lạnh thổi, trên mặt đường ẩm ướt xuất hiện lớp đất cứng mỏng. Hôm sau, vừa chớm bình minh, toàn trung đoàn theo hiệu lệnh đã tập trung ở ngoài sân bay. Tất cả thợ máy nhanh chóng chuẩn bị cho các máy bay chuyển sân. Tôi thử chạy lăn. Máy bay như lăn trên tấm bê tông. Đường cất hạ cánh đã lạnh cứng.
Sáng ra, tất cả các phi đội đã chuẩn bị xong cho việc chuyển sân bằng cả đường không lẫn đường bộ. Số đi bằng phương tiện dưới mặt đất đi theo những tuyến đường quân sự để đến sân bay, đôi khi có những đoạn chưa rà phá hết mìn. Nhưng tâm trạng ai nấy đều phấn khởi. Sự nằm ỳ bắt buộc này chán đến tận cổ rồi...
Phi đội của Rưbacôp cất cánh đầu tiên, sau đó là phi đội của Metvêđep, tôi bay cùng phi đội khoá đuôi. Bay khoảng hơn 30km, tôi nghe thấy giọng lo lắng của Rưbacôp:
- Phía trước tuyết đang rơi dày, tầm nhìn chỉ khoảng 500m thôi. Làm gì đây?
- Tiếp tục bay theo hành trình, - tôi ra lệnh.
Bay sát mặt đất trong đội hình mật tập, chúng tôi may mắn vượt qua được dải mưa tuyết và hạ cánh được ở sân bay đã định, ở đây, tất cả mọi thứ đều nói lên những trận đánh gần nhất và sự tấn công vũ bão của những binh đoàn tăng của chúng ta. Xung quanh là những xác chết của bọn lính và sĩ quan Đức. Trên sân đỗ, còn nguyên vẹn những máy bay ném bom và tiêm kích, trong xưởng sửa chữa có rất nhiều máy bay các loại, trong đó có cả loại trinh sát khổng lồ ban đêm "Đornhe".
- Đây, đúng là đất chết của bọn Hítle, - Pêtrôp cười nói.
- Không có nhiên liệu thì bay làm sao, - Sapsan vừa nói vừa quan tâm đến những chiếc máy bay Đức còn tốt nguyên.
- Ở đây, ở vùng Ôđe này, chúng tôi tận mắt thấy nước Đức bị đánh bại. Bọn phát xít bằng mọi lực lượng, bằng mọi giá để ngăn cản sự tấn công của quân đội Xô viết, vội vã thành lập những phân đội lính tại chỗ đưa vào chiến trận và cũng chết tại chỗ. Hítle thì vẫn hăm dọa qua đài phát thanh rằng hắn sẽ đưa vào trận trung đội cuối cùng và sẽ sử dụng loại vũ khí làm cho nhân loại phải choáng váng...
Hình như hắn đã có bom nguyên tử do các nhà bác học Đức chế tạo một cách ráo riết. Nhưng lời nói vẫn chỉ là lời nói. Giờ đây, từng người một trong số chúng tôi đều hiểu chắc chắn rằng năm 45 sẽ là năm chiến thắng của chúng ta, rằng chỉ 2 - 3 tháng nữa thôi - là chiến tranh sẽ kết thúc.
Đây là Bộ tham mưu Đức trước kia. Phòng tráng ảnh rất lớn để xử lý các phim chụp từ máy bay, những lớp huấn luyện dẫn đường bay với những mô hình thực tập, xa hơn nữa là những dãy nhà kho dài vô tận với những động cơ và những phụ tùng thay thế cho máy bay khi vào sửa chữa. Tất cả đều bị bỏ lại. Chúng bỏ lại cả những Huân chương của đế chế phát xít - chữ thập sắt cất trong những chiếc hộp vuông vức xếp cẩn thận khoảng 200 chiếc một. Ở về phía nhà giam tù quân sự - giống như những chuồng gia súc xây thấp tịt, xám xịt, được bao quanh bằng hào rào dây thép gai mắc điện cao thế. Bây giờ trong trại giam không còn một bóng người. Họ đâu hết rồi, những người dân của nơi khủng khiếp trên mảnh đất đáng nguyền rủa này? Có thể họ còn sống được đến ngày giải phóng, mà cũng có thể họ đã bị sát hại dã man ở đâu đó. Họ có lẽ là những người bị bắt buộc phải xây tất cả những công trình sân bay tuyệt vời này.
Chúng tôi thu xếp ngủ đêm ở làng Mônvis bên cạnh. Ở đây, đặc biệt vùng ven làng có rất nhiều xác chết của lính và sĩ quan Đức. Chúng tôi chú ý đến tượng đài - đấy là một bảng đá xám cao, được khắc tên tất cả những người dân trong làng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Tượng đài xây cạnh quảng trường nhỏ, bằng gạch. Những tượng đài tiêu chuẩn như vậy sau này chúng tôi còn bắt gặp ở trong các làng xóm khác nữa.
- Anh có thấy danh sách không? - Cuzơmin hỏi và hất đầu về phía bảng đá. - Có bao nhiêu tượng đài tưởng niệm như thế này ở khắp nước Đức? Phải hàng nghìn!
- Và chúng cần cái gì? - Xôpin góp chuyện.
- Chúng cần đất đai của chúng ta, cần bánh mỳ của chúng ta, cần thịt bò của chúng ta, - Pêtrôp nói. - Một dân tộc thế đấy? Quen nhòm ngó thèm khát ở các đất nước khác.
- Cậu nói về dân tộc không đúng rồi, - Cuzơmin phản đối. - Bọn phát xít gây ra chiến tranh chứ.
- Thế bọn phát xít sống trong chân không chắc? - Xôpin bực tức vặn lại. Và sau đó cao giọng: - chẳng lẽ dân tộc Đức lại không gánh chịu trách nhiệm về chủ nghĩa phát xít sao? Tại sao lại cho Hítle làm được những việc dã man như thế? Nào nói đi!
- Tại sao ư. Danh sách những người hy sinh trên bảng đá này hàng ngày nhắc nhở người Đức rằng, đồng bào của họ, chừng như hy sinh anh dũng bởi những viên đạn của lính Nga. Nó làm cháy lên cảm giác của sự trả thù, nuôi dưỡng tâm hồn thù hận, - Cuzơmin giảng giải. Tất cả những cái đó, người anh em ạ, phức tạp hơn tưởng tượng nhiều. Còn chiến tranh, rõ ràng là bọn phát xít gây ra. Thế còn ai nuôi bọn chúng - đấy lại là vấn đề khác. Bọn đế quốc cần chủ nghĩa phát xít. Chúng đấy. Với sự giúp đỡ chủ nghĩa phát xít, chúng đã cám dỗ người Đức.
Cuộc tranh luận giữa bọn họ đã kết thúc. Cuzơmin đã đúng. Đồng chí nói rất tin tưởng và lập luận. Tất nhiên, dân tộc Đức đã cho phép Hítle lừa dối mình, và đấy là nỗi bi thương của họ. Điều ấy xảy ra như thế nào? Câu hỏi ấy trả lời đâu phải chuyện dễ dàng.
Hình như để minh chứng cho những lời của Cuzơmin hầu như trong các nhà, chúng tôi đều tìm thấy những quyển sách với sự minh họa xa xỉ nói về những giai đoạn khác nhau trong cuộc sống của Hítle, "sự gần gũi" của hắn với dân từ ngày nắm chính quyền. Đây hắn ở giữa bọn Đức, quan tâm đến đời sống của nông dân. Hay là hắn thân chinh vào các bệnh viện trao tặng Huân chương chữ thập sắt cho những người lính bị thương. Tất cả đều là sự lừa lọc, đóng kịch hết mức. Trong thực tế, hắn là tên đầy tớ trung thành của bọn có nhiều cổ phần và bọn tư bản. Chúng nuôi nấng con thú hoang dã này. Còn nhân dân thì trở thành người bị lừa. Bây giờ thì bắt buộc phải trả giá cho chủ nghĩa phiêu lưu của tên thống chế bệnh hoạn của mình.