PHẦN II
Có người giới thiệu tôi với Andrej Derenkov, chủ một cửa hiệu bán thực phẩm nhỏ. Cửa hiệu này nằm khuất ở cuối một dãy phố nghèo nàn, chật hẹp, trên một cái cống đầy rác rưởi.
Derenkov là một người bé nhỏ, bị liệt một cánh tay, mặt mũi hiền lành, có bộ râu vàng óng và cặp mắt thông minh. Anh ta có tủ sách quý nhất trong thành phố,, gồm toàn sách cấm và sách hiếm. Sinh viên các trường ở Kazan và những người có đầu óc cách mạng đã từng đọc sách ở đây.
Cửa hiệu của Derenkov nằm trong một ngôi nhà xép thấp, giáp với ngôi nhà của một gã bị hoạn làm nghề đổi bạc. Từ cửa hiệu có cửa thông vào một gian phòng lớn được chiếu sáng yếu ớt nhờ chiếc cửa sổ trông ra sân. Phía sau gian phòng này, đi sâu vào nữa,là một cái bếp chật hẹp. Đằng sau bếp, trong một phòng phụ tối tăm giữa nhà xép và nhà chính, có một cái kho ở trong góc, và đó chính là nơi cất giấu cái tủ sách hết sức bí mật. Một phần của tủ sách đã được chép tay vào những quyển vở dày, như Những hức thư lịch sử của Lavrov, Làm gì? của Chernyshevsky, một số bài báo của Pisarev[24], Ông vua đói[25] Ngón giảo hoạt… Tất cả những bản chép đó đều đã qua tay nhiều người đọc và rất nhàu nát.
Lần đầu tiên tôi tới cửa hiệu, Derenkov đang bận tiếp khách hàng, anh gật đầu ra hiệu bảo tôi đi về phía cửa thông vào phòng. Tôi bước vào và thấy ở góc phòng, trong bóng tối lờ mờ, một ông già bé nhỏ nom giống như bức chân dung Seraíìm của Sarov đang quỳ và cầu nguyện một cách kính cẩn. Nhìn ông già, tôi cảm nhận được một điều gì lạ lùng và kì quặc.
Người ta nói với tôi rằng Derenkov là một người thuộc phái “dân túy”[26]. Theo quan niệm của tôi thì người theo phái dân túy là người cách mạng, mà người cách mạng thì không được tin vào Chúa. Tôi cảm thấy ông già mộ đạo ấy là một người thừa trong ngôi nhà này.
Cầu nguyện xong, ông già cẩn thận vuốt mớ tóc và chòm râu bạc, chăm chú nhìn tôi rồi nói:
– Lão là cha của Andrej. Còn anh là ai? À, ra vậy đấy! Lão lại cứ nghĩ anh là một sinh viên cải trang.
– Thế sinh viên cải trang để làm gì ạ? Tôi hỏi.
– Ôi dào. ‒ Ông già khẽ đáp. ‒ Dù có cải trang thế nào đi nữa thì Chúa cũng vẫn biết!
Ông lão bỏ xuống bếp. Tôi ngồi bên cửa sổ và suy nghĩ.
Bỗng tôi nghe thấy tiếng kêu:
– Thì ra anh ta đấy!
Một cô gái vận đồ trắng đang đứng ở cửa bếp. Mái tóc vàng óng của cô cắt ngắn; trên khuôn mặt mũm mĩm, tái nhợt, ánh lên cặp mắt xanh như đang mỉm cười. Trông cô rất giống những thiên thần vẽ trong các bức tranh rẻ tiền.
– Tại sao anh lại hoảng hốt thế? Chẳng lẽ trông tôi đáng sợ lắm sao?
Cô ta nói giọng the thé, run run, rồi thận trọng và chậm chạp bước lại phía tôi, tay vịn vào tường hệt như đang đi trên một sợi dây tròng trành căng trong không khí chứ không phải đang đi trên mặt sàn cứng. Dáng đi vụng về đó càng khiến cô giống như người của một thế giới khác. Toàn thân cô rung lên như có những mũi kim đâm vào chân, như thể bức tường đang thiêu đốt những cánh tay mũm mĩm trẻ con của cô. Cả đến những ngón tay cũng đờ ra một cách kì lạ.
Tôi im lặng đứng trước mặt cô. Một sự bối rối lạ lùng và nỗi thương hại sâu sắc xâm chiếm tâm hồn tôi. Trong căn phòng tối này tất cả đều thật kì lạ.
Cô gái ngồi xuống ghế một cách thận trọng, dường như sợ chiếc ghế bay đi mất. Bằng những lời lẽ không thể giản dị hơn, cô kể với tôi rằng cô mới bắt đầu đi lại được đến hôm nay là hôm thứ năm, trước đấy cô phải nằm liệt giường gần ba tháng trời: Cô bị liệt chân tay.
– Đó là một thứ bệnh thần kinh. ‒ Cô mỉm cười nói.
Tôi còn nhớ, lúc đó tôi muốn cô giải thích bệnh trạng của cô một cách khác. Bệnh thần kinh ‒ điều đó thật quá đơn giản đối với một người con gái như vậy và ở trong một căn phòng kì lạ như vậy, một căn phòng trong đó tất cả mọi đồ vật đều như đang nép vào tường một cách sợ sệt: Ở góc phòng, trước các tượng thánh, ngọn đèn thờ cháy rất sáng, bóng nhữngdây xích bằng đồng bò một cách thản nhiên trên chiếc bàn ăn lớn phủ khăn trắng.
– Tôi đã nghe nói rất nhiều về anh, thành thử tôi muốn gặp xem anh như thế nào. ‒ Giọng cô trong trẻo như giọng trẻ con.
Cô gái ấy ngắm nghía tôi bằng con mắt thật là đáng sợ, cặp mắt xanh của cô ta như muốn xuyên thấu tất cả. Với một người con gái như vậy, tôi không thể nói chuyện được vì không biết nói như thế nào. Tôi bèn im lặng ngắm nghía những bức chân dung của Herzen[27], Darwin[28], Garibaldi[29].
Từ ngoài cửa hiệu, một thiếu niên trạc tuổi tôi chạy vào, tóc vàng hoe, cặp mắt ranh mãnh. Anh ta biến mất vào trong bếp sau khi kêu lên bằng giọng trầm bổng:
– Chị mò ra đây làm gì, chị Mariya?
– Thằng em tôi đây, Aleksej ạ.‒ Cô gái nói. ‒ Còn tôi đang học lớp sản khoa thì bị ốm. Tại sao anh lại im lặng thế? Anh ngượng phải không?
Andrej Derenkov đi vào, cánh tay bị liệt đút trong ngực áo. Anh ta im lặng vuốt mái tóc mềm mại của cô em gái, xoa cho bù lên và hỏi tôi đến vì việc gì.
Lát sau, một cô gái tóc quăn màu hung, thân hình cân đối, mắt xanh lá mạ bước vào phòng. Cô ta nghiêm nghị nhìn tôi rồi khoác tay cô gái vận đồ trắng kéo đi và nói:
– Đủ rồi, Mariya!
Mariya ‒ cái tên đó thật không hợp với cô gái, đối với cô nó có phần hơi thô thiển.
Tôi cũng đi ra, lòng xao xuyến lạ kì. Sau đó một hôm, buổi tối, tôi lại ngồi trong căn phòng ấy. Tôi muốn tìm hiểu xem người ta sống như thế nào trong căn phòng này? Họ sống thật là kì lạ.
Ông già Stepan Ivanovich đáng mến, dịu dàng, râu tóc bạc phơ, người trắng bệch, thường ngồi ở góc nhà nhìn ra, cặp môi thâm động đậy, miệng khẽ mỉm cười như muốn yêu cầu:
– Đừng động chạm đến tôi!
Trong con người ông già có cái vẻ sợ hãi của loài thỏ và linh cảm lo âu về những điều bất hạnh. Điều đó tôi thấy rất rõ.
Andrej bị liệt một tay, thường mặc chiếc áo màu xám có dính dầu và bột ở ngực cứng như vỏ cây, đi lại trong phòng, người nghiêng nghiêng, miệng cười ngượng nghịu như đứa trẻ vừa được tha thứ sau một trò nghịch ngợm. Aleksej, một thanh niên lười biếng, cục cằn, giúp anh bán hàng. Đứa em trai thứ ba là Ivan học ở trường Sư phạm, nó ở kí túc xá và chỉ về nhà vào những ngày lễ. Đó là một thiếu niên bé nhỏ, ăn mặc sạch sẽ, đầu chải bóng mượt giống như một viên chức già. Cô Mariya đau ốm ở đâu đó trên gác thượng, ít khi xuống dưới nhà, và cứ mỗi khi cô ta xuống thì tôi lại cảm thấy lúng túng, hệt như tôi bị trói buộc bởi những sợi dây vô hình vậy.
Công việc nội trợ trong gia đình Derenkov do một mụ cùng ở chung với lão chủ nhà bị hoạn đảm nhiệm. Đó là một người đàn bà cao gầy, có bộ mặt như một con búp bê bằng gỗ với cặp mắt nghiêm nghị của một nữ tu sĩ độc ác. Cô Nastya mũi nhọn, tóc hung, con gái mụ cũng ở đây. Mỗi khi cô ngước cặp mắt xanh nhìn đàn ông, hai cánh mũi của cô lại rung rung.
Nhưng những người chủ thực sự trong căn nhà Derenkov lại là các sinh viên của trường đại học, của Đại chủng viện và Viện Thú y. Họ thường tụ tập tại đây trong những cuộc hội họp ồn ào. Đó là những người biết quan tâm đến nhân dân Nga, luôn luôn lo lắng cho tương lai của nước Nga. Thường xuyên bị kích động bởi những bài báo, những kết luận của các cuốn sách vừa đọc xong, những sự kiện trong sinh hoạt của thành phố và của trường đại học, tối tối, từ khắp các phố của Kazan, họ kéo đến tụ họp tại cửa hiệu nhỏ bé của Derenkov để tham gia vào những cuộc tranh cãi gay gắt, và để thì thầm nho nhỏ với nhau trong các góc nhà. Họ mang theo những cuốn sách dày cộp, rồi vừa thọc ngón tay vào các trang sách vừa la hét để bảo vệ những chân lí mà mình ưa thích.
Tất nhiên tôi không hiểu rõ lắm về các cuộc tranh luận ấy. Đối với tôi, chân lí đã biến đi trong những lời lẽ dài dòng giống như váng mỡ trong nồi xúp lỏng bỏng của người nghèo. Một số sinh viên làm tôi liên tưởng tới những ông già thông thái thuộc giáo phái miền Volga, nhưng tôi hiểu rằng tôi đang gặp những con người sẵn sàng để khiến cuộc sống thay đổi tốt đẹp hơn. Và tuy lòng chân thành của họ bị chìm ngập giữa những làn sóng dữ dội của lời nói, nó không tiêu tan trong đó. Những vấn đề mà họ định giải quyết tôi đều hiểu rõ, và tôi cảm thấy chính bản thân mình cũng say mê với việc giải quyết những vấn đề ấy. Tôi thường có cảm tưởng là trong lời nói của anh em sinh viên cũng vang lên những ý nghĩ thầm kín của tôi, và đối với những con người đó, thái độ của tôi gần như hân hoan, giống một tên tù binh được người ta hứa trả tự do.
Còn họ thì nhìn tôi hệt như những người thợ mộc nhìn một khúc gỗ có thể dùng để làm một đồ vật không đến nỗi tầm thường.
– Một thiên tài tự phát! ‒ Họ giới thiệu tôi cho nhau với một niềm tự hào giống như những đứa trẻ lang thang đầu đường xó chợ đưa cho nhau xem một đồng năm kopek bằng đồng bắt được ở ngoài đường. Tôi không thích người ta gọi tôi là “thiên tài”, là “người con của nhân dân”. Tôi cảm thấy mình là một đứa con nuôi của cuộc sống; và đôi lúc tôi nhận thấy rất rõ sức mạnh của cái lực lượng chi phối sự phát triển tâm hồn tôi. Chẳng hạn, có hôm nhìn thấy trên cửa sổ hiệu sách một tác phẩm với nhan đề bí ấn Cách ngôn và phương ngôn[30] tôi nảy ra ý muốn đọc cuốn sách ấy, tôi bèn hỏi sinh viên Đại chủng viện cho tôi mượn cuốn này.
– Gớm thật! ‒ Vị chủ giáo tương lai, con người có cái đầu giống như người da đen ‒ tóc xoăn, môi dày, răng to ‒ thốt lên một cách mỉa mai. ‒ Người anh em ạ, đó chỉ là một thứ nhảm nhí mà thôi. Người anh em hãy đọc những gì người ta đưa cho, còn những lĩnh vực không thích hợp với người anh em thì đừng có chõ mũi vào!
Giọng nói thô lỗ kiểu lên mặt dạy đời này khiến tôi rất bực mình. Tất nhiên tôi đã mua cuốn sách đó, tiền thì một phần do tôi kiếm được ở các bến tàu, một phần vay của Andrej Derenkov. Đó là cuốn sách đáng kể đầu tiên mà tôi đã mua, cho đến bây giờ tôi vẫn còn giữ được.
Nói chung, đối với tôi, mọi người đối xử khá nghiêm khắc. Khi tôi đọc xong cuốn Khoa học xã hội nhập môn, tôi có cảm tưởng là tác giả đã cường điệu vai trò của các bộ lạc chăn nuôi trong việc tổ chức đời sống văn hóa, còn những người lang thang giàu óc sáng tạo và những người săn bắn thì bị ông ta lăng nhục. Tôi nói lại những điều hoài nghi của tôi với một sinh viên ngữ văn; anh này sau khi cố tạo cho bộ mặt đàn bà của mình một vẻ oai vệ, liền nói với tôi hàng giờ về vấn đề “quyền phê bình”.
– Muốn có quyền phê bình, cần phải tin vào một chân lí nào đó. Anh tin vào cái gì? ‒ Anh ta hỏi tôi.
Anh ta đọc sách cả ở ngoài đường phố; đi trên vỉa hè, anh ta thường úp mặt vào sách, đến nỗi đâm cả vào mọi người. Những lúc vật vã trong cơn sốt phát ban, tại căn gác xép của mình, anh ta vẫn la lên:
– Đạo đức phải là sự phối hợp một cách hài hòa giữa yếu tố tự do và yếu tố cưỡng bức, một cách điều hòa… điều hò…ò…à…
Là một người dịu dàng, ốm dở vì thiếu ăn quanh năm, kiệt sức vì dai dẳng tìm kiếm chân lí vĩnh cửu, anh ta không hề biết một thú vui nào khác ngoài đọc sách. Và mỗi khi anh cảm thấy mình đã dung hòa được những mâu thuẫn giữa hai trí tuệ mạnh mẽ, cặp mắt đen đáng yêu của anh mỉm cười sung sướng như một đứa trẻ con. Khoảng mười năm sau khi sống ở Kazan tôi lại gặp anh ở Kharkov, lúc này anh đã trải qua năm năm đi đày ở Kem và quay lại học ở trường đại học. Tôi có cảm tưởng anh là một người sống giữa hằng hà sa số những tư tưởng trái ngược nhau. Lúc sắp chết vì bệnh lao, anh vẫn cố sức dung hòa Nietzsche với Marx. Vừa khạc ra máu và thở khò khè, anh vừa đưa những ngón tay lạnh giá dính nhớp nháp nắm lấy cánh tay tôi:
– Không có sự tổng hợp thì không thể sống được!
Anh chết trong toa xe điện trên đường đến trường đại học.
Tôi đã thấy không ít những kẻ tử vì đạo như vậy. Đối với tôi hình ảnh của họ thật là thiêng liêng.
Khoảng hai chục người như vậy thường tụ họp tại căn nhà của Derenkov, trong đó có cả một người Nhật, sinh viên Đại chủng viện, tên là Panteleimon Sato. Thỉnh thoảng lại thấy xuất hiện một người cao lớn, ngực nở, râu rậm, tóc húi theo kiểu Tatar. Anh ta như bị khâu chặt vào chiếc áo khoác dài màu xám có móc cài đến tận cằm. Thường thường anh ngồi trong góc nhà, hút một cái tẩu ngắn và bằng cặp mắt xám, điềm đạm nhìn mọi người vẻ như thăm dò. Cặp mắt của anh thường dừng lại trên mặt tôi một cách chăm chú. Tôi cảm thấy rằng con người nghiêm nghị đó đang thầm đánh giá tôi trong óc. Và không hiểu sao tôi thấy sợ anh ta. Sự im lặng của anh ta làm tôi ngạc nhiên. Tất cả mọi người xung quanh đều nói to, nói nhiều, nói mạnh. Và những lời nói càng vang lên gay gắt chừng nào thì tất nhiên tôi càng thích chừng ấy. Một thời gian rất lâu tôi vẫn không biết được rằng trong những lời nói gay gắt thường ẩn những ý nghĩ tầm thường và giả dối. Chàng lực sĩ rậm râu này im lặng suy nghĩ điều gì?
Mọi người gọi anh ta là “Khokhol”[31] và có lẽ ngoài Andrej ra không ai biết tên thật của anh là gì. Ít lâu sau tôi được biết rằng con người đó vừa mới bị đi đày ở tỉnh Yakutsk về không lâu, anh đã sống ở đấy mười năm trời. Sự kiện này càng khiến tôi chú ý đến anh hơn, nhưng vẫn không giúp tôi đủ can đảm làm quen với anh, mặc dầu tôi không phải là người nhút nhát, rụt rè, trái lại tôi mắc phải cái bệnh hay tò mò, cái gì cũng muốn biết và càng biết được sớm càng tốt. Tính đó suốt đời đã cản trở không cho tôi chuyên chú hẳn vào một công việc gì.
Khi mọi người nói về nhân dân, tôi kinh ngạc và thấy thiếu tự tin, cảm thấy rằng về vấn đề này tôi không thể nghĩ như họ được. Đối với họ, nhân dân là hiện thân của sự sáng suốt, của cái đẹp tinh thần và của sự lương thiện, là một cái gì thống nhất toàn vẹn và có tính chất gần như thần thánh, là đầu mối của tất cả những gì đẹp đẽ, công bằng, vĩ đại. Tôi chưa từng thấy thứ nhân dân như vậy. Tôi đã thấy những người thợ mộc, phu khuân vác, thợ nề; tôi biết Yakov, Osip, Grigori. Nhưng ở đây người ta lại nói đến một thứ nhân dân thuần nhất và tự đặt mình xuống dưới thứ nhân dân ấy, phụ thuộc vào ý chí của nó. Còn tôi thì cho rằng chính họ đã thể hiện trong con người họ vẻ đẹp và sức mạnh của tư tưởng, trong con người họ tập trung và đang rực cháy ý chí nhân đạo tốt đẹp đối với cuộc sống, đối với việc tự do xây dựng cuộc sống theo những quy tắc mới nào đó của lòng nhân đạo.
Quả là tôi đã không thấy lòng nhân đạo trong những con người bé nhỏ cùng chung sống với tôi trước đây. Còn ở đây thì nó vang lên trong mỗi lời nói, rực cháy trong mỗi khóe mắt.
Những lời nói của những con người tôn sùng nhân dân ấy đã tưới vào trái tim tôi như một trận mưa rào mát mẻ, và cả những loại sách ngây thơ nói về cuộc sống tối tăm của nông thôn, về những bần nông khốn khổ cũng đã giúp tôi rất nhiều. Tôi cảm thấy rằng phải yêu con người thật say sưa, thật nồng nhiệt mới có thể có được một sức mạnh cần thiết để tìm ra và hiểu được ý nghĩa của cuộc sống. Tôi bèn không nghĩ đến mình nữa và bắt đầu để ý đến mọi người nhiều hơn.
Andrej Derenkov, với vẻ tin cậy, nói cho tôi biết toàn bộ số tiền ít ỏi mà anh thu được trong việc buôn bán là dùng để giúp đỡ những người nào tin rằng “Hạnh phúc của nhân dân là trên hết”. Hệt như một thầy phụ lễ trung thành được hầu hạ đức tổng giám mục, anh hay quanh quẩn bên cạnh họ và không giấu được vẻ hân hoan trước sự thông minh lanh lợi của những con người chuộng sách vở ấy. Anh thường mỉm cười sung sướng, nhét cánh tay bị liệt vào trong ngực áo, còn bàn tay kia thì xoắn bộ râu mềm mại và hỏi tôi:
– Khá đấy chứ? Tài thật!
Và cứ mỗi lần chàng sinh viên thú y Lavrov, anh chàng có giọng nói kì lạ, nghe quang quác như tiếng ngỗng kêu, phản đối ý kiến của những người thuộc phái dân túy thì Derenkov lại sợ hãi nhắm mắt lại, miệng lẩm bẩm:
– Thật là đồ gây sự!
Thái độ của Derenkov đối với các sinh viên thuộc phái dân túy cũng giống thái độ của tôi, còn thái độ của các sinh viên đối với anh ta thì tôi có cảm tưởng giống như thái độ thô lỗ và thiếu tôn trọng của những ông chủ đối với người hầu hoặc kẻ tôi tớ trong các quán rượu. Bản thân Derenkov không nhận thấy điều này. Thường thường, sau khi tiễn khách ra về, anh giữ tôi ở lại. Chúng tôi quét lại phòng rồi nằm trên tấm thảm bằng nỉ trải ngay trên sàn, thì thầm trò chuyện thân mật với nhau rất lâu trong bóng tối, dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn thờ. Với niềm vui thầm lặng của một tín đồ, anh nói với tôi:
– Cứ có được hàng trăm, hàng nghìn những người tốt như vậy để họ giữ tất cả những địa vị trọng yếu ở nước Nga thì lập tức họ sẽ làm thay đổi cả cuộc sống!
Anh ta hơn tôi đến mười tuổi; tôi nhận thấy rằng anh rất thích cô Nastya tóc hung và anh cố không nhìn vào cặp mắt như thách thức của cô ta. Khi có người ngoài, anh thường nói với cô bằng giọng hơi khô khan như giọng ra lệnh của ông chủ, nhưng lại tiễn cô bằng cái nhìn rất buồn. Còn những khi nói chuyện riêng với cô, anh thường mỉm cười, vẻ bối rối và rụt rè, tay giật giật bộ râu.
Cô em gái nhỏ của anh cũng thường ngồi trong góc nhà quan sát những cuộc đấu khẩu. Bộ mặt non nớt của cô căng lên nom rất buồn cười mỗi khi phải chú ý quá, hai mắt cô mở to, và cứ mỗi lần những lời nói đặc biệt gay gắt vang lên thì cô lại thở dài thật to, hệt như bị người ta vẩy nước lạnh vào người. Anh chàng sinh viên y khoa tóc hung cứ luẩn quẩn bên cạnh cô như một con gà trống đường bệ. Anh ta hay nói với cô bằng giọng gần như thì thầm có vẻ bí mật và nhíu lông mày ra vẻ quan trọng. Tất cả những cảnh đó nom thật hết sức thú vị.
Nhưng mùa thu đã đến, cuộc sống không có công việc ổn định đã trở thành điều không thể chịu đựng được đối với tôi. Mải mê với tất cả những điều đang diễn ra xung quanh, càng ngày tôi càng làm việc ít hơn và phải đi ăn ghẹ người khác. Mà miếng ăn như vậy thì bao giờ cũng rất khó nuốt, cần phải tìm “chỗ trú” cho mùa đông, và tôi đã tìm được ở lò bánh mì của Vassili Semyonov.
Giai đoạn này của cuộc đời tôi đã được tôi tả lại trong các truyện ngắn Người chủ, Konovalov, Hai mươi sáu anh chàng và một cô gái. Thật là một thời kì vất vả! Nhưng cũng lại là một thời kì đã dạy cho tôi nhiều bài học.
Thể xác đã cực nhọc, tinh thần còn nặng nề hơn.
Từ khi tôi bước chân xuống hầm của xưởng làm bánh, lập tức mọc lên một “bức tường quên lãng” giữa tôi với những con người mà nhìn thấy họ và nghe họ nói đã trở thành điều cần thiết đối với tôi. Không có ai trong bọn họ đến xưởng gặp tôi cả, còn tôi phải làm việc mười bốn giờ một ngày, cũng không thể đến chỗ Derenkov vào những ngày thường được. Những ngày lễ thì tôi hoặc là ngủ, hoặc là ở nhà với các đồng nghiệp. Một số người ngay từ những ngày đầu đã nhìn tôi như nhìn một thằng hề ngộ nghĩnh, số khác thì yêu quý tôi một cách ngây thơ như những đứa trẻ yêu quý một người biết kể những chuyện cổ tích thú vị. Chỉ ma quỷ mới biết được là tôi đã nói gì với những người đó, nhưng dĩ nhiên tôi đã nói tất cả những điều có thể gợi lên cho họ niềm hi vọng vào một cuộc sống khác dễ chịu và có ý nghĩa hơn. Thỉnh thoảng tôi thành công trong việc đó, và hễ cứ nhìn thấy những tia buồn bã nhen lên trên gương mặt húp híp và trong các khóe mắt của họ bùng lên tia lửa bực tức và giận dữ, tôi lại thấy vui sướng và tự hào nghĩ rằng tôi đang làm “công tác quần chúng”, đang “giáo dục” họ.
Nhưng tất nhiên thường là tôi cảm thấy bất lực với sự thiếu hụt về kiến thức của mình. Tôi không thể trả lời được ngay cả những vấn đề đơn giản nhất trong cuộc sống và trong đời sống hằng ngày. Những lúc ấy tôi thấy mình như bị ném vào một cái hố tối om, dưới đó mọi người lúc nhúc như những con giòi mù, chỉ cốt sao lãng quên được thực tại và đi tìm sự lãng quên đó trong các quán rượu, trong những cánh tay ôm ấp lạnh giá của bọn gái điếm.
Hằng tháng, việc đi chơi nhà thổ đã thành thông lệ vào ngày lĩnh lương. Một tuần trước ngày hạnh phúc này, mọi người đã công khai mơ ước niềm khoái lạc đó. Và sau khi sống qua ngày ấy rồi, họ còn kể cho nhau nghe rất lâu về những khoái cảm mà họ đã trải qua. Trong các cuộc nói chuyện ấy, người ta thường đem khoe khoang một cách trắng trợn năng lực tình dục của mình. Họ nhạo báng phụ nữ một cách tàn nhẫn, vừa nói vừa khạc nhổ ra vẻ kinh tởm.
Nhưng, thật kì lạ! Tôi có cảm giác rằng đằng sau tất cả những câu chuyện ấy tôi đã nghe thấy sự buồn bã và hổ thẹn. Tôi nhận thấy rằng tại các “nhà giải muộn phiền” ấy, nơi mà với một rúp có thể mua được một người đàn bà trong suốt cả một đêm, bạn bè tôi đã hành động một cách bối rối, ngượng ngập giống như những kẻ có lỗi. Tôi cảm nhận được điều đó rất rõ ràng. Một số người lại hành động một cách hết sức lỗ mãng và táo tợn, và tôi cảm thấy sự lỗ mãng, táo tợn ấy đầy cố tình và giả dối. Quan hệ trai gái hấp dẫn tôi một cách kinh khủng, tôi đã quan sát tất cả những chuyện đó với con mắt sắc sảo đặc biệt. Bản thân tôi chưa được hưởng sự âu yếm của phụ nữ, và điều đó đã đưa tôi vào một tình thế khó chịu: Cả chị em phụ nữ lẫn bạn bè đều nhạo báng tôi một cách cay độc. Chẳng bao lâu sau, mọi người thôi không mời tôi đến các “nhà giải muộn phiền” nữa, họ bảo thẳng với tôi:
– Thôi, người anh em, đừng đi với chúng tớ nữa.
– Tại sao?
– Chẳng sao cả! Đi với cậu không tiện.
Tôi ngẫm nghĩ rất nhiều, cảm thấy những lời ấy có ý nghĩa nào đó khá quan trọng đối với tôi, nhưng tôi cũng chẳng tìm được lời giải thích nào rõ ràng hơn.
– Ô, cái thằng này! Đã bảo đừng đi mà lại! Đi với mày chán lắm…
Chỉ có Artem vừa mỉm cười vừa nói:
– Cứ y như có mặt cha cố hay bố già vậy.
Bọn con gái ban đầu chế giễu sự dè dặt của tôi, sau họ hỏi tôi với vẻ bực tức:
– Anh ghê tởm chúng tôi lắm à?
Terezia Boruta, một “cô gái” Ba Lan bốn mươi tuổi, đẹp, ăn mặc lộng lẫy, là “quản gia” ở “nhà giải muộn phiền”. Mụ nhìn tôi bằng cặp mắt tinh nhanh như mắt chó nòi và nói:
– Thôi, chúng mình buông tha anh ta, các bạn ạ! Anh ta nhất định là có nhân tình rồi, phải không? Khỏe mạnh như thế thì ắt có nhân tình giữ chân chứ còn gì nữa!
Mụ nghiện rượu, thường uống say bí tỉ. Lúc say trông mụ thật đáng ghét, nhưng những lúc tỉnh mụ làm cho tôi phải ngạc nhiên bởi thái độ chín chắn trong lối hành xử với mọi người và sự bình tĩnh tìm tòi ý nghĩa những hành vi của họ.
– Cái bọn kì quặc nhất định phải là bọn sinh viên Đại chủng viện.‒ Mụ kể chuyện cho bạn bè của tôi. ‒ Ai lại làm như thế này với bọn con gái bao giờ: Chúng nó sai xát xà phòng lên sàn nhà, bắt một đứa con gái cởi trần truồng nằm bò xuống, chân tay đặt lên đĩa, rồi chúng đẩy đằng đít xem trượt đi có xa không. Cứ thế, hết đứa con gái này đến đứa con gái khác. Đó, như vậy để làm gì nhỉ?
– Mụ chỉ nói láo thôi! ‒ Tôi nói.
– Ô, không phải đâu! ‒ Terezia kêu lên, giọng điềm tĩnh không có vẻ gì bực tức.
Trong sự điềm tĩnh đó như có cái gì nghẹn lại.
– Mụ bịa ra chuyện đó chứ gìl
– Một người con gái đời nào bịa ra chuyện như vậy được? Chẳng lẽ tôi điên hay sao? ‒ Mụ hỏi, hai mắt tròn xoe.
Mọi người lắng nghe cuộc tranh luận của chúng tôi một cách hết sức chăm chú. Còn Terezia vẫn cứ kể chuyện về các trò chơi của những ông khách bằng giọng thản nhiên của người chỉ muốn tìm hiểu xem người ta làm chuyện đó để làm gì.
Những người nghe chuyện nhổ nước bọt tỏ vẻ ghê tởm, họ chửi rủa anh em sinh viên bằng những lời tục tằn. Nhận thấy mụ Terezia đang gây lòng thù hằn đối với những con người mà tôi yêu mến, tôi liền nói rằng anh em sinh viên là những người yêu nhân dân, mong muốn những điều tốt cho dân.
– Đó là những sinh viên đại học ở phố Voskresenskaya, còn đây là tôi nói về các sinh viên Đại chủng viện ở Arskoye Polye! Bọn sinh viên ấy đứa nào cũng mồ côi cả, mà trẻ mồ côi thì lớn lên nhất định phải ăn cắp hoặc lêu lổng, phải thành người xấu, vì bọn mồ côi ấy, chúng có bị ràng buộc vào cái gì đâul
Những câu chuyện kể bằng giọng điềm tĩnh của mụ “quản gia” cùng những lời than phiền độc ác của bọn con gái về các anh em sinh viên, về các viên chức và nói chung về những “giới thanh cao” đã gây nên trong bạn bè tôi không chỉ lòng thù địch mà cả một tình cảm gần như vui thích; nó biểu hiện bằng những lời:
– Vậy ra những người có học lại tồi hơn chúng ta!
Tôi đau khổ và cay đắng khi phải nghe những lời đó. Tôi nhận thấy rằng tất cả nước bẩn của thành phố đều dồn vào những căn phòng chật hẹp, tranh tối tranh sáng này, hệt như dồn vào những cái hố trũng. Nó được đun sôi trên một ngọn lửa đầy khói và đầy sự thù hằn, độc ác, rồi lại chảy ngược về thành phố. Trong những xó xỉnh này, nơi bản năng và sự chán chường cuộc sống đã đẩy người ta vào, tôi biết được những tiếng vô nghĩa trở thành các bài hát cảm động về nỗi lo âu và đau khổ của tình yêu, những chuyện bịa đặt quái gở về cuộc sống của “người có học” cùng thái độ giễu cợt và thù ghét đối với những điều người ta không hiểu đã nảy sinh ra sao. Và tôi nhận thấy rằng các “nhà giải muộn phiền” là những trường đại học mà từ đó các bạn của tôi học được những kiến thức hết sức độc địa.
Tôi đã từng xem những cô gái làng chơi đi đi lại lại trên mặt sàn bẩn thỉu, uể oải kéo lê hai chân. Những tấm thân nhẽo của họ nhún nhảy một cách kinh tởm theo tiếng rít dai dẳng của cây đàn phong cầm hoặc theo tiếng kêu giòn kích động của dây đàn dương cầm. Nhìn họ, tôi nảy ra những ý nghĩ không rõ ràng nhưng đầy lo lắng. Tất cả những cảnh tượng xung quanh tôi tạo nên một nỗi buồn chán, nó đầu độc tâm hồn tôi bằng ý muốn bất lực chạy trốn đến một nơi nào đấy.
Ở xưởng, khi tôi bắt đầu kể rằng có những người đang đi tìm một cách vô tư con đường đến tự do, hạnh phúc cho nhân dân, mọi người liền phản đối:
– Đấy, bọn con gái chẳng vừa kể chuyện đấy còn gì!
Và họ nhạo báng tôi một cách không thương tiếc bằng những lời cay độc vô liêm sỉ. Còn tôi thì như một con chó con hay gây gổ, cảm thấy mình cũng ngu ngốc và bạo dạn không kém gì những con chó lớn, tôi nổi xung lên. Khi bắt đầu hiểu rằng những ý nghĩ về cuộc sống cũng nặng nề không kém gì chính bản thân cuộc sống, đôi lúc tôi thấy như trong tâm hồn mình bùng lên những tia lửa căm thù đối với những con người có sự nhẫn nhục gan lì mà tôi làm việc cùng. Điều làm tôi đặc biệt tức giận là khả năng chịu đựng của họ, sự tuyệt vọng đến gần như ngoan ngoãn phục tùng những lời nhạo báng điên rồ của lão chủ say rượu.
Nhưng ‒ như thể trời định ‒ chính trong những ngày nặng nề đó tôi đã được làm quen với một tư tưởng hoàn toàn mới mẻ, tuy về căn bản nó đối địch với những suy nghĩ của tôi, nhưng dù sao nó cũng đã làm cho tôi rất bối rối.
Vào một đêm bão tuyết, khi những cơn gió rít độc ác như muốn xé tan bầu trời thành những mảnh vụn và những mảnh ấy rơi lả tả xuống mặt đất, bị vùi dưới những lớp bụi băng, khi cuộc sống trên trái đất dường như kết thúc, mặt trời đã bị dập tắt, không bao giờ còn mọc nữa ‒ vào một đêm như vậy, trong ngày xưng tội của tuần chay, tôi từ nhà Derenkov trở về xưởng. Hai mắt nhắm nghiền, tôi đi ngược chiều gió, băng qua lớp không khí xám xịt, mù mịt, quay cuồng như đang sôi sục. Bỗng tôi vấp phải một thân người nằm chắn ngang vỉa hè và ngã bổ nhào. Cả hai chúng tôi cùng thốt lên tiếng chửi; tôi chửi bằng tiếng Nga, còn người kia thì bằng tiếng Pháp.
– Ồ, đồ quỷ…
Tính tò mò của tôi bị kích thích. Tôi nâng người đàn ông dậy, đỡ ông đứng lên. Dáng người ông thấp bé, mảnh khảnh. Ông vừa đẩy tôi ra vừa thét một cách giận dữ:
– Mũ của tao, quỷ tha ma bắt mày đi! Trả mũ tao đây! Tao chết cóng bây giờ!
Tìm thấy chiếc mũ trong đống tuyết, tôi giũ sạch rồi đội lên cái đầu lởm chởm tóc của ông. Nhưng ồng giật mũ xuống, rồi vừa khua mũ vừa chửi bằng hai thứ tiếng và đuổi tôi:
– Cút đi!
Bỗng, ông ta lao chúi về phía trước và chìm trong cơn bão tuyết sôi sục. Đi tiếp, tôi lại bắt gặp ông ta đang đứng, hai tay ôm cái cột đèn gỗ với ngọn đèn đã tắt, miệng lải nhải:
– Lena, anh chết mất… Ôi, Lena…
Hình như ông ta say rượu, và có lẽ ông ta sẽ chết rét nếu như tôi cứ để mặc ông ngoài đường. Tôi bèn hỏi xem nhà ông ở đâu.
– Đây là phố nào nhỉ? ‒ Ông kêu lên, gần như phát khóc. ‒ Tôi không biết đi lối nào cả.
Tôi ôm ngang thắt lưng ông và kéo đi, vừa đi vừa hỏi xem nhà ông ở đâu.
– Ở Bulak! ‒ Ông lắp bắp, người run lên. ‒ Ở Bulak… Ở đó có nhà tắm công cộng… Ngôi nhà…
Ông bước lảo đảo, loạng choạng, cản trở bước chân tôi. Tôi nghe tiếng hai hàm răng ông đập vào nhau.
– Si tu savais…(Nếu mi biết…) ‒ Người đàn ông vừa lắp bắp vừa đẩy tôi ra.
– Ông nói gì thế?
Ông ta dừng lại, giơ tay lên, nói rành rọt và ‒ như tôi cảm nhận được ‒ có vẻ tự hào:
– Si tu savais où je te mène… (Nếu mi biết ta đưa mi đi đâu…)
Rồi ông nhét mấy ngón tay vào miệng, lảo đảo như sắp ngã. Tôi ngồi xuống, xốc ông lên lưng và cõng đi. Ông tì cằm vào đầu tôi, càu nhàu:
– Nếu mi biết… Nhưng tôi đang chết cóng đây. Trời ơi…
Đến Bulak, khó khăn lắm tôi mới hỏi được ông ta xem ông ở nhà nào. Cuối cùng, chúng tôi chui vào phòng ngoài của một chái nhà nhỏ ẩn sâu trong sân, giữa làn lốc tuyết mịt mù. Ông ta sờ soạng cửa, gõ một cách thận trọng và thì thầm:
– Suỵt…! Khẽ chứ…
Người mở cửa là một người đàn bà mặc áo choàng đỏ, tay cầm ngọn nến đang cháy. Bà ta nhường lối cho chúng tôi, lặng lẽ lánh sang một bên, rồi rút ở đâu ra một cái kính cầm tay và bắt đầu chăm chú quan sát tôi.
Tôi bảo bà ta rằng hai tay ông ấy có lẽ đã bị lạnh cóng rồi, cần cởi quần áo cho ông và đỡ ông đi nằm.
– Thế à? ‒ Bà ta hỏi bằng giọng ngân vang và trẻ trung.
– Nên nhúng hai tay vào nước lạnh…
Bà ta im lặng, cầm chiếc kính chỉ vào góc nhà. Tại đấy, trên một cái giá vẽ có đặt bức tranh họa cảnh sông và cây cối. Tôi ngạc nhiên liếc nhìn nét mặt người đàn bà, nét mặt lạnh lùng kì lạ. Bà ta đi lại góc phòng, đến bên chiếc bàn đặt ngọn đèn có chao màu hồng đang tỏa sáng. Bà ta ngồi xuống, lấy trên mặt bàn một lá bài và bắt đầu ngắm nghía nó.
– Bà không có rượu vodka ư? ‒ Tôi hỏi to.
Người đàn bà không trả lời, tiếp tục sắp xếp những lá bài trên mặt bàn. Người đàn ông mà tôi đưa về ngồi trên ghế tựa, đầu gục xuống ngực, hai bàn tay đỏ bừng buông thõng. Tôi đặt ông ta nằm xuống đi văng và bắt đầu cởi quần áo cho ông. Tôi chẳng hiểu gì cả. Cứ như đang sống trong giấc mơ. Bức tường trước mặt tôi, phía trên đi văng, kín mít toàn ảnh chụp, giữa những tấm ảnh lấp lánh một vòng hoa vàng quấn nơ trắng, cuối dải nơ có đề những chữ vàng:
KÍNH DÂNG GILDA VÔ SONG[32]
– Quỷ tha ma bắt anh đi, nhẹ tay chứ! ‒ Người đàn ông rên rỉ khi tôi bắt đầu xoa hai tay cho ông ta.
Người đàn bà ngồi im lặng xếp các quân bài một cách chăm chú. Gương mặt với chiếc mũi nhọn của bà trông như mặt chim; cặp mắt to không hề chớp rực sáng. Lúc này bà đang dùng hai bàn tay như tay thiếu nữ vò rối bù mớ tóc bạc của mình ‒ mớ tóc lộng lẫy hệt như một mớ tóc giả ‒ và hỏi khe khẽ nhưng nghe rất vang:
– Có gặp Misha không, Georgiys?
Georgiys đẩy tôi ra, ngồi dậy thật nhanh, hấp tấp nói:
– Nhưng hắn đã đi Kiev rồi.
– Phải, đi Klev. ‒ Người đàn bà nhắc lại, mắt vẫn không rời những lá bài.
Giọng bà ta nghe đều đều và lạnh lùng.
– Hắn sắp sửa trở về đấy…
– Thế à?
– Ờ, thật đấy! Sắp sửa…
– Thế à? ‒ Người đàn bà nhắc lại.
Georgiys, quần áo cởi còn dở dang, liền nhảy xuống sàn, và chỉ với hai bước nhảy đã quỳ dưới chân người đàn bà, miệng nói gì đó với bà ta bằng tiếng Pháp.
– Tôi yên tâm rồi. ‒ Người đàn bà trả lời bằng tiếng Nga.
– Em biết không, anh bị lạc! Bão tuyết, gió kinh khủng. Anh đã tưởng mình bị chết cóng. ‒ Georgiys hấp tấp kể, vừa nói vừa vuốt bàn tay đang đặt trên đầu gối của người đàn bà.
Ông ta trạc bốn mươi tuổi. Gương mặt đỏ với cặp môi dày và hàng ria đen của ông có vẻ như đang sợ hãi, hoảng hốt. Ông vuốt mạnh mớ tóc bạc trên cái đầu tròn xoe của mình, nói với giọng mỗi lúc một tỉnh táo hơn.
– Mai chúng ta đi Kiev. ‒ Người đàn bà nói, không ra hỏi, cũng không ra bảo.
– Ừ, mai đi! Vả lại em cũng cần phải nghỉ ngơi. Sao em không đi nằm đi, khuya lắm rồi…
– Misha hôm nay không tới à?
– Ồ, không đâu! Bão tuyết thế này… Thôi em đi nằm đi…
Ông ta cầm ngọn đèn trên bàn và dẫn người đàn bà vào một cái cửa nhỏ nằm phía sau tủ sách. Tôi ngồi một mình rất lâu, không nghĩ ngợi gì cả, chỉ lắng nghe giọng nói khe khẽ, khàn khàn của ông ta. Những bàn tay lông lá xù xì kéo lết trên mặt kính cửa sổ. Ngọn nến rụt rè phản chiếu ánh sáng trong vũng tuyết tan. Gian phòng chất đầy đồ đạc, một mùi ấm áp kì lạ bao trùm khắp phòng làm quên lãng mọi ý nghĩ.
Và đây, Georgiys xuất hiện, bước lảo đảo, hai tay cầm cây đèn. Chao đèn đập khe khẽ vào thông phong.
– Bà ấy đi ngủ rồi.
Ông ta đặt ngọn đèn lên bàn, dừng ờ giữa phòng với vẻ đăm chiêu, và không nhìn tôi, ông cất tiếng:
– Hừ, biết nói thế nào? Không có anh có lẽ tôi chết mất… Cảm ơn! Anh là ai?
Ông ta nghiêng đầu, chăm chú lắng nghe tiếng động ở phòng bên và rùng mình.
– Vợ ông đấy à? ‒ Tôi hỏi nhỏ.
– Vợ. Tất cả, toàn bộ cuộc đời của tôi đấy! ‒ Ông ta nói đứt quãng, không to lắm, hai mắt nhìn xuống sàn.
Rồi ông lại đưa hai bàn tay vuốt tóc thật mạnh.
– Uống trà nhé?
Ông lơ đãng đi về phía cửa ra vào, nhưng dừng lại vì ông sực nhớ ra rằng đứa hầu gái ăn cá bị bội thực đã được đưa đi nhà thương rồi.
Tôi đề nghị đặt ấm samovar, ông gật đầu đồng ý và ‒ có lẽ quên rằng quần áo trên người đang cởi dở dang ‒ cứ thế đi chân không trên mặt sàn ướt, dẫn tôi vào một căn bếp nhỏ. Đứng tựa lưng vào bếp lò, ông ta nhắc lại:
– Không có anh có lẽ tôi bị chết cóng rồi, cảm ơn!
Bỗng ông rùng mình, nhìn tôi chằm chặp bằng cặp mắt mở to, vẻ sợ hãi:
– Khi ấy thì vợ tôi sẽ thế nào? Trời ơi…
Nhìn qua khe cửa tối om, ông ta nói nhanh, giọng thầm thì:
– Anh thấy đấy, vợ tôi ốm. Đứa con trai của vợ tôi là một nhạc công ở Moskva đã tự tử, vậy mà vợ tôi vẫn chờ đợi nó, đã gần hai năm trời nay rồi…
Sau đó, lúc chúng tôi uống trà, bằng những lời khác thường, rời rạc, ông kể rằng người đàn bà kia là một địa chủ, còn ông là thầy giáo dạy Lịch sử. Ông gia sư cho con trai bà, rồi đem lòng yêu bà. Người đàn bà bỏ chồng ‒ một bá tước người Đức ‒ và đi hát trong đoàn ca kịch. Họ sống rất hạnh phúc, mặc dù người chồng trước vẫn tìm mọi cách để phá hoại cuộc đời bà.
Ông kể, cặp mắt nheo nheo, nhìn chằm chặp vào một cái gì đó trong bóng tối chập chờn của căn bếp bẩn thỉu với những tấm ván sàn mục nát cạnh bếp lò. Trà nóng quá, ông uống tí một, bị phỏng lưỡi, mặt ông nhăn lại, cặp mắt tròn xoe chớp chớp vẻ sợ hãi.
– Anh là ai? ‒ Ông ta hỏi lại một lần nữa. ‒ Ừ, thợ làm bánh mì, công nhân. Lạ thật! Không có vẻ gì giống cả. Thế nghĩa là thế nào?
Giọng ông có vẻ như băn khoăn. Ông nhìn tôi một cách hoài nghi bằng con mắt của một người bị săn đuổi.
Tôi kể sơ qua về tôi.
– Thế à? ‒ Ông khẽ thốt lên. ‒ À, ra thế…
Và bỗng tươi tỉnh hẳn, ông hỏi:
– Anh có biết câu chuyện cổ tích Chú vịt xấu xí không? Đã đọc chưa?
Mặt ông méo xệch đi. Ông bắt đầu nói với vẻ phẫn nộ, giọng nói khàn khàn của ông lên cao một cách không tự nhiên, gần như rít lên, làm tôi rất ngạc nhiên.
– Chuyện ấy hấp dẫn thật! Vào tuổi anh tôi cũng nghĩ: Không hiểu mình có phải là thiên nga không? Và rồi thì… Đáng lẽ phải vào học viện, thì lại vào đại học. Cha tôi, một linh mục, từ bỏ tôi. Ở Paris tôi nghiên cứu những trang sử đau thương của nhân loại, lịch sử tiến bộ của loài người. Tôi đã viết, phải. Ồ, sau tất cả những cái đó…
Ông bắt đầu câu chuyện, lắng tai nghe một chút và sau đó kể tiếp:
– “Tiến bộ” ‒ đó chẳng qua chỉ là chuyện loài người bịa ra đế tự an ủi mà thôi! Cuộc sống vô nghĩa lí, mất hết ý nghĩa. Không có chế độ nô lệ thì không có tiến bộ, không có đa số chinh phục thiểu số thì loài người sẽ dừng lại trên đường đua của mình. Muốn cải thiện cuộc sống, muốn giảm nhẹ lao động, nhưng kết quả là chúng ta làm cho cuộc sống thêm phức tạp, lao động thêm nặng nhọc. Dùng công xưởng và máy móc để chế tạo thêm máy móc, điều đó thật là ngu xuẩn! Công nhân mỗi ngày một đông, trong khi đó thì chỉ cần nông dân sản xuất ra lúa mì là đủ. Lúa mì ‒ đó là tất cả những gì cần giành lấy ở thiên nhiên bằng lao động. Nhu cầu của con người càng ít bao nhiêu thì người ta càng hạnh phúc bấy nhiêu, càng nhiều ước vọng bao nhiêu thì càng ít tự do bấy nhiêu.
Có thể những lời đó không hoàn toàn như vậy, nhưng quả thực ý nghĩ khiến người ta phải choáng váng ấy tôi mới được nghe lần đầu, nhất là lại rõ nét, trần trụi nhường ấy. Sau một hồi la thét vì xúc động, ánh mắt ông rụt rè dừng lại trên cánh cửa thông vào các phòng bên trong. Ông nghe ngóng động tĩnh một phút rồi thì thầm với một vẻ gần như giận dữ:
– Anh nên biết, điều mỗi người cần không nhiều lắm đâu: một mẩu bánh mì và một người đàn bà…
Sau khi nói về đàn bà bằng giọng thì thầm có vẻ bí mật, bằng những từ ngữ tôi chưa từng biết và những câu thơ tôi chưa từng đọc, ông ta bỗng giống như gã ăn cắp Bashkin.
– Beatrice, Fiammetta, Baura, Ninon[33]. ‒ Ông thì thầm nhắc đến những cái tên không quen thuộc đối với tôi và kể chuyện những ông vua, những thi sĩ si tình. Ông đọc thơ Pháp, vừa đọc vừa giơ cánh tay khẳng khiu để trần đến tận khuỷu đánh nhịp theo. ‒ Ái tình và đói rét đang thống trị thế giới.
Tôi nghe thấy giọng thì thầm sôi nổi và sực nhớ ra rằng câu này đã được in bên dưới nhan đề một cuốn sách nhỏ mang tính cách mạng: Ông vua đói. Điều đó khiến tôi càng cảm thấy lời nói của ông có ý nghĩa trọng đại.
– Người ta đi tìm sự lãng quên, sự an ủi, chứ đâu có đi tìm kiến thức!
Ý kiến đó khiến tôi hoàn toàn kinh ngạc.
Khi tôi rời khỏi căn bếp, trời đã sáng. Chiếc đồng hồ nhỏ treo trên tường chỉ sáu giờ hơn. Tôi lội qua những đống tuyết giữa sương mù u ám, nghe tiếng rít của bão tuyết và nhớ lại những lời la hét dữ tợn của con người bơ phờ kia. Tôi thấy những lời nói của ông đã ngưng lại đâu đó trong cổ họng mình, khiến tôi nghẹt thở. Tôi không muốn trở về xưởng và trông thấy những người đồng nghiệp kia nữa. Tuyết bám khắp người, tôi cứ tha thẩn trên những con đường trong xóm Tatar, mãi cho đến lúc trời sáng hẳn và giữa những đợt sóng tuyết đã bắt đầu thấp thoáng bóng người dân của thành phố.
Tôi không bao giờ gặp lại ông giáo ấy nữa, và tôi cũng không muốn gặp ông ta. Nhưng sau này, còn nhiều lần tôi nghe thấy người ta nói cuộc sống là vô nghĩa và lao động là vô ích. Đó là lời của những lữ khách thất học, những kẻ lang thang không nhà không cửa, những người theo “chủ nghĩa Tolstoy”[34] và những người có học vấn cao. Linh mục, giáo sư thần học, nhà hóa học nghiên cứu về chất nổ, nhà sinh vật học theo thuyết “hoạt lực mới”[35] và nhiều người khác nữa cũng nói như vậy. Nhưng những tư tưởng ấy không khiến tôi sửng sốt như lần đầu tiên nữa.
Mãi tới hai năm trước ‒ hơn ba mươi năm sau cuộc trò chuyện đầu tiên về vấn đề này ‒ tôi bỗng được nghe cũng những ý nghĩ đó bằng cũng những lời nói đó từ miệng một người quen cũ của tôi, một công nhân.
Một lần, tôi và anh ta có dịp “tâm tình”. Con người ấy ‒ “nhà chính trị giảo quyệt” như anh thường vừa tự xưng vừa nhếch mép cười một cách buồn bã ‒ đã nói với tôi bằng một lòng thành thật mạnh dạn mà có lẽ chỉ những người Nga mới có được:
– Aleksej Maksimich thân mến ạ, tớ chẳng cần gì hết, nào học viện, nào khoa học, nào máy bay… đều chẳng để làm gì cả, toàn là vô dụng! Chỉ cần một xó yên tĩnh và một mụ đàn bà để khi nào muốn thì hôn hít và được hôn lại một cách thành thật, bằng tâm hồn và thể xác, như vậy đó. Cậu lí luận theo kiểu người trí thức, cậu không còn là người của chúng tớ nữa mà đã bị mê hoặc rồi. Đối với cậu, tư tưởng cao quý hơn con người. Có phải cậu nghĩ như người Do Thái, rằng con người sinh ra là để cho ngày Sabbath[36] phải không?
– Người Do Thái họ không nghĩ như vậy…
– Có quỷ biết được chúng nghĩ như thế nào, cái bọn ngu dốt ấy. ‒ Anh ta trả lời, cầm mẩu thuốc lá ném xuống sông và đưa mắt dõi theo.
Chúng tôi ngồi bên bờ sông Neva, trên chiếc ghế bằng đá hoa cương trong một đêm thu trăng sáng. Cả hai chúng tôi đều khổ sở vì một ngày lo lắng vô ích, vì cái ước vọng bướng bỉnh nhưng vô ích: Muốn làm được một điều gì tốt, có ích.
– Cậu đi với chúng tớ, nhưng cậu không phải là người của chúng tớ, tớ muốn nói như vậy đấy! ‒ Anh ta khẽ nói tiếp, giọng đắn đo. ‒ Bọn trí thức thích phiền nhiễu, từ bao thế kỉ nay chúng gắn với những cuộc nổi loạn. Chúa Jesus là một kẻ mơ mộng đã nổi loạn vì những lí tưởng xa lạ nào thì bọn trí thức cũng nổi loạn vì những mộng tưởng viển vông như thế. Hễ cứ có một kẻ ôm mộng tưởng nổi loạn là lập tức có bọn vô dụng, đê tiện, vô lại đi theo ngay. Tất cả chỉ vì tức giận mà thôi, vì chúng thấy trong cuộc sống không có chỗ đứng cho chúng. Người công nhân khởi nghĩa vì cách mạng, họ cần đạt được sự phân phối công bằng các công cụ và sản phẩm lao động. Sau khi hoàn toàn giành được chính quyền, anh tưởng họ sẽ tán thành thành lập nhà nước đấy phỏng? Không đời nào! Tất cả sẽ đi mỗi người mỗi ngả, và mỗi người sẽ chỉ lo tìm cho mình một xó yên tĩnh…
Anh nói đến kĩ thuật ư? Nó chỉ tổ siết chặt thêm cái thòng lọng trên cổ chúng tôi, trói buộc chúng tôi chặt hơn mà thôi. Không, cần phải được giải phóng khỏi lao động vô ích. Con người muốn yên ổn. Nhà máy và khoa học không đem lại sự yên ổn. Mỗi người cần không nhiều lắm. Việc gì tôi phải xây dựng thành phố khi mà tôi chỉ cần một ngôi nhà nhỏ! Nơi nào người ta sống chồng chất lên nhau, nơi đó có nào ống dẫn nước, nào cống rãnh, nào đèn điện. Hãy cứ thử sống không có những thứ đó xem, thật dễ chịu biết bao! Không, chúng ta thừa nhiều thứ lắm. Và tất cả những thứ đó đều là do bọn trí thức tạo nên. Chính vì thế mà tôi nói bọn trí thức là loại người có hại.
Tôi lại nhấn mạnh rằng không dân tộc nào biết phủ nhận ý nghĩa cuộc sống một cách sâu sắc và kiên quyết như những người Nga.
– Một dân tộc có tâm hồn phóng khoáng nhất. ‒ Anh bạn tôi mỉm cười. ‒ Nhưng anh đừng giận. Tôi nói đúng đấy. Hàng triệu người của chúng ta đang nghĩ như vậy, nhưng họ không biết nói ra thôi… cần tổ chức cuộc sống một cách giản đơn hơn, như vậy cuộc sống sẽ nhân từ với con người ta hơn…
Tôi biết rõ lịch sử diễn biến tư tưởng của con người đó; anh ta chưa bao giờ là một người theo “chủ nghĩa Tolstoy”, cũng chưa từng tỏ ra có xu hướng theo chủ nghĩa vô chính phủ.
Sau cuộc nói chuyện với anh ta, bất giác tôi nghĩ: Sẽ thế nào đây nếu như quả thật hàng triệu người Nga chịu đựng những khổ sở nặng nề của cách mạng chỉ vì họ ấp ủ sâu trong lòng niềm hi vọng được giải phóng khỏi lao động? Lao động ít nhất mà hưởng thụ nhiều nhất ‒ điều đó, giống như tất cả những gì không thể thực hiện được, giống như bất kì điều không tưởng nào, có sức quyến rũ và hấp dẫn vô cùng mãnh liệt.
Tôi nhớ lại một bài thơ của Henrik Ibsen:
Tôi là người theo chủ nghĩa bảo thủ?
Ồ, không!
Suốt đời tôi thế nào, tôi vẫn là thế đó;
Tôi không muốn di chuyển những quân cờ,
Tôi muốn xáo trộn cả bàn cờ.
Tôi chỉ nhớ có một cuộc cách mạng,
Cuộc cách mạng ấy ưu việt hơn những cuộc sau này,
Nó có thể phá tan tất thảy,
Đương nhiên, tôi muốn nói đến Đại Hồng Thủy,
Nhưng, ngay khi đó, ma quỷ cũng bị lừa,
Anh biết đấy, Noah đã trở thành kẻ độc tài.
Ồ, nếu như có thể, với chiến binh và những nhà hùng biện,
Tôi sẽ không từ chối giúp anh,
Hãy dẫn Đại Hồng Thủy đến nhanh,
Tôi sẽ vui lòng phóng thủy lôi!
Cửa hiệu của Derenkov đem lại khoản thu nhập không đáng kể, nhưng số người và số “việc” cần đến sự giúp đỡ vật chất thì cứ mỗi ngày một tăng.
“Cần phải nghĩ ra cách gì mới được.” Chắc Andrej sẽ nói vậy, tay mân mê bộ râu vẻ lo lắng, cũng có thể anh sẽ nở nụ cười cười hối lỗi hoặc khẽ thở dài.
Tôi có cảm tưởng rằng con người đó tự coi mình như một kẻ bị kết án khổ sai vô thời hạn, buộc phải giúp đỡ mọi người, và tuy đã thuận theo hình phạt ấy, đôi lúc nó vẫn làm cho anh ta đau khổ.
Nhiều lần, bằng những lời lẽ khác nhau, tôi hỏi:
‘Tại sao anh lại đi làm cái việc ấy?
Hình như anh không hiểu câu hỏi của tôi, nên thường trả lời chệch sang câu hỏi “Để làm gì?” Anh nói một cách sách vở và khó hiểu về cuộc sống nặng nề của nhân dân, về sự cần thiết của giáo dục, của kiến thức.
– Thế người ta có thích kiến thức và có tìm đến kiến thức không?
– Ồ, hẳn là có. Tất nhiên! Ngay cả anh cũng thích, phải không?
– Đúng, tôi thích. Nhưng tôi còn nhớ những lời của ông giáo dạy Sử: “Người ta đi tìm sự lãng quên, sự an ủi, chứ đâu có phải đi tìm kiến thức.”
Đối với những thanh niên tuổi mười bảy, tiếp xúc với những tư tưởng sâu sắc như vậy chỉ có hại. Các ý tưởng họ cùn dần qua những cuộc tiếp xúc ấy, và bản thân họ thì cũng chẳng thu nhận thêm được gì.
Tôi bắt đầu nghĩ rằng lúc nào tôi cũng chỉ thấy có mỗi một cảnh tượng: Người ta thích những câu chuyện hay chỉ vì những câu chuyện đó cho phép người ta quên đi cái cuộc sống nặng nề nhưng quen thuộc trong khoảng một tiếng đồng hồ. Chuyện càng “khoác” nhiều bao nhiêu thì người ta càng say mê lắng nghe nó bấy nhiêu. Cuốn sách hay nhất là cuốn sách mà trong đó có nhiều chuyện được bịa khéo léo. Nói tóm lại, tôi như kẻ đang mò mẫm trong một đám sương mù dày đặc.
Derenkov quyết định mở cửa hiệu bánh mì. Tôi còn nhớ, khi ấy người ta tính toán một cách vô cùng chính xác là cứ với mỗi rúp bỏ ra thì cửa hiệu phải được lãi ít nhất là ba mươi lăm kopek. Tôi làm phụ tá cho người thợ chính, và với tư cách là “người của mình”, tôi phải theo dõi không cho người đó ăn cắp bột, trứng, bơ hay bánh mì thành phẩm.
Và thế là tôi được chuyển từ căn hầm lớn bẩn thỉu sang một căn hầm nhỏ, sạch sẽ hơn ‒ giữ gìn căn hầm sạch sẽ là trách nhiệm của tôi. Thay cho một nhóm bốn mươi người, trước mặt tôi chỉ có một người.
Người ấy có tóc mai bạc, chòm râu ngắn, nhọn, mặt gầy, da sạm màu bồ hóng, hai mắt đen vẻ đăm chiêu và một cái miệng kì lạ, nhỏ xíu hệt như mồm cá vược, cặp môi mọng, chum chúm tựa đang hôn ai. Trong đôi mắt sâu thăm thẳm ánh lên một vẻ giễu cợt.
Dĩ nhiên là bác ta ăn cắp. Ngay đêm làm việc đầu tiên bác đã đem giấu một chục trứng, gần một cân rưỡi bột funt và một miếng bơ to.
– Những thứ ấy đem đi đâu thế?
– Đem cho một cô nàng. ‒ Bác ta nói một cách thân mật, sống mũi nhăn lại. ‒ Cô em xi…inh ra phết!
Tôi cố thuyết phục để bác ta thấy rằng ăn cắp là tội lỗi. Nhưng, hoặc vì tôi không đủ tài hùng biện, hoặc vì chính tôi cũng không tin chắc lắm vào những điều tôi định chứng minh, thành thử lời nói của tôi chẳng có hiệu lực gì.
Nằm trên hòm bột ngắm những ngôi sao qua cửa sổ, bác thợ làm bánh lẩm bẩm với vẻ ngạc nhiên:
– Nó dạy mìnhl Mới gặp lần đầu mà đã định dạy nhau. Mà tuổi mình lại chẳng gấp ba tuổi nó ấy à. Thật là buồn cười…
Bác ta ngắm nghía các vì sao và hỏi:
– Hình như tôi đã gặp chú ở đâu rồi thì phải. Trước chú làm việc cho ai? Cho Semyonov à? Chỗ bọn làm loạn ấy à? Ồ, thế ra tôi thấy chú trong giấc mơ…
Mấy hôm sau tôi nhận ra con người đó có thể ngủ bao nhiêu cũng được và ở bất kì chỗ nào, thậm chí đứng tựa vào cái xẻng bỏ bánh vào lò cũng ngủ được. Khi ngủ, bác ta rướn cặp lông mày lên và nét mặt bác thay đổi một cách kì lạ, vẻ kinh ngạc và mỉa mai. Đề tài bác ta ưa thích là chuyện về các kho của và những giấc mơ. Bác ta nói một cách tin tưởng:
– Tôi nhìn thấu suốt được trái đất. Nó cũng như chiếc bánh nướng vậy, trong ruột đầy những kho của: Hòm và lọ đựng tiền chôn khắp nơi. Nhiều lần tôi nằm mơ thấy một nơi quen thuộc, như nhà tắm chẳng hạn, ở góc, phía dưới có chôn một hòm đựng toàn bát đĩa bằng bạc. Tôi thức d