PHẦN V
Đêm thu bơi thuyền trên sông Volga thú vị không thể tả được. Tôi ngồi ở phía đuôi sà lan, ngay cạnh gã điều khiển lái nom như con quái vật to đầu,mình đầy lông lá. Gã vừa lái vừa giậm chân thình thịch xuống sàn và thở thườn thượt:
– O..o..oop!… O..rrooop!…
Phía đuôi sà lan, làn nước mênh mông đặc quánh như nhựa, khẽ vỗ oàm oạp và chảy như một dải lụa. Trên mặt sông cuồn cuộn những đám mây thu đen kịt. Xung quanh chỉ thấy bóng tối từ từ chuyển động, xóa sạch đôi bờ. Mặt đất như tan vào bóng tối, biến thành một chất nước và khói. Cả cái khối ấy chảy mãi không ngừng tới nơi nào đó phía dưới, tới một khoảng hoang vu, nơi không có ánh mặt trời, không có trăng sao.
Ở phía trước, trong bóng tối ẩm ướt, một chiếc tàu kéo nom không rõ hình dạng. Chiếc tàu chuyển động nặng nề, thở phì phì như phải chống lại một lực kéo mạnh mẽ. Ba ánh lửa ‒ hai ánh trên mặt nước và một ánh ờ tít trên cao ‒ đi kèm chiếc tàu. Gần phía tôi có bốn ánh lửa nữa bơi dưới những đám mây đen, giống như những con cá vàng. Trong số này, một ánh lửa là chiếc đèn treo trên cột buồm cái sà lan của chúng tôi.
Tôi thấy mình như bị giam trong một cái bong bóng lạnh lẽo và đầy dầu mỡ. Cái bong bóng đó đang khẽ trượt trên mặt phẳng nghiêng, và tôi bị dính chặt vào đó như một con ruồi con. Tôi cảm thấy sự chuyển động dần dần ngừng lại và sắp đến lúc dừng hẳn. Chiếc tàu thủy sẽ thôi rú và bánh lái sẽ ngừng đập trên mặt nước đặc quánh. Tất cả các tiếng động sẽ bay đi hết như lá rụng khỏi cây, sẽ bị xóa sạch như những dòng chữ phấn. Và lúc ấy, sự bất động, im lặng sẽ hoàn toàn vây chặt lấy tôi.
Lúc ấy, cái người to lớn, mặc chiếc áo tulup rách rưới, đội chiếc mũ lông cừu xù xù đang bước đi ở bên cánh tay lái kia cũng sẽ dừng lại, đứng im tựa như trúng bùa mê vĩnh viễn và sẽ không còn gầm lên những tiếng quái dị:
– Orr..oop! Oo..oorr!
Tôi hỏi gã:
– Anh tên là gì?
– Mày cần biết để làm gì? ‒ Gã đáp, giọng khàn khàn.
Lúc hoàng hôn, khi sà lan rời khỏi Kazan, tôi nhận thấy con người với điệu bộ vụng về như con gấu này có bộ mặt đầy lông lá và chột một mắt. Gã đứng tựa vào tay lái, dốc một chai rượu vodka vào chiếc gáo gỗ rồi uống hai hơi cạn hết chỗ rượu như ta uống nước vậy, sau đó gã cắn một quả táo. Khi chiếc tàu kéo giật mạnh chiếc sà lan, gã vội nắm chặt lấy tay lái, nhìn lên vầng mặt trời đỏ rực, lắc đầu và nghiêm nghị nói:
– Lạy Chúa phù hộ cho!
Chiếc tàu thủy đi từ hội chợ Nizhny tới Astrakhan, kéo theo bốn chiếc sà lan chở đầy sắt tấm, những thùng đường và những cái hòm rất nặng, tất cả đều là hàng cung cấp cho Ba Tư. Barinov lấy chân đá đá vào những cái hòm, hít hít rồi suy nghĩ và nói:
– Chắc chắn là súng ống của nhà máy Izhevsk…
Gã lái sà lan liền thụi cho anh một quả vào bụng và hỏi:
– Việc gì đến mày nào?
– Tôi nghĩ bụng thế thôi…
– Hừ, mày có muốn ăn một quả đấm vào mặt không?
Chúng tôi không có tiền để mua vé đi tàu khách.
Nhờ “lòng nhân đức”, chúng tôi được đi nhờ trên một chiếc sà lan. Tuy chúng tôi cũng phải “luân phiên gác” như các thủy thủ nhưng những người trên sà lan vẫn xem chúng tôi chẳng khác gì một lũ ăn mày.
– Thế mà anh nói đây là “nhân dân”. ‒ Barinov trách tôi. ‒ Ở đây tôi chỉ thấy: Ai trèo cao thì được ngồi lên đầu kẻ khác, ai trèo thấp thì bị kẻ khác cưỡi đầu…
Bóng tối dày đặc đến nỗi không trông thấy rõ cái sà lan, chỉ lờ mờ những cột buồm nhọn hoắt được ánh đèn chiếu sáng trên nền những đám khói đen sặc mùi dầu lửa.
Thái độ im lặng và cau có của gã lái sà lan làm tôi tức giận. Tôi bị đội trưởng đội thủy thủ phái tới “gác” ở chỗ tay lái để giúp “con thú dữ” này. Đến các chỗ rẽ, gã theo dõi sự chuyển động của những ánh lửa và khẽ bảo tôi:
– Này, nắm lấy!
Tôi vội chạy lại và quay chiếc tay lái.
– Được rồi. ‒ Gã càu nhàu.
Tôi lại ngồi xuống sàn. Khó lòng mà nói chuyện được với con người này, gã trả lời tôi bằng những câu hỏi: “Việc gì đến mày?”
Gã đang nghĩ gì? Khi chúng tôi đi qua chỗ dòng nước màu vàng của sông Kama đổ vào dải nước màu thép của sông Volga, gã nhìn về phía bắc và càu nhàu:
– Đồ vô lại!
– Ai cơ?
Gã không trả lời.
Đâu đây xa xa, trong bóng tối thăm thẳm, có tiếng chó sủa rống lên. Âm thanh ấy làm tôi nhớ đến những tàn dư nào đó của cuộc sống còn chưa bị bóng tối đè bẹp. Nó hình như ở xa lắm, không thể đi tới được và cũng không cần thiết.
– Lũ chó vô dụng. Chỗ nào cũng thấy chúng.‒ Gã cầm lái bỗng nhiên nói.
– Ở đâu, ở đây à?
– Khắp nơi. Ở chỗ tao chó thật y như thú dữ…
– Anh người ở đâu?
– Vologda.
Rồi những lời nặng nề, thô lỗ nối đuôi nhau tuôn ra như những củ khoai lọt khỏi cái bao rách:
– Cái thằng đi cùng với mày là ai đấy, chú bác à? Theo tao nó là một thằng ngốc. Tao có một ông chú rất thông minh. Ông ấy ngang tàng lắm… Lại giàu có. Chủ bến tàu ở Simbirsk. Mở quán ăn ở bờ sông.
Gã nói ra tất cả những lời đó chậm rãi và hình như khó nhọc lắm. Sau đó gã hướng cặp mắt mờ đục về phía ngọn đèn treo trên cột buồm và ngắm nghía xem ngọn đèn giống như con nhện vàng ấy bò trong màn đêm như thế nào.
– Nắm lấy, kìa… Mày biết đọc biết viết phải không? Mày có biết ai viết ra pháp luật không?
Không đợi tôi trả lời, gã tiếp tục:
– Người ta nói linh tinh lắm: Có người bảo là Nga hoàng, có người nói là tổng giám mục, có người nói là Viện Nguyên lão (Cơ quan tư pháp và hành chính cao nhất cùa nước Nga cũ). Tao mà biết chắc là ai viết, tao sẽ đi đến chỗ hắn ta và bảo: Ngài hãy viết pháp luật làm sao để tôi không những không thể đánh người, mà còn không thể giơ nổi tay lên đánh nữa! Pháp luật phải như sắt mới được. Như chiếc chìa khóa ấy. Cứ khóa trái tim tôi lại, và thế là hết! Lúc đó tôi sẽ xin đảm bảo! Còn bây giờ thì tôi không thể đảm bảo được. Không thể!
Gã lẩm bẩm một mình, giọng mỗi lúc một khẽ và rời rạc hơn, trong lúc đó tay gã khẽ đấm xuống cán gỗ của tay lái.
Có người từ trên tàu thủy gọi loa xuống, và cái giọng khàn khàn của gã lái đâm ra thừa, giống như tiếng chó sủa đã bị đêm tối dày đặc hút mất. Hai bên thành tàu, những ánh lửa như bị nhấn chìm bởi dòng nước đen ngòm, chiếu sáng cảnh vật một cách yếu ớt. Những đám mây đen kịt sũng nước trôi trên đầu chúng tôi. Chúng tôi càng ngày càng trượt sâu vào trong lòng bóng tối câm lặng.
Gã lái sà lan cau có phàn nàn:
– Họ đẩy tôi tới đâu? Lòng tôi đau thắt lại.
Sự bàng quan đã xâm chiếm tôi, sự bàng quan cộng với nỗi buồn lạnh lẽo. Tôi buồn ngủ quá.
Ánh bình minh yếu ớt và ảm đạm vắng bóng mặt trời khẽ rón rén lách qua những đám mây đen một cách khó nhọc, nhuộm nước sông thành màu chì và để lộ ra những bụi cây màu vàng trên bờ, những cây thông phủ một lớp gì như sắt gỉ với những cành đen sẫm, một dãy nhà gỗ của thôn quê và bóng một bần nông trông hệt như tạc bằng đá. Một con chim hải âu bay phía trên sà lan, đôi cánh cong của nó vỗ phành phạch.
Tôi và gã lái sà lan được đổi kíp. Tôi chui xuống dưới miếng vải bạt và ngủ thiếp đi; nhưng chẳng bao lâu ‒ tôi cảm thấy như vậy ‒ tiếng giậm chân và tiếng kêu la đánh thức tôi. Tôi thò đầu ra ngoài miếng vải bạt và nom thấy ba thủy thủ đang ghì chặt gã lái sà lan vào vách “buồng lái”, la thét í ới:
– Petrukha, không nên thế!
– Chúa phù hộ cho cậu, không sao đâu mà!
– Thôi đi cậu ơi!
Gã lái sà lan bắt chéo cánh tay, ngón tay nắm chặt lấy vai. Gã đứng bình thản, chân dận một gói tay nải xuống sàn, rồi lần lượt nhìn tất cả mọi người và năn nỉ bằng giọng khàn khàn:
– Hãy để cho tôi thoát khỏi tội lỗi!
Gã đi chân đất, đầu không đội mũ, mặc áo cánh và quần dài. Mớ tóc đen rối bù dựng đứng trên đầu gã và buông thõng xuống cái trán dô bướng bỉnh. Dưới trán, cặp mắt chuột chù ti hí đỏ ngầu mang vẻ cầu khẩn và lo lắng.
– Khéo cậu chết đuối mất! ‒ Có người bảo gã.
– Tôi ấy à? Không đời nào. Các cậu cứ buông ra! Nếu không buông ra, tôi sẽ giết lão ta! Khi nào chúng ta tới Simbirsk là tôi…
– Thôi đi nào!
– Ối, các cậu ơi…
Gã từ từ dang rộng hai cánh tay ra và quỳ xuống. Hai tay áp vào “buồng lái” như người bị đóng đinh trên thánh giá, gã nhắc lại:
– Hãy để cho tôi thoát khỏi tội lỗi!
Trong giọng nói ồ ồ của gã như có điều gì rất xúc động. Hai cánh tay vươn dài như hai mái chèo, bàn tay run run, lòng bàn tay hướng về phía mọi người. Bộ mặt gấu với bộ râu xồm xoàm của gã cũng run run, cặp mắt chuột chù mù dở nom giống hai hòn bi đen sì nhô ra từ hai hốc mắt. Hình như có một bàn tay vô hình đã nắm chặt lấy cổ họng gã và đang cố bóp cho tắc thở.
Những bần nông lặng lẽ tránh ra để nhường lối cho gã, gã đứng dậy vụng về, nhấc tay nải lên và nói:
– Thế chứ, xin cảm ơn tất cả!
Gã bước tới gần thành sà lan rồi đột nhiên nhảy xuống sông một cách rất nhẹ nhàng. Tôi cũng lao ra phía thành sà lan và trông thấy Petrukha đang lúc lắc đầu, trên đầu đội tay nải trông như đội mũ vậy. Gã bơi xiên dòng sông tới phía bờ cát, ở đấy các bụi cây bị gió đánh nghiêng ngả, tung những chiếc lá vàng xuống nước như đón chào gã.
Đám bần nông nói:
– Dù sao thì như vậy là hắn cũng đã tự kiềm chế được!
Tôi hỏi:
– Hắn điên à?
– Sao lại điên? Không phải, đó là hắn muốn tự cứu vớt linh hồn…
Petrukha đã bơi đến một chỗ nông. Gã đứng đấy, nước tới ngực, và vẫy gói tay nải trên đầu.
Anh em thủy thủ gào to:
– Từ biệt!
Có người hỏi:
– Hắn không có giấy thông hành thì làm thế nào?
Một thủy thủ tóc hung, chân khoằm, tồ vẻ thích thú kể cho tôi:
– Hắn có một ông chú ở Simbirsk, ông ta đối xử với hắn rất tàn ác và đã làm hắn phá sản. Do đó hắn có ý định giết ông chú. Nhưng chính hắn lại tiếc thân,nên đã tránh đi để khỏi phạm tội. Bần nông ấy giống như một con thú dữ, nhưng lại rất lương thiện! Hắn là một người tốt…
Lúc này bần nông tốt ấy đang bước trên dải cát hẹp, ngược dòng sông và sau đó biến mất trong một bụi rậm.
Anh em thủy thủ là những người tốt, tất cả đều là đồng hương của tôi, những người Volga chính cống. Đến tối, tôi đã cảm thấy mình như một người thân thuộc của họ. Nhưng đến hôm sau, tôi nhận thấy họ nhìn tôi với vẻ khó chịu và hoài nghi. Tôi đoán ngay rằng quỷ sứ đã kéo lưỡi Barinov ra và con người hay mơ tưởng hão huyền này đã kể chuyện gì đó với anh em thủy thủ đây.
– Anh đã kể chuyện tôi rồi phải không?
Anh gãi gãi đầu với vẻ bối rối và thú nhận, cặp mắt đàn bà như khẽ mỉm cười:
– Tôi có kể một ít!
– Ra thế! Tôi đã bảo anh đừng nói gì cơ mà?
– Tôi đã cố im lặng, nhưng vì câu chuyện hay quá. Lúc ấy chúng tôi đã định đánh bạc, nhưng người bẻ lái giật mất quân bài. Buồn quá đi mất! Thế là tôi…
Sau những lời căn vặn, tôi mới vỡ lẽ rằng Barinov vì buồn chán nên đã thêu dệt ra một câu chuyện rất ngộ nghĩnh; cuối câu chuyện, Khokhol và tôi, giống như những người Viking thời xưa, đã dùng rìu bổ vào đám bần nông.
Đối với Barinov thì tức giận cũng vô ích, vì anh ta chỉ nhìn thấy chân lí ở bên ngoài thực tế. Một hôm, tôi cùng với anh đi tìm việc làm, trong lúc ngồi nghỉ ở bờ khe trông ra cánh đồng, anh khuyên bảo tôi với giọng tin tưởng và dịu dàng:
– Nên lựa chọn chân lí theo sở thích! Kia kìa, ở bên kia khe có một đám dê đang ăn cỏ, một con chó đang chạy, một người chăn súc vật đang đi đi lại lại. Nhưng những cái ấy có liên quan gì đến ta không? Những cái đó mang lại cho tôi và anh lợi ích gì? Anh bạn thân mến ơi, anh thử nhìn mà xem: Người ác sờ sờ ra đấy, còn người thiện thì ở đâu? Người thiện còn chưa được người ta tưởng tượng ra đấy thôi!
Tới Simbirsk, anh em thủy thủ đề nghị chúng tôi rời khỏi sà lan lên bờ với thái độ rất bất nhã.
– Các anh là hạng người không hợp với chúng tôi. ‒ Họ nói.
Họ lấy thuyền chở chúng tôi vào bến Simbirsk, và chúng tôi cứ ngồi trên bờ hong cho khô quần áo, trong túi chỉ có cả thảy ba mươi bảy kopek.
Chúng tôi vào quán uống trà.
– Chúng ta sẽ làm thế nào bây giờ?
Barinov nói với vẻ quả quyết:
– Còn làm thế nào nữa? Nên đi tiếp.
Chúng tôi đi lậu vé tới Samara trên một chiếc tàu chở khách. Đến Samara, chúng tôi làm thuê trên một chiếc sà lan; bảy ngày sau thì tới bờ biển Caspian một cách thuận lợi. Ở đấy chúng tôi tìm được việc làm trong một làng chài nhỏ trên bãi đánh cá bẩn thỉu Kabankul ‒ Bai của dân Kalmyk.
HẾT