PHẦN I
Thế là tôi lên đường để xin vào trường đại học Kazan[7], không thể nào đừng được.
Người gợi cho tôi ý nghĩ xin vào trường đại học là Nikolai Yevreinov, một thanh niên dễ mến, học sinh trung học, đẹp trai, có đôi mắt dịu dàng như mắt phụ nữ. Anh ở trên gác thượng cùng một nhà với tôi. Vì thường gặp tôi cầm sách trên tay nên anh rất chú ý, và chúng tôi đã làm quen với nhau. Ít lâu sau, Yevreinov bắt đầu khẳng định rằng tôi có “những khả năng đặc biệt về khoa học”.
– Cậu vốn sinh ra để phục vụ khoa học. ‒ Anh vừa nói vừa lắc mái tóc dài trông rất đẹp.
Lúc bấy giờ tôi chưa biết rằng ngay cả con thỏ cũng có thể phục vụ cho khoa học, và Yevreinov đã chứng minh rất hùng hồn với tôi rằng các trường đại học đang cần những thanh niên như tôi. Tất nhiên anh có nhắc đến gương Mikhail Lomonosov. Yevreinov nói rằng đến Kazan tôi sẽ ở tại nhà anh, trong suốt mùa thu và mùa đông sẽ học qua chương trình trung học, sẽ thi “mấy môn gì đó” ‒ đây là nguyên văn lời anh nói: “mấy môn gì đó” ‒ vào đại học tôi sẽ được cấp học bổng của nhà nước, và năm năm sau tôi sẽ trở thành “nhà bác học”. Mọi việc đều rất đơn giản, vì Yevreinov mới mười chín tuổi đầu và rất tốt bụng.
Thi trung học xong anh đi trước, khoảng hai tuần lễ sau tôi cũng lên đường.
Lúc tiễn chân tôi, bà tôi dặn dò:
– Cháu đừng có nóng nảy với người khác, lúc nào cháu cũng hằm hằm, cháu trở nên nghiêm nghị và kiêu căng rồi đấy! Cháu giống tính ông ngoại, mà ông cháu thì thế nào? Một ông già đau khổ, càng sống càng đâm ra đần độn. Cháu phải nhớ điều này: Chúa không hay quở phạt người đời, chỉ có ma quỷ mới thích chuyện đó! Thôi, vĩnh biệt cháu…
Bà tôi đưa tay lau mấy giọt nước mắt lấm tấm trên hai gò má nhăn nheo màu nâu sẫm và nói:
– Chắc bà cháu ta sẽ không gặp nhau nữa, cháu sẽ đi xa, nay đây mai đó, còn bà thì chằng sống được bao lâu nữa…
Dạo gần đây tôi luôn sống xa người bà thân yêu và cũng ít khi gặp mặt, nhưng lúc này bỗng nhiên tôi đau đớn cảm thấy rằng tôi sẽ không bao giờ còn được gặp lại con người ấy, con người vô cùng gần gũi và gắn bó với lòng tôi.
Đứng ở đuôi tàu, tôi nhìn thấy bà tôi đứng trên bến, một tay làm dấu thánh giá, còn tay kia cầm góc chiếc khăn san cũ lau mặt, lau đôi mắt đen sẫm long lanh, chan chứa lòng thương yêu vô hạn đối với con người.
Và đây, tôi đã đến một thành phố nửa Tatar, sống trong một gian phòng chật chội tại một ngôi nhà một tầng. Ngôi nhà nhỏ đơn độc nhô lên trên một cái gò ở cuối khu phố nghèo nàn và chật hẹp, một mặt tường giáp với khoảnh đất trống của một ngôi nhà bị cháy, cỏ dại mọc đầy. Giữa những khóm ngải cứu, ngưu bàng và chua me, giữa những bụi cây hương mộc, nổi lên cảnh điêu tàn của một tòa nhà gạch; bên dưới là một cái hầm nhà rộng, nơi trú ngụ và cũng là nơi gửi thây của lũ chó hoang vô chủ. Tôi còn nhớ rất rõ cái hầm nhà ấy, nó là một trong những trường đại học của tôi.
Gia đình Yevreinov ‒ một mẹ và hai con trai ‒ sống nhờ vào món tiền trợ cấp ít ỏi. Ngay từ những ngày đầu mới đến tôi đã được trông thấy cảnh người đàn bà góa bụa bé nhỏ, tiều tụy ấy đi chợ về với vẻ buồn thảm hại, bày các thứ mua được lên mặt bàn trong bếp và giải một bài tính hóc búa: Phải dùng những mẩu thịt vụn tồi tàn này thế nào để nấu một món ăn ngon đủ cho ba chàng thanh niên khỏe mạnh, chưa kể phần cho chính mình.
Bà là một người trầm lặng. Trong cặp mắt xám của bà đọng lại sự ngoan cường và tuyệt vọng của một con ngựa kiệt sức: Con ngựa kéo chiếc xe lên núi, nó biết rằng không kéo nổi, nhưng vẫn cứ kéo!
Tôi đến đây được khoảng ba ngày thì một buổi sáng, khi hai con bà còn đang ngủ, tôi vào bếp giúp bà gọt khoai, bà khe khẽ và dè dặt hỏi tôi:
– Anh về đây làm gì?
– Cháu về học, cháu xin vào trường đại học.
Đôi lông mày cùng với lớp da trán vàng khè của bà dồn cả lên phía trên, lưỡi dao chạm phải làm đứt ngón tay; bà vừa cho tay vào miệng mút máu vừa ngồi xuống ghế, nhưng lại đứng lên ngay và nói:
– Ôi, quỷ quái thật…
Bà lấy khăn mùi soa buộc ngón tay đứt lại, rồi khen tôi:
– Anh gọt khoai thạo lắm!
Còn phải nói! Rồi tôi kể cho bà nghe về thời tôi làm công trên tàu thủy. Bà hỏi:
– Anh tưởng thế là đủ để xin vào trường đại học đấy à?
Hồi ấy tôi còn chậm hiểu những lối nói hài hước. Tưởng bà hỏi thật, tôi liền kể cho bà nghe trình tự những việc cần làm để cuối cùng cửa “lâu đài khoa học” phải mở ra trước mặt tôi.
Bà thở dài:
– Ôi dào, Nikolai, Nikolai ơi…
Vừa lúc đó Nikolai cũng bước vào bếp để rửa mặt, vẻ mặt còn ngái ngủ, đầu tóc rối bù và vẫn vui vẻ như mọi ngày.
– Mẹ ơi, giá làm được món mằn thắn thì hay tuyệt!
– Được rồi.‒ Bà mẹ bằng lòng.
Vì muốn phô trương sự hiểu biết của mình về nghệ thuật nấu nướng, tôi mới bảo rằng thịt tồi thế này thì khó mà làm mằn thắn được, đã vậy lại ít nữa.
Bà Varvara Ivanovna liền nổi giận và nói mấy câu khá gay gắt khiến hai tai tôi đỏ bừng và như mọc dài thêm ra. Bà vứt bó cà rốt lên bàn rồi bỏ ra ngoài. Nikolai nháy mắt ra hiệu và giải thích cho tôi về cử chỉ của bà:
– Bực mình đấy…
Anh ngồi xuống ghế dài và nói với tôi rằng đàn bà thường dễ nổi giận hơn đàn ông, đó là bản tính của họ. Một nhà bác học lớn, người Thụy Sĩ thì phải, đã chứng minh rõ ràng điều đó. John Stuart Mill[8], một người Anh, cũng đã có ý kiến bàn về vấn đề này.
Nikolai rất thích kèm cặp tôi học, anh tận dụng mọi dịp thuận tiện để nhồi nhét vào óc tôi những điều cần thiết không thể nào thiếu để sống ở đời. Tôi lắng nghe anh như nuốt từng lời; về sau những cái tên Puocault[9], La Rocherfoucauld[10] và La Rochejaquelein[11] cứ lẫn lộn trong đầu óc tôi như tất cả chỉ là một, và tôi không sao nhớ được ai đã lấy đầu ai: Lavoisier[12] lấy đầu Dumouriez[13], hay ngược lại? Chàng thanh niên dễ mến ấy thành thật mong muốn “dạy cho tôi nên người”. Anh hứa với tôi một cách chắc chắn rằng anh sẽ làm việc đó, nhưng anh không có thì giờ và tất cả những điều kiện khác để dạy tôi học một cách nghiêm chỉnh. Tính ích kỉ và sự nông nổi của tuổi thanh niên không cho phép anh thấy được mẹ anh đã lo toan việc nhà một cách khó nhọc và khôn khéo như thế nào. Em trai anh, một học sinh trung học trầm lặng và khó tính, càng không nhận ra điều đó. Còn tôi thì từ lâu đã tường tận những mánh khóe phức tạp của khoa hóa học và kinh tế học trong nhà bếp, tôi thấy rõ tài tháo vát của người đàn bà hằng ngày phải đánh lừa dạ dày của con cái mình và phải nuôi báo cô một anh chàng có diện mạo đáng ghét và cử chỉ thô bỉ. Dĩ nhiên mỗi mẩu bánh mì mà tôi nhận được giống như một tảng đá đè lên tâm hồn tôi. Tôi bắt đầu đi tìm một công việc gì để làm. Tôi ra khỏi nhà từ sáng sớm để tránh bữa trưa, và những hôm xấu trời thì ngồi lì một chỗ trong gian hầm ở khu đất trống. Tại đây, mũi ngửi mùi hôi thối của xác chó mèo, tai nghe tiếng mưa ào ào và tiếng gió rít, chẳng bao lâu tôi nhận ra trường đại học đối với tôi chỉ là ảo tưởng, giá mà tôi sang Ba Tư có phải khôn ngoan hơn không. Tôi hình dung thấy mình là một thầy phù thủy râu tóc bạc phơ, tìm ra phép trồng được những hạt lúa mì to bằng quả táo, những củ khoai tây nặng hàng pood[14] và nói chung nghĩ ra được nhiều việc tốt để giúp cho quả đất mà trên đó không chỉ có mình tôi phải lê bước một cách khổ cực ghê gớm như thế này.
Tôi học được cách mơ ước đến những việc mạo hiểm phi thường và những chiến công vĩ đại. Điều đó giúp tôi rất nhiều trong những ngày gian nan của đời mình, và vì những ngày gian nan ấy rất nhiều, nên tôi lại càng giỏi bịa ra những mộng tưởng. Tôi không chờ đợi sự giúp đỡ từ bên ngoài và không hi vọng vào sự may mắn, ngược lại trong người tôi dần dần nảy nở tính bướng bỉnh, và hoàn cảnh sống càng khó khăn thì tôi càng cảm thấy mình vững vàng hơn, thậm chí khôn ngoan hơn. Tôi sớm hiểu rằng con người được tạo nên bởi khả năng chống chọi với nghịch cảnh.
Để khỏi bị chết đói, tôi tìm đến sông Volga, tới các bến tàu thủy là những nơi dễ kiếm được mười lăm, hai mươi kopek. Tại đây ‒ sống giữa những người khuân vác, những kẻ lưu lạc và trộm cắp, tôi cảm thấy mình là một thỏi sắt được vùi vào đống than đỏ rực, mỗi ngày đem lại cho tôi không biết bao nhiêu ấn tượng sâu sắc, nóng hổi.
Tại những nơi ấy, những con người cuồng vọng, bản tính thô lỗ, quay cuồng trước mắt tôi như một cơn lốc; tôi thích thái độ căm giận, thù ghét, châm chọc của họ đối với mọi thứ trên đời và thái độ vô tâm của họ đối với chính bản thân. Những gì tôi đã trực tiếp trải qua lôi kéo tôi đến gần với những con người ấy, khiến cho tôi muốn hòa mình vào hoàn cảnh đau xót của họ. Những truyện của Bret Harte[15] và rất nhiều tiểu thuyết “rẻ tiền” mà tôi đã đọc càng khiến tôi có nhiều thiện cảm đối với lớp người ấy.
Gã kẻ cắp chuyên nghiệp Bashkin, trước đây vốn là học sinh trường Sư phạm, đã từng chịu bao nhiêu sự giày vò tàn nhẫn và đang mắc bệnh lao phổi, khuyên tôi một cách hùng hồn:
– Chú mày cứ thẹn thò bẽn lẽn y như con gái ấy, hay là sợ mất danh dự? Đối với con gái, danh dự là tất cả giá trị của họ, còn đối với chú mày danh dự chỉ là cái ách. Con bò sở dĩ hiền lành vì nó có cỏ khô để ăn no bụng.
Tóc hung, râu cạo nhẵn nhụi y hệt một diễn viên, với những cử chỉ nhanh nhẹn và mềm mại của cái thân hình bé nhỏ, Bashkin trông giống một con mèo con. Đối với tôi, gã có thái độ bảo ban, che chở, và tôi nhận thấy gã thành thật mong cho tôi gặp may mắn và hạnh phúc. Là người rất thông minh, gã đọc khá nhiều sách hay, và thích nhất là cuốn Bá tước Monte Cristo.
– Cuốn sách ấy viết vừa có thông điệp, vừa giàu tình cảm. ‒ Gã nói.
Gã rất hám đàn bà và thường kể chuyện về họ, vừa nói gã vừa chép chép miệng một cách ngon lành, lộ rõ vẻ háo hức, và thân hình phờ phạc của gã run lên bần bật. Trong cử động run rẩy đó có cái gì bệnh hoạn khiến tôi kinh tởm, nhưng tôi lắng nghe câu chuyện của gã một cách chăm chú và cảm thấy cái đẹp của nó.
– Đàn bà, đàn bà! ‒ Gã nói như hát, nước da vàng ệch trên khuôn mặt gã đỏ ửng, cặp mắt đen ánh lên vẻ mê thích. ‒ Vì đàn bà, tớ có thể làm tất cả. Đối với họ, cũng như đối với quỷ sứ vậy, chẳng có gì là tội lỗi cả! Không gì thích thú bằng được sống để yêu đương!
Gã là một tay kể chuyện có tài và có thể dễ dàng sáng tác những bài ca cảm động nói về nỗi đau buồn của mối tình bất hạnh để tặng cho các ả gái điếm. Những bài ca của gã được người ta hát ở khắp các thành phố dọc sông Volga, trong số đó phổ biến rộng rãi nhất là bài ca sau đây:
Tôi nghèo mà cũng chằng xinh
Ăn mặc xoàng xĩnh, thân hình lem nhem
Vì thế nền chẳng ai thèm
Lấy tôi làm vợ để đem về nhà…
Chusov ‒ một con người có nhiều hành động khả nghi ‒ đối xử với tôi cũng rất tốt. Lão ta có vẻ mặt dễ chịu, hay ăn diện và có những ngón tay nhỏ nhắn như tay nhạc công. Tại xóm Admiralty lão có một cửa hiệu nhỏ, bên ngoài treo tấm biển “Thợ sửa chữa đồng hồ” nhưng lão lại làm nghề tiêu thụ đồ ăn cắp.
– Peskov, chú mày đừng học những thói ăn cắp! ‒ Lão ta vừa bảo tôi vừa đưa tay vuốt vuốt bộ râu điểm bạc với dáng điệu oai vệ, cặp mắt ranh mãnh, trơ tráo nheo lại. ‒ Tao thấy chú mày có con đường khác, chú mày là một người cao thượng.
– Thế nào là cao thượng?
– À, cao thượng là người không ghen ghét ai, chỉ có một đức tính là hiếu kì…
Điều đó không đúng với tôi. Tôi hay ghen ghét và ghen ghét nhiều cái. Ngay cả tài nói chuyện của Bashkin cũng kích thích lòng ghen ghét của tôi. Gã có tài nói giọng đặc biệt, giống như người ngâm thơ và hay dùng những cách so sánh, những lối nói bất ngờ. Tôi còn nhớ rõ đoạn đầu một câu chuyện tình của gã như sau:
“Một đêm trời ảm đạm, tớ ngồi trong một gian buồng tại thành phố Sviyazhsk nghèo nàn, như con cú vọ trong hốc cây. Dạo ấy vào mùa thu, khoảng tháng Mười, ngoài trời mưa lất phất, gió thổi rít lên giống như một gã Tatar đang lúc bực mình cất tiếng hát ngân nga, tiếng hát kéo dài không dứt: O.o.o.u.u.u…
… Thế rồi nàng đến, nhẹ nhàng, hồng hào, như một áng mây lúc mặt trời vừa mọc và trong đôi mắt nàng lộ vẻ trong sạch giả dối của tâm hồn. “Anh yêu.” Nàng nói, giọng thành thật. “Em có làm gì không phải với anh đâu!” Tớ biết là nàng nói dối, nhưng tớ lại tin là thật! Lí trí thì biết chắc chắn thế, nhưng tình cảm thì không thể nào không tin được! ”
Gã vừa kể vừa lắc lư người một cách nhịp nhàng, mắt lim dim, tay nhẹ nhàng xoa xoa ngực, chỗ trái tim.
Giọng gã trầm trầm, nhưng lời nói vẫn lanh lảnh, dường như trong đó có tiếng hót của chim họa mi.
Tôi ghen cả với Chusov, con người ấy nói về Siberia, Khiva và Bukhara thật hay tuyệt, còn nói về cuộc sống của bọn đại giáo chủ thì hài hước và rất cay độc. Một hôm, với vẻ bí mật, lão nói về Aleksandr đệ tam:
– Tên vua ấy đúng là một tên vua nhà nghề!
Tôi có cảm tưởng như Chusov là một “tên độc ác” trong một thiên tiểu thuyết mà người đọc không ngờ về cuối, tên ấy lại hóa thành nhân vật rộng lượng.
Thỉnh thoảng, vào những đêm oi ả, những con người này vượt sông Kazanka, mò về phía cánh đồng cỏ, chui vào các bụi cây, cùng nhau đánh chén, trò chuyện về việc làm của họ, nhưng thường thường họ bàn luận về cuộc đời phức tạp, về những quan hệ rối ren lạ lùng giữa người này với người khác, đặc biệt là bàn nhiều về đàn bà. Họ nói về đàn bà với vẻ phẫn nộ, buồn buồn, đôi khi với thái độ mủi lòng và hầu như lúc nào cũng như nhìn vào bóng tối đầy những sự bất ngờ khủng khiếp. Tôi đã sống với họ hai ba đêm như thế dưới bầu trời đen tối điểm những vì sao lờ mờ, trong hơi nóng ngột ngạt của khu đất trũng mọc đầy liễu dại. Giữa đêm tối tràn ngập không khí ẩm ướt của vùng ven sông Volga, những ánh đèn trên các cột buồm bò ngang dọc như đàn nhện vàng, khối lửa và những vệt lửa chiếu những vết loang lổ vào bờ dốc đen ngòm, đó là ánh đèn từ cửa sổ các quán rượu và nhà ở của thôn Uslon trù phú. Chân vịt của tàu thủy khua động mặt nước; thủy thủ trên dãy sà lan la hét ầm ĩ, nghe như tiếng chó sói; đâu đó vang lên tiếng búa nện vào sắt; một bài hát ảo não kéo dài, dường như tâm hồn ai đang âm ỉ ‒ nghe tiếng hát ấy một nỗi buồn phủ lên lòng ta như một lớp tro tàn.
Càng buồn chán hơn khi nghe tiếng nói thì thầm của những con người này. Họ suy nghĩ về cuộc sống, và mọi người đều nói về mình, hầu như chẳng ai chịu nghe ai. Hoặc nằm hoặc ngồi dưới các lùm cây, họ hút thuốc, chốc chốc lại nhắp rượu bia hoặc vodka và nhớ về những kỉ niệm xa xôi…
– Ngày trước tôi gặp câu chuyện thế này… ‒ Một người nằm bẹp dưới đất trong bóng tối ban đêm lên tiếng.
Nghe xong câu chuyện, mọi người tán thành:
– Có thể đấy, tất cả đều có thể…
“Đã có”, “thường có”, “có lúc” ‒ tôi lắng nghe và cảm thấy như trong đêm hôm ấy người ta đang sống những giờ phút cuối cùng của đời mình, tất cả đều đã qua và sẽ không còn gì sau đây nữa!
Điều này làm tôi dần dần xa cách Bashkin và Chusov, nhưng dẫu sao tôi vẫn thích họ, và cứ theo logic của tất cả những chuyện tôi đã trải qua, nếu tôi có đi theo con đường của họ thì âu đó cũng là một việc hoàn toàn tất nhiên. Niềm hi vọng tủi nhục của tôi muốn được vươn lên, muốn được bắt đầu học tập cũng thúc đẩy tôi đến với họ. Trong những giờ phút đói khát, giận dữ và buồn chán tôi cảm thấy mình hoàn toàn có thể phạm tội, chống lại không riêng gì “chế độ tư hữu thần thánh”. Nhưng đầu óc lãng mạn của tuổi trẻ đã ngăn tôi không đi chệch con đường mà tôi phải đi. Ngoài tác gia Bret Harte nhân đạo và các tiểu thuyết rẻ tiền, tôi đã đọc khá nhiều sách có giá trị. Những sách đó làm thức tỉnh trong tôi lòng khao khát hướng tới một cái gì tuy chưa sáng tỏ nhưng có ý nghĩa hơn tất cả những điều tôi đã thấy.
Và đồng thời tôi cũng có được những mối quen biết mới, những ấn tượng mới. Trên khu đất trống cạnh nhà Yevreinov, các học sinh trung học tụ tập nhau chơi ki[16]. Tôi thích nhất là Guri Pletnyov, một người trong bọn họ. Anh có nước da rám nắng, tóc đen nhánh như người Nhật Bản, mặt đầy những chấm đen li ti như xát thuốc súng. Anh luôn luôn vui cười, chơi rất cừ và khi bàn luận thì tỏ ra khôn ngoan. Anh có rất nhiều mầm mống của những tài năng muôn hình muôn vẻ. Cũng như hầu hết những người Nga có tài năng khác, anh sống nhờ vào những gì trời phú, chứ không nghĩ đến việc đẩy mạnh và phát triển chúng. Yêu thích âm nhạc, có một thính giác tinh tường và sự nhạy cảm tuyệt diệu với âm nhạc, anh chơi các loại đàn gusli[17], balalaika và phong cầm như những nghệ sĩ thực thụ, nhưng không cố gắng để sử dụng được những loại nhạc cụ khác phức tạp hơn, cao cấp hơn. Anh sống nghèo nàn, ăn mặc tồi tàn, nhưng áo quần anh mặc rất hợp với dáng vóc mạnh bạo, với điệu bộ phóng khoáng, với cử chỉ nhanh nhẹn của thân hình gân guốc: một chiếc sơ mi rách, nhàu nát, một cái quần đầy mảnh vá và một đôi ủng gót đã mòn vẹt, có nhiều lỗ thủng.
Anh giống như người vừa mới bình phục sau cơn ốm nặng kéo dài, hoặc như người tù vừa ra khỏi ngục hôm qua. Mọi điều trong cuộc sống đối với anh đều mới mẻ, thích thú, tất cả đều gợi cho anh một niềm vui rạo rực, anh lao giữa cuộc đời như một quả pháo hoa.
Khi biết tôi phải sống vất vả gian nan, anh bảo tôi đến ở chung với anh và gắng học để làm thầy giáo trường làng. Thế là tôi đến ở tại một khu tồi tàn, vui nhộn và kì lạ, gọi là “Marusovka”, mà chắc nhiều thế hệ sinh viên Kazan đã từng quen thuộc. Đó là một ngôi nhà lớn gần như đổ nát ở phố Ribnoryadskaya, hình như nó bị các sinh viên cơ cực, gái điếm và những người cùng khổ đến nỗi không còn ra hình người nữa chiếm đoạt từ tay bọn chủ. Pletnyov ở ngay ngoài hành lang, dưới cái cầu thang lên gác thượng anh kê một cái giường, và cạnh cửa sổ cuối hành lang thì kê một chiếc bàn và một cái ghế. Đó là tất cả đồ đạc của anh. Hành lang chạy dọc qua trước cửa ba căn phòng, hai phòng đầu các ả gái điếm ở, phòng thứ ba của một nhà toán học mắc bệnh lao phổi trước đây vốn là sinh viên Đại chủng viện. Ông ta cao lêu nghêu, gầy gò, người đầy những lông cứng màu hung, trông thật đáng sợ. Áo quần thì rách bươm và bẩn thỉu, qua những lỗ rách lộ ra màu da xanh xao và cả bộ xương sườn nom rất khủng khiếp.
Dường như ông ta chỉ sống bằng móng tay của mình, gặm chúng đến chảy máu. Ngày đêm ông ta loay hoay vẽ, tính toán và ho luôn mồm, tiếng ho nghe khàn khàn. Các ả gái điếm rất sợ ông ta, cho ông là người mất trí, nhưng vẫn thương hại, đem đặt trước cửa phồng ông bánh mì, trà và đường. Ông nhặt những gói thức ăn ấy từ dưới sàn và mang vào phòng, miệng thở khò khè như một con ngựa mệt nhọc. Nếu các ả gái điếm quên hoặc vì lí do nào đó mà không thể có quà đem cho ông, ông mở cửa gọi vọng ra hành lang, giọng khò khè:
– Bánh mì!
Trong đôi mắt sâu hoắm thành hai cái hốc đen ngòm của ông ánh lên niềm kiêu hãnh của một người cuồng si, sung sướng biết mình vĩ đại. Thỉnh thoảng có một người gù xấu xí, bé loắt choắt, chân đi khập khiễng đến thăm ông. Người này tóc bạc, đeo cặp kính to trễ xuống trên cái mũi phồng, và luôn luôn nở một nụ cười ranh mãnh trên khuôn mặt vàng ệch trông như một hoạn quan. Họ khép chặt cửa lại, ngồi với nhau hàng giờ, chẳng nói chẳng rằng trong sự yên lặng kì quặc. Chỉ có một hôm, chừng đã khuya, một tiếng thét giận dữ và khàn khàn của nhà toán học làm tôi giật mình tỉnh giấc:
– Tôi bảo đây là nhà tù! Hình học là một cái lồng chim, đúng thế! Một cái bẫy chuột, đúng thế! Nhà tù!
Người gù xấu xí cười the thé, nhắc đi nhắc lại mãi một tiếng gì nghe rất lạ tai, rồi nhà toán học bỗng hét tướng:
– Quỷ bắt mày đi! Cút!
Khi vị khách của ông ta bước ra hành lang, người thu gọn trong chiếc áo choàng rộng, vừa đi vừa gầm gừ rít lên khe khẽ, thì nhà toán học đứng ngay trên ngưỡng cửa, thân hình cao lêu nghêu, dễ sợ, lùa mấy ngón tay vào mớ tóc rối trên đầu và lè nhè:
– Euclid là một thằng ngốc! Một thằng ngốc… Tôi sẽ chứng minh rằng Chúa khôn ngoan hơn tên Hi Lạp ấy cho mà xem!
Rồi ông ta đóng sầm cửa lại, mạnh đến nỗi trong phòng ông có tiếng đổ vỡ loảng xoảng.
Ít lâu sau tôi được biết là con người ấy muốn xuất phát từ toán học để chứng minh sự tồn tại của Chúa, nhưng ông ta đã chết trước khi kịp hoàn thành việc đó.
Pletnyov làm nghề chữa bản in thử ban đêm cho một tờ báo tại một nhà in, kiếm được mỗi đêm mười một kopek, và nếu tôi không kiếm được tiền thì cả hai chúng tôi mỗi ngày đành phải sống với bốn funt[18] bánh mì, hai kopek nước trà và ba kopek đường. Mà tôi thì không có đủ thì giờ để đi làm: Tôi còn phải học. Tôi học hết sức vất vả, đặc biệt môn ngữ pháp với những quy tắc cứng nhắc và gò bó kì quặc khiến tôi khổ sở. Tôi hoàn toàn không biết làm thế nào đem thứ ngôn ngữ Nga uyển chuyển, sinh động và khó sử dụng ghép vào cái khuôn khổ ngữ pháp ấy. Nhưng, thật thú vị, chẳng bao lâu sau tôi được biết là tôi đã bắt đầu học “quá sớm”, và dù cho có thi đậu làm giáo viên nông thôn thì tôi cũng chẳng được bổ nhiệm vì chưa đủ tuổi.
Pletnyov và tôi ngủ chung một giường, tôi ngủ ban đêm và anh ấy ngủ ban ngày. Cứ sáng sớm anh lại về nhà, người phờ phạc vì thiếu ngủ, gương mặt tối sầm và hai mắt sưng húp. Tôi liền chạy ngay ra quán ăn lấy nước sôi, vì cố nhiên là chúng tôi làm gì có ấm samovar[19]. Sau đó chúng tôi cùng ngồi bên cửa sổ uống trà với bánh mì. Guri kể cho tôi nghe những tin tức trên báo, đọc các bài thơ vui của nhà văn nghiện rượu chuyên viết văn châm biếm với bút danh là “Quỷ mặt đỏ”. Thái độ bông đùa của anh với đời làm tôi ngạc nhiên, và tôi cảm thấy anh đối với cuộc đời cũng có một thái độ như đối với mụ béo Galkina làm nghề bán quần áo nữ cũ và nghề ma cô.
Anh thuê của mụ ta một góc dưới cầu thang, nhưng chẳng có gì để trả tiền “phòng”, do đó anh trả bằng những câu pha trò vui vẻ, những bài đàn phong cầm và những bài hát cảm động. Khi anh cất cao giọng hát, đôi mắt anh ánh lên một nụ cười giễu. Thời còn trẻ mụ Galkina là người hát đồng ca của một ban nhạc kịch, mụ rất hiểu ý nghĩa của các bài hát. Nhiều khi, từ đôi mắt trơ trẽn, những giọt nước mắt nhỏ chảy giàn giụa xuống hai gò má tái nhợt, mũm mĩm của người đàn bà nghiện rượu và phàm ăn ấy. Mụ đưa những ngón tay béo mũm lên quệt sạch nước mắt trên má rồi lấy chiếc khăn tay bẩn lau chùi các ngón tay rất cẩn thận.
– Ồ, Guroshka[20]! ‒ Mụ thở dài.‒ Cậu là một nghệ sĩ! Giá mà cậu đẹp trai hơn tí nữa, tôi đã tìm vợ cho cậu! Tôi đã từng mối lái cho bao nhiêu thanh niên trai trẻ với những người đàn bà sầu tủi vì cuộc sống cô đơn.
Một trong những “thanh niên” đó ở ngay tầng gác trên đầu chúng tôi. Anh ta là sinh viên, con một người thợ thuộc da, một thanh niên có tầm vóc trung bình, ngực nở, nhưng cặp mông lại nhỏ một cách kì quặc. Người anh ta giống như một hình tam giác mà góc nhọn quay xuống dưới và hơi bị gãy, bàn chân anh nhỏ xíu giống hệt chân đàn bà. Đầu anh cũng bé tí, thụt sâu giữa hai vai và được trang điểm bằng một đám tóc hung. Trên khuôn mặt trắng bệch thiếu máu của anh, đôi mắt lồi xanh lờ nhờ giương to nom như cau có.
Đói khát như một con chó hoang, anh bất chấp cả ý muốn của bố, và phải khó khăn lắm mới tìm cách học xong bậc trung học rồi xin vào đại học. Nhưng anh có giọng trầm rất êm, do đó anh muốn đi học hát.
Mụ Galkina biết thế và làm mối anh cho một mụ thương gia giàu có khoảng bốn chục tuổi. Con trai mụ là sinh viên năm thứ ba đại học, còn con gái đã học xong trung học. Mụ ta gầy đét, ngực lép kẹp, người ngay đuỗn như lính, khuôn mặt khô khan như một nữ tu sĩ khổ hạnh, đôi mắt to xám xịt ẩn sâu trong hai hốc mắt đen ngòm. Mụ thường mặc đồ đen, đội chiếc khăn vuông lụa kiểu cổ, hai vành tai mụ đeo lủng lẳng đôi khuyên bằng ngọc thạch màu xanh lục.
Thỉnh thoảng vào quãng chiều tối hoặc sáng sớm mụ đến thăm chàng sinh viên của mụ, và đã nhiều lần tôi được mục kích cảnh người đàn bà ấy vội vàng nhảy xô vào cổng và đi qua sân với những bước quả quyết. Khuôn mặt mụ nom dễ sợ, hai môi mím chặt lại đến nỗi gần như không có, cặp mắt mở to nhìn về phía trước với vẻ lờ đờ, tuyệt vọng, lại có vẻ như mù. Không thể nói rằng mụ xấu xí, nhưng trông người mụ, ta cảm thấy rõ có một trạng thái căng thẳng làm hỏng vẻ người của mụ, làm cho toàn thân mụ như bị căng ra, khuôn mặt mụ như bị siết chặt lại tới mức đau đớn.
– Xem kìa. ‒ Pletnyov nói. ‒ Mụ ta như là người mất trí ấy!
Anh sinh viên rất ghét mụ thương gia ấy, luôn tìm cách lẩn tránh, nhưng mụ cứ theo đuổi anh hệt như một tên chủ nợ nhẫn tâm hoặc một tên do thám.
– Tính tôi hay ngượng. ‒ Anh hối hận nói khi đã ngà ngà say. ‒ Tôi cần hát để làm gì kia chứ? Với bộ mặt và thân hình thế này thì người ta chẳng cho tôi lên sân khấu đâu, chẳng cho đâu!
– Thôi, hãy chấm dứt cái trò vớ vẩn ấy đi!‒ Pletnyov khuyên.
– Đúng. Nhưng tôi thấy thương hại cho mụ ta! Tôi không thể chịu được, nhưng vẫn thương hại! Giá mà các anh biết được mụ ta đã… Chà!…
Chúng tôi biết, vì có lần đang đêm chúng tôi nghe thấy mụ ấy đứng trên cầu thang cầu khẩn, giọng khàn khàn, run run:
– Hãy vì Chúa… Anh thân yêu! Hãy vì Chúa!
Mụ ta là chủ một nhà máy lớn, có nhà cửa, có ngựa, quyên góp hàng nghìn bạc cho một trường sản khoa, nhưng lại đi van xin sự bố thí ái tình như một kẻ hành khất.
Uống trà xong Pletnyov lăn ra ngủ, còn tôi đi tìm việc làm mãi đến tối mịt mới về, khi Guri sắp phải vào nhà in. Nếu tôi mang về được một ít bánh mì, xúc xích hoặc “lòng luộc” thì chúng tôi chia đôi, và Guri lấy phần mang đi.
Còn lại một mình, tôi đi lang thang dọc theo các hành lang và các ngóc ngách của ngôi nhà “Marusovka” để xem cách sinh sống của những con người mới lạ đối với tôi. Ngôi nhà này lúc nhúc những người là người và giống như một tổ kiến. Trong nhà xông lên mùi chua hăng hắc và góc nào góc ấy dường như đều ẩn náu những bóng đen dày đặc thù địch với con người. Từ sáng sớm đến tận đêm khuya, tiếng ồn ào không lúc nào ngớt: tiếng máy khâu chạy xành xạch, các nữ diễn viên hợp xướng của ban ca kịch luyện giọng, chàng sinh viên hát lên những âm giai trầm trầm, một diễn viên say rượu gần như mất trí đọc to những lời của vai mình đóng, các ả gái điếm say bí tỉ lè nhè kêu thét như điên loạn. Và trong óc tôi bỗng dưng nảy ra một câu hỏi tự nhiên nhưng nan giải: “Những người này làm tất cả những cái đó để làm gì?”
Giữa đám thanh niên nghèo đói ấy có một gã hói đầu, tóc hung, người gân guốc, bụng phệ, chân khẳng khiu, mồm rộng, răng giống như răng ngựa, vì vậy mà người ta gọi gã là “Ngựa Hung”. Đã ba năm ròng gã chạy theo việc kiện tụng với họ hàng là những con buôn ở Simbirsk, và tuyên bố với mọi người rằng:
‘Tớ cũng chẳng thiết sống, nhưng tớ sẽ làm cho bọn chúng khuynh gia bại sản! Chúng sẽ phải đi ăn xin tới cùng trời cuối đất, sống vài ba năm bằng của bố thí, sau đó tớ sẽ hoàn lại cho chúng tất cả những gì mà tớ được kiện, sẽ giả lại hết và hỏi: “Thế nào, hở lũ quỷ sứ?” Thế mới biết tay!
– Đó là mục đích của đời mày đấy à, Ngựa Hung? ‒ Mọi người hỏi gã.
– Tớ đã để tất cả tâm trí vào việc ấy và không thể làm gì khác nữa!
Suốt ngày gã có mặt ở tòa án địa phương, tòa thượng thẩm, phòng làm việc của luật sư bào chữa, và thường thường cứ chiều tối gã cho xe ngựa chở về nhiều túi nhỏ, gói, chai lọ và tổ chức ngay tại căn phòng bẩn thỉu với cái trần nhà bị sụt và sàn nhà cong tớn những bữa đánh chén ồn ào. Gã mời đến cả sinh viên lẫn các cô thợ may ‒ tóm lại là tất cả những ai muốn ăn uống no say. Còn Ngựa Hung chỉ uống rượu rum, một thứ rượu hễ dây ra khăn bàn, áo quần và sàn nhà đều để lại những vết đỏ thẫm không sao tẩy được. Sau khi uống say, gã la lớn:
– Hỡi những con chim thân yêu của ta! Ta yêu các người, các người là những người ngay thẳng! Còn ta là một kẻ đê tiện, độc ác và là một con cá sấu. Ta muốn làm hại họ hàng của ta và nhất định ta sẽ làm được! Trời ơi, ta không muốn sống nữa…
Đôi mắt Ngựa Hung hấp háy một cách đáng thương và khuôn mặt lố bịch với hai gò má nhô cao của gã ướt đẫm những giọt nước mắt của một kẻ say. Gã đưa lòng bàn tay lên má lau nước mắt và quệt xuống đầu gối, quần gã lúc nào cũng dính đầy những vết dầu bẩn.
– Các người sống ra sao? ‒ Gã thét to. ‒ Đói rét, ăn mặc tồi tàn… Phải chăng đó là quy luật? Liệu có thể học được cái gì trong cuộc sống ấy? Chao ôi, nếu Hoàng đế mà biết được các người sống như thế này…
Rồi rút trong túi ra một xấp giấy bạc đủ màu, gã bảo:
– Ai cần tiền nào? Cứ lấy đi, anh em ơi!
Các cô ca sĩ và các cô thợ may tranh nhau giật tiền trong bàn tay đầy lông lá của gã, gã cười hô hố và nói:
– Ô, tiền này không phải cho các người! Đây là để cho anh em sinh viên!
Nhưng anh em sinh viên không lấy.
– Lấy tiền của anh làm khỉ gì cơ chứ! ‒ Con trai bác thợ thuộc da giận dữ quát to.
Một hôm, lúc đang say, gã tự tay mang sang cho Pletnyov một xấp giấy bạc mười rúp vò nát thành một cục giấy cứng, gã vứt lên bàn rồi bảo:
– Đấy, có cần không? Tớ chẳng cần…
Rồi gã nằm lăn trên giường của chúng tôi, gầm lên và khóc nức nở đến nỗi phải đổ nước lạnh cho gã giã rượu. Khi gã ngủ thiếp đi, Pletnyov cố vuốt mớ giấy bạc cho phẳng nhưng không sao vuốt được, chúng dính chặt vào nhau đến nỗi phải đem nhúng nước mới gỡ được từng tờ.
Căn phòng bẩn thỉu, ám khói, có những ô cửa sổ nhìn sang bức tường đá của ngôi nhà bên cạnh, chật chội, ngột ngạt, ồn ào và dễ sợ. Ngựa Hung la hét to hơn tất cả mọi người. Tôi hỏi gã:
– Sao anh lại sống ở đây mà không ở khách sạn?
– Anh bạn thân mến ạ, ở đây thích chứ! sống với các anh tôi thấy ấm áp trong lòng…
Anh con trai bác thợ thuộc da xác nhận:
– Đúng đấy, con Ngựa Hung ạ! Tôi cũng thế! Giá mà ở nơi khác chắc tôi đã chết ngoẻo rồi!
Ngựa Hung bảo Pletnyov:
– Đánh đàn đi! Hát đi!
Đặt chiếc đàn gusli lên đầu gối, Guri cất tiếng hát.
Hỡi vầng hồng, hãy mọc lên đi, mọc lên đi…
Giọng hát của anh êm dịu thấm sâu vào lòng người.
Cả phòng im lặng, mọi người đều trầm ngâm lắng nghe những lời ca ai oán và tiếng nhạc nhẹ nhàng của những dây đàn gusli.
– Chà, anh hát hay quá! ‒ Anh chàng tình nhân tội nghiệp của mụ thương gia lẩm bẩm.
Giữa những người trú ngụ kì lạ của ngôi nhà cũ kĩ ấy, Guri Pletnyov, một con người lanh lợi vui vẻ, đóng vai Ông Thiện trong các câu chuyện thần thoại. Tâm hồn anh được tô điểm bằng nhiều màu sắc rực rỡ của tuổi thanh xuân, nó chiếu rọi cuộc sống bằng những đốm pháo hoa của những câu vui đùa tế nhị, những bài hát hay, những lời chế giễu sâu cay đối với các thói hư tật xấu của người đời bằng những câu chuyện táo bạo về sự dối trá thô bỉ ở đời. Anh vừa tròn hai mươi tuổi, trông bề ngoài như một cậu thiếu niên, nhưng mọi người ở ngôi nhà này đều xem anh là người mà trong giờ phút khó khăn có thể chỉ bảo họ những lời khuyên sáng suốt và lúc nào cũng đủ sức giúp đỡ họ bằng cách nào đó. Những người tốt bụng yêu mến anh, kẻ xấu lại sợ anh, và thậm chí cả lão cảnh sát Nikiforich cũng luôn luôn chào hỏi Guri bằng nụ cười của con cáo già.
Sân nhà “Marusovka” là một “hành lang” dốc nối hai phố Ribnoryadskaya và Staro‒Gorshechnaya với nhau. Tại phố thứ hai này, trạm gác của lão Nikiforich nằm gọn ở một góc đường, cách cổng khu nhà chúng tôi một quãng.
Lão ta là cảnh sát trưởng của khu phố. Đó là một lão già cao, gầy gò, ngực đeo đầy mề đay, gương mặt thông minh, có nụ cười xã giao và đôi mắt quỷ quyệt.
Lão rất chú ý đến ngôi nhà ồn ào này, cả những người cũ và những người sắp dọn đến. Mỗi ngày có đến mấy lần lão xuất hiện ở sân ngôi nhà. Dáng vẻ chải chuốt, lão bước đi chậm rãi và nhìn vào cửa sổ các căn buồng với con mắt của người coi vườn bách thú nhìn các lồng thú. Mùa đông năm ấy tại một căn buồng đã xảy ra vụ bắt bớ, người bị bắt là chàng sĩ quan cụt một tay Smirnov và anh lính Muratov. Cả hai đều là những người được tặng huân chương Thánh George và đã từng tham gia cuộc viễn chinh Akhal‒Teke do Skobelev chỉ huy[21]. Người ta cũng bắt cả Zobnin, Ovsyankin, Grigoryev, Krylov và một người nữa vì họ mưu tính lập một nhà in bí mật. Để thực hiện việc này, vào giữa ngày Chủ nhật, Muratov và Smirnov đã vào nhà in của Klyuchnikov trên một phố đông người để đánh cắp bộ chữ in. Khi đang làm việc đó thì họ bị bắt. Và một đêm khác, bọn hiến binh lại đến ngôi nhà “Marusovka” bắt đi một người cao lênh khênh, nét mặt lúc nào cũng cau có mà tôi gọi là “Gác Chuông Lang Thang”. Sáng hôm sau, khi biết tin đó, Guri xúc động mạnh, anh vò rối mớ tóc đen nhánh và bảo tôi:
– Thế đấy, Maksimich, mẹ cha nó, hãy chạy nhanh đến…
Sau khi giải thích cho tôi biết phải đi đâu, anh nói thêm:
– Coi chừng, phải cẩn thận đấy! Có thể gặp bọn mật thám ở đấy…
Nhiệm vụ bí mật được giao phó này làm tôi sung sướng vô ngần, và tôi chạy như bay đến xóm Admiralty. Đến đây, trong căn xưởng tối om của người thợ đồ đồng, tôi gặp một thanh niên tóc quăn có đôi mắt xanh biếc khác thường. Anh đang hàn một cái xoong, nhưng trông anh không giống một người thợ. Trong góc xưởng, cạnh máy dập, một bác thợ già bé loắt choắt có mớ tóc bạc buộc gọn bằng sợi dây da nhỏ đang đánh bóng một cái vòi nước.
Tôi hỏi bác thợ đồ đồng:
– Xưởng bác có việc làm không?
Bác già cáu kỉnh trả lời:
– Xưởng thì có việc, nhưng không có việc cho mày!
Anh thanh niên đưa mắt nhìn thoáng qua tôi rồi lại cúi xuống cái xoong. Tôi đưa chân khẽ chạm vào chân anh, anh ngạc nhiên và giận dữ trố cặp mắt xanh nhìn tôi chằm chằm, tay anh nắm chặt cán xoong như sắp sửa ném tôi. Nhưng khi thấy tôi nháy mắt ra hiệu, anh điềm tĩnh bảo:
– Thôi đi đi, đi đi…
Sau khi nháy mắt ra hiệu cho anh một lần nữa, tôi liền ra ngoài cửa đứng chờ. Anh thanh niên tóc quăn vươn vai đứng lên, bước ra theo và lặng thinh vừa nhìn tôi vừa hút thuốc.
– Anh là Tikhon phải không?
– Phải!
– Pyotr bị bắt rồi.
Anh cau mày tỏ vẻ bực tức, đưa mắt nhìn khắp người tôi.
– Pyotr nào?
– Pyotr cao lêu nghêu nom giống như thầy phụ lễ ấy.
– Sao nữa?
– Chỉ có thế thôi.
– Thế tôi liên quan gì tới Pyotr, tới thầy phụ lễ và những việc đó? ‒ Anh thợ đồ đồng hỏi, và cách hỏi của anh làm cho tôi quả quyết rằng anh ta không phải là dân thợ. Tôi chạy về, trong lòng lấy làm kiêu hãnh vì đã hoàn thành xong nhiệm vụ được giao phó. Đó là lần tham gia hoạt động “bí mật” đầu tiên của tôi.
Guri Pletnyov là người gần gũi với những hoạt động ấy, nhưng khi tôi yêu cầu cho tôi tham gia những công việc đó, anh trả lời:
– Anh bạn ạ, việc ấy đối với anh còn quá sớm! Anh học đi đã…
Yevreinov giới thiệu tôi với một người bí mật. Việc giới thiệu này được tiến hành rất thận trọng, khiến tôi cảm thấy hẳn phải có một điều gì hết sức hệ trọng. Yevreinov đưa tôi ra ngoại ô thành phố, đến cánh đồng Arskoye. Trên đường đi, anh cho tôi biết trước rằng việc giới thiệu này đòi hỏi tôi phải thật cẩn thận. Cần phải giữ bí mật. Sau đấy Yevreinov chỉ cho tôi một bóng người nhỏ, mờ mờ, đang chậm rãi bước đi giữa cánh đồng vắng vẻ. Anh nhìn quanh, khẽ nói:
– Anh ấy đấy! Cậu cứ đi theo sau và khi nào anh ấy đứng lại thì đến gần và bảo: “Tôi là người mới đến…”
Những điều bí mật lúc nào cũng thú vị, nhưng trong trường hợp này tôi cảm thấy buồn cười: Giữa một ngày nắng chói oi ả, trên cánh đồng, một con người bé nhỏ đơn độc đang lảo đảo đi như một ngọn cỏ tàn úa, và tất cả chỉ có thế! Sau khi đuổi kịp anh ta ngay chỗ cổng nghĩa địa, tôi nhìn thấy trước mặt tôi là một chàng thanh niên có khuôn mặt gầy gò, bé nhỏ với đôi mắt nghiêm nghị, tròn xoe như mắt chim. Anh mặc chiếc áo khoác thể dục màu xám kiểu học sinh trung học, nhưng hàng cúc đồng sáng loáng đã đứt hết, thay vào đó là những chiếc cúc xương đen, trên chiếc mũ lưỡi trai cũ nát của anh còn in vết một chiếc phù hiệu. Nói chung, trong con người anh ta có một cái gì non nớt, dường như anh cố làm ra vẻ ta đây là người lớn.
Chúng tôi ngồi giữa hàng mộ chí, dưới bóng những khóm cây um tùm. Anh ta nói bằng giọng khô khan và ra vẻ quan trọng. Nói chung tôi không ưa anh ta chút nào. Bằng một giọng nghiêm trang, anh hỏi tôi đã đọc những gì và đề nghị tôi tham gia học tập trong nhóm do anh tổ chức. Tôi đồng ý và chúng tôi chia tay nhau. Anh ta ra trước, sau khi cẩn thận quan sát cánh đồng vắng tanh.
Trong nhóm tôi còn có ba bốn thanh niên khác tham gia, tôi là người trẻ nhất và hoàn toàn chưa được chuẩn bị gì cho việc nghiên cứu cuốn sách của John Stuart Mill có lời chú thích của Chernyshevsky[22]. Chúng tôi tụ tập tại phòng riêng của Milovsky, một học sinh trường Sư phạm. Sau này anh ta viết truyện ngắn lấy bút danh là Yeleonsky, và sau khi sáng tác được độ năm tập thì anh tự sát. Biết bao người tôi gặp đã tự nguyện lìa bỏ cuộc đời!
Anh ta là một người trầm lặng, biết suy nghĩ đắn đo, nói năng thận trọng. Anh sống trong căn hầm một ngôi nhà bẩn thỉu và làm nghề thợ mộc để “cân bằng thể xác và linh hồn”. Tiếp xúc với anh thật chán ngấy. Cũng giống như tác phẩm của Mill, những cuốn sách anh ta viết không hấp dẫn tôi tí nào. Chẳng bao lâu, những nguyên lí cơ bản của kinh tế học đã trở nên quen thuộc với tôi. Tôi đã nắm được chúng một cách trực tiếp, chúng đã được ghi trên da thịt tôi. Tôi cảm thấy hình như chẳng cần viết đến một pho sách dày với những lời lẽ khó hiểu như vậy để bàn về điều mà bất kì ai từng tốn sức để “kẻ khác” sống yên ổn và sung sướng cũng đều thấy rõ. Với một tâm trạng vô cùng căng thẳng, tôi phải ngồi suốt hai ba giờ liền trong gian hầm nồng nặc mùi hồ dán, đảo mắt nhìn những chú bọ đất bò ngang dọc trên bức tường bẩn thỉu.
Một hôm, người giảng bài của nhóm đến muộn hơn bình thường, chúng tôi tưởng anh không đến bèn đi mua một chai rượu vodka, bánh mì và dưa chuột về tổ chức một bữa đánh chén nho nhỏ. Bỗng ngoài cửa sổ thoáng qua cái ống quần xám xịt của thầy. Chúng tôi vừa kịp giấu chai rượu xuống gầm bàn thì anh đã vào đến nơi và bắt đầu giải thích những kết luận sáng suốt của Chernyshevsky. Tất cả ngồi im như phỗng, lo sợ chẳng may người nào trong chúng tôi vô ý chạm chân vào làm đổ chai rượu. Cuối cùng, chính thầy giáo làm đổ, anh nhìn xuống bàn và im lặng, chẳng nói nửa lời. Chà, giá như anh cứ gắt mắng om lên lại dễ chịu hơn!
Sự im lặng, nét mặt nghiêm nghị và đôi mắt nheo lại đầy vẻ bực tức của anh làm tôi hết sức bối rối. Liếc nhìn những gương mặt đỏ nhừ vì xấu hổ của các bạn, tôi cảm thấy mình là kẻ tội đồ chống lại thầy giáo và hết sức ái ngại, mặc dù việc mua rượu không phải là do tôi bày ra.
Đọc sách mãi chán quá, tôi muốn ra ngoài, đi đến một xóm Tatar, nơi ở của những con người dịu dàng, tốt bụng có cuộc sống đặc biệt trong sạch. Họ nói tiếng Nga lơ lớ, nghe đến buồn cười. Tối tối, từ trên các đỉnh tháp cao vọng xuống tiếng gọi đi lễ nhà thờ lạ lùng của các muezzin[23]. Tôi cảm thấy những người Tatar có một cuộc sống khác hẳn, xa lạ đối với tồi, không giống như cái cuộc sống mà tôi biết ‒ một cuộc sống không hề đem lại cho tôi điều gì thú vị.
Tôi bị lôi cuốn tới sông Volga, đến với khúc nhạc của cuộc sống lao động, khúc nhạc ấy mãi đến nay vẫn làm ngây ngất lòng tôi. Tôi còn nhớ như in cái ngày mà lần đầu tiên tôi rung cảm với bản trường ca hùng tráng của lao động.
Ở gần Kazan có một chiếc sà lan lớn chở hàng Ba Tư va phải đá ngầm bị thủng đáy. Phường phu khuân vác cho tôi nhập bọn để bốc dỡ hàng khỏi sà lan. Độ ấy vào tháng Chín, gió từ miền thượng lưu thổi mạnh về, trên mặt sông xám xịt, sóng chồm lên giận dữ, gió điên cuồng đánh tan những ngọn sóng, rắc xuống sông một trận mưa lạnh buốt. Phường khuân vác này có khoảng năm chục người, ủ rũ đứng ngồi trên sàn một chiếc sà lan trống rỗng, họ cuộn mình trong những chiếc chiếu gai và vải bạt. Một chiếc tàu kéo nhỏ dắt chiếc sà lan, thở hồng hộc và ném vào trong mưa từng bó lửa đỏ.
Trời tối sầm. Bầu trời ướt sũng, đen kịt bao trùm mặt sông. Anh em phu khuân vác càu nhàu và chửi bới, nguyền rủa mưa, gió và cuộc sống. Họ uể oải bò trên sàn sà lan, cố tìm cbỗ tránh mưa và rét. Tôi cảm thấy những con người ngái ngủ này không thể làm việc, không thể cứu được khối hàng hóa sắp bị đắm.
Vào quãng nửa đêm thì chúng tôi tới chỗ chiếc sà lan bị mắc cạn và cho chiếc sà lan rỗng áp mạn vào chiếc sà lan bị va phải đá ngầm. Người phường trưởng, một lão già độc ác mặt rỗ, tính giảo quyệt, ăn nói sỗ sàng, có đôi mắt và cái mũi diều hâu, đưa tay giật chiếc mũ lưỡi trai ướt sũng trên cái đầu hói xuống và kêu the thé như giọng đàn bà:
– Hãy cầu kinh đi, anh em ơi!
Trong đêm tối, trên sàn sà lan, anh em phu khuân vác dồn nhau lại thành một đống đen ngòm và gào lên như một đàn gấu. Người phường trưởng cầu kinh xong trước, thét:
– Đốt đèn lên! Ra tay đi thôi, anh em ơi! cố làm cật lực vào nhé! Chúa sẽ ban phước lành cho, bắt đầu đi!
Và những con người nặng nề, uể oải, ướt lướt thướt ấy bắt đầu “ra tay”. Giống như khi xông vào chiến đấu, họ nhảy ùa sang sàn và lao xuống hầm chiếc sà lan bị chìm với những tiếng reo hò, gào thét và những lời đùa bỡn. Xung quanh tôi, những bao gạo, những kiện nho khô, da thuộc, lông cừu bay nhẹ nhàng như những chiếc gối bông. Những thân hình vạm vỡ vừa chạy đi chạy lại vừa khích lệ nhau bằng tiếng kêu la, tiếng huýt sáo, tiếng chửi bới độc địa. Khó mà tin được rằng những người đang làm việc một cách nhẹ nhàng, vui vẻ và say sưa đó lại chính là những con người chậm chạp, cau có vừa mới đây còn buồn rầu than thở về cuộc đời, về mưa rét. Mưa càng nặng hạt, trời càng lạnh giá, gió càng thổi mạnh làm những chiếc áo cánh bay tung, vạt áo tốc ngược lên đầu, hở cả bụng. Trong đêm tối mưa gió, dưới ánh sáng yếu ớt của sáu ngọn đèn, những lớp sóng người đen ngòm lao đi vun vút, chân nện thình thịch trên sàn sà lan. Họ làm việc như thể thèm khát lao động, như từ lâu ho đã chờ đợi nỗi vui thích được chuyển từ tay người này sang tay người kia những bao nặng hàng bốn pood, vác những kiện hàng trên lưng mà chạy băng băng. Họ vừa làm vừa cười đùa vui vẻ, say mê như trẻ con, với một khoái cảm ngây ngất mà chỉ những lúc ôm ấp phụ nữ mới cảm thấy ngọt ngào hơn thôi.
Một gã râu ria xồm xoàm, người to lớn, mặc áo khoác ngoài, mình ướt đẫm và nhầy nhụa ‒ có lẽ là chủ nhân của số hàng hóa hoặc là người thay mặt chủ nhân ‒ bất thần kêu to, vẻ kích động:
– Này anh em, ta đặt giải thưởng một thùng rượu đấy! Các tướng cướp ạ, hai thùng cũng được! Làm nhanh lên!
Lập tức từ bốn phía trong đêm tối có mấy tiếng gào to:
– Ba thùng chứ!
– Ba thùng thì ba! Cứ làm khỏe vào!
Và cơn gió lốc lao động lại càng cuồn cuộn nổi lên mạnh mẽ hơn.
Tôi cũng khuân, cũng kéo, cũng ném, rồi lại chạy, lại khuân; và tôi cảm thấy rằng cả bản thân tôi lẫn mọi vật xung quanh đều quay cuồng trong một điệu vũ sôi nổi, rằng những con người ấy có thể làm việc một cách vui vẻ và hăng say lạ thường, không mệt mỏi, không tiếc sức mình, quên cả tháng, năm; rằng họ có thể nắm lấy những tháp chuông và những gác nhà thờ của thành phố lôi đi đâu thì lôi.
Đêm hôm ấy tôi đã sống trong một niềm vui mà trước kia tôi chưa hề nếm trải, trong thâm tâm tôi muốn được sống suốt đời trong trạng thái phấn khởi gần như điên cuồng ấy của lao động. Ngoài mạn tàu, sóng nước như nhảy múa, mưa quất xuống sàn sà lan, gió rít trên mặt sông, và trong bóng tối nhờ nhờ của buổi bình minh, những con người gần như trần truồng, mình ướt đẫm, vẫn chạy đi chạy lại tới tấp và không biết mệt mỏi, reo hò, cười nói, say sưa với sức mạnh và lao động của mình. Rồi bỗng nhiên một cơn gió mạnh xé toang khối mây đen nặng nề, trên mảnh trời xanh thẳm và rực rỡ lóe lên một tia sáng mặt trời hồng tươi. Những “con thú” vui vẻ ấy đồng thanh reo vang, đón chào tia sáng, làm rung rung hàng lông ướt đẫm trên những cái mõm đáng yêu. Tôi muốn ôm hôn những “con thú hai chân” vô cùng thông minh và nhanh nhẹn, vô cùng say sưa quên mình trong lao động ấy.
Dường như không gì có thể chống lại sức mạnh điên cuồng và phấn khởi, sức mạnh có khả năng tạo nên những điều kì diệu trên trái đất đầy thành phố và lâu đài tráng lệ như trong truyện thần thoại tiên tri thường nói đến. Sau khi ngắm nhìn lao động của con người trong chốc lát, tia sáng mặt trời không thắng nổi lớp mây dày, nặng nề, lại chìm sâu vào mây như một đứa bé chìm trong biển cả, và cơn mưa nhỏ bỗng chốc biến thành trận mưa rào.
– Nghỉ đi thôi!
Có người kêu lên, nhưng mọi người giận dữ đáp lại:
– Xong rồi hãy nghỉ!
Và dưới trời mưa như trút, trong gió lớn, những con người mình gần trần như nhộng ấy làm việc không ngơi tay đến tận hai giờ chiều, cho đến khi chuyển xong toàn bộ hàng hóa. Họ làm tôi kính phục nhận thức rằng: Thế giới loài người thật dồi dào biết bao sức mạnh hùng hậu!
Sau đó mọi người lên tàu và ngủ thiếp đi như những kẻ say rượu. Đến Kazan, họ nhảy ùa lên bãi cát như một dòng nước bùn đen ngòm và kéo nhau vào quán rượu uống cạn ba thùng rượu vodka.
Trong quán, gã kẻ cắp Bashkin bước đến trước mặt tôi, ngắm nghía tôi và hỏi:
– Họ kéo mày đi làm những gì?
Tôi phấn khởi kể lại cho gã công việc tôi làm, gã lắng nghe rồi thở dài, khinh bỉ nói:
– Đồ ngốc! ‒ Và còn tệ hơn nữa.‒ Đồ ngu!
Rồi huýt sáo, uốn éo thân hình như một con cá, gã lách đi giữa những dãy bàn kê sít nhau, nơi anh em phu khuân vác vừa ăn uống ồn ào xong. Trong một góc quán có người cất giọng lanh lảnh hát một bài ca tục tĩu.
Hây, chuyện xảy ra vào lúc nửa đêm
Một tiểu thư đi dạo trong vườn, hây!
Hàng chục tiếng gào theo vang lên đinh tai kèm những tiếng vỗ tay đôm đốp xuống mặt bàn:
Người tuần tra thành phố đứng rình
Thấy tiểu thư đang nằm ngửa tênh hênh…
Trong quán lại nổi lên những tiếng cười hô hố, tiếng huýt sáo và những lời nói trơ trẽn táo tợn mà có lẽ trên đời này không gì có thể bì được.
Chú thích
[7] Một trường đại học nổi tiếng ở nước Nga thời bấy giờ, có hơn một nghìn sinh viên, chia thành các khoa: Sử học, Triết học, Luật học, Toán học, Khoa học tự nhiên, Y học…
[8] John Stuart Mill (1806-1873), nhà kinh tế học và nhà triết học người Anh. Quan điểm lí luận của ông ta trái với chủ nghĩa Marx - Lenin.
[9] Puocault (1819-1868), nhà vật lí học nổi tiếng người Pháp.
[10] La Rocheríoucauld (1613-1680), nhà văn Pháp.
[11] La Rochejaquelein (1772-1794), thủ lĩnh của phái Bảo hoàng trong thời kì Đại cách mạng Pháp (1789-1793).
[12] Lavoisier (1743-1794), nhà hóa học lớn người Pháp, trong thời kì Đại cách mạng Pháp ông bị bọn phản động giết chết.
[13] Dumouriez, một võ quan thời Đại cách mạng Pháp. Sau năm 1793 y bắt đầu hoạt động phản cách mạng.
[14] Đơn vị đo lường của Nga, bằng 16,38 kg.
[15] Bret Harte (1839-1902), nhà thơ và nhà văn Bắc Mĩ. Để tài những truyện ngắn của ông thường lấy cảm hứng từ đời sống sinh hoạt của những tẩng lớp dưới trong xã hội: những người lang thang và những kẻ đào vàng.
[16] Một trò chơi thông dụng ở Nga. Người chơi dùng một quả cầu nhỏ bằng gỗ ném vào những con ki, tức là những khúc gỗ ngắn tròn, cho đổ xuống để tính điểm.
[17] Nhạc cụ gảy nhiều dây lâu đời nhất của Nga.
[18] Funt:Đơn vị đo lường cũ của Nga, bằng 409 g.
[19] Món đổ dùng truyền thống của Nga, dùng để đun nước hoặc sưởi ấm.
[20] Tức Guri - cách gọi thân mật.
[21] Skobelev (1843-1882), một võ quan nổi tiếng trong thời chiến tranh Nga -Thổ (1877-1878).
[22] Chemyshevsky (1828-1889), lãnh tụ phong trào cách mạng dân chủ vĩ đại Nga, nhà triết học duy vật, nhà văn và nhà phê bình văn học.
[23]Thầy tu Hồi giáo, đảm nhiệm việc báo giờ cầu nguyện cho tín đó.