← Quay lại trang sách

PHẦN IV

Một hôm, vào buổi sáng ngày lễ, lúc bà làm bếp vừa nhóm xong lò và đi ra sân, còn tôi đang ở cửa hiệu, bỗng trong bếp phát ra một tiếng “ùng” rất mạnh. Cửa hiệu rung chuyển, những hộp bánh kẹo bằng sắt tây rơi từ trên giá gỗ xuống, kính vỡ loảng xoảng, trên sàn nhà có tiếng rơi lộp bộp. Tôi nhảy xổ vào bếp, những luồng khói đen từ cửa bếp ùa vào phòng, và sau đó có tiếng nổ lép bép cùng tiếng kêu răng rắc.

Khokhol nắm lấy vai tôi:

– Đứng lại…

Ngoài cửa có tiếng kêu khóc của bà làm bếp.

– Ôi, mụ ngốc…

Romass chui vào đám khói, kêu to, văng ra một câu chửi rất tục và hét:

– Im đi! Mang nước lại đây!

Trên sàn bếp, những thanh củi bốc khói, vỏ bào bốc cháy, gạch nằm ngổn ngang, miệng lò đen ngòm trống rỗng như mới được quét sạch. Tôi sờ thấy thùng nước trong đám khói mờ mịt, hắt nước vào lửa trên sàn rồi lại quẳng những thanh củi vào bếp lò.

– Cẩn thận! ‒ Khokhol vừa nói vừa dắt tay bà làm bếp, đẩy bà ta vào phòng và ra lệnh:

– Khóa cửa hiệu lại! Phải cẩn thận đấy, Maksimich! Có thể còn nổ nữa… ‒ Nói rồi anh ngồi xổm, xem xét những thanh củi mà tôi vừa mới quẳng vào lò.

– Anh làm gì thế?

– Chà! Trông đây này!

Anh giơ cho tôi xem một thanh củi tròn nứt toác, tôi nhìn thấy bên trong có một lỗ khoan ám khói trông rất kì lạ.

– Anh rõ chưa? Bọn quỷ sứ đã nhồi thuốc nổ vào củi. Đồ ngốc! Một funt thuốc nổ thì làm được cái quái gì kia chứ?

Anh đặt thanh củi sang một bên, vừa rửa tay vừa nói:

– May mà Aksinya đã đi ra ngoài sân, không thì giập xương mất…

Luồng khói đầy khí than đă tan, tôi thấy bát đĩa trong ngăn tủ bị vỡ, toàn bộ các ô cửa kính bị sức ép của vụ nổ bắn văng khỏi khung cửa sổ, gạch ở cửa lò cũng long ra.

Tôi không bằng lòng với sự bình tĩnh của Khokhol trong giờ phút này. Hình như cái việc ngu xuẩn ấy không làm anh tức giận chút nào. Ngoài đường, bọn trẻ con chạy loăng quăng và kêu inh ỏi:

– Nhà Khokhol cháy! Cháy!

Một mụ nào đó khóc lóc than thở. Aksinya ở trong phòng kêu lên lo lắng:

– Mikhailo Antonich, người ta đang phá cửa hiệu xông vào!

– Này, này, khẽ chứ! ‒ Anh vừa nói vừa lấy khăn mặt lau bộ râu cằm ướt sũng.

Những bộ mặt lông lá, nhăn nhó vì sợ hãi và tức giận ngó qua các ô cửa sổ để ngỏ, mắt nheo lại vì khói cay. Một người rú lên, vẻ kích động:

– Tống cổ bọn chúng nó ra khỏi làng! Nhà chúng nó hay có chuyện om sòm lắm! Cái gì thế?

Một gã bần nông bé nhỏ tóc hung vừa làm dấu thánh giá vừa mấp máy môi và định chui qua cửa sổ, nhưng không chui lọt. Tay phải gã cầm chiếc rìu, còn tay trái thì run run nắm bệ cửa sổ, nhưng bị tuột tay.

Romass cầm thanh củi trong tay, hỏi gã:

– Mày định leo đi đâu?

– Vào chữa cháy, anh bạn ạ…

– Có cháy chiếc gì đâu nào…

Gã bần nông sợ hãi há hốc mồm, lỉnh mất. Romass bước ra bậc tam cấp của cửa hiệu, giơ thanh củi lên và nói với đám người đứng đó:

– Trong các anh có người đã nhồi thuốc nổ vào thanh củi tròn này rồi nhét vào đống củi của chúng tôi. Nhưng thuốc nổ ít quá nên chẳng ăn thua gì cả…

Tôi đứng sau Khokhol, nhìn đám đông và nghe gã bần nông cầm rìu kể với vẻ sợ hãi:

– Nó dám vung thanh củi lên dọa tôi…

Gã lính Kostin say khướt hét toáng:

– Tống cổ nó đi, đồ yêu quái! Lôi nó ra tòa…

Nhưng số đông đều im lặng, chăm chú nhìn Romass và hoài nghi nghe anh nói tiếp:

– Muốn làm nổ tung một căn nhà gỗ cần phải có nhiều thuốc nổ. Thôi, các người giải tán đi thôi…

Có người hỏi:

– Trưởng thôn đâu?

– Cần phải đi tìm cảnh sát thôn.

Mọi người giải tán chậm chạp, miễn cưỡng như tiếc rẻ một cái gì đó.

Chúng tôi ngồi vào bàn uống trà. Aksinya rót nước cho mọi người, lúc này trông bà dịu dàng và phúc hậu hơn bao giờ hết. Bà liếc nhìn Romass với vẻ thông cảm:

– Anh không kiện cho chúng một mẻ, thành thử chúng cứ tác oai tác quái mãi.

– Họ làm thế mà anh không tức giận à? ‒ Tôi hỏi.

– Không có đủ thì giờ để tức giận từng hành động ngu xuẩn như vậy được.

Tôi nghĩ bụng: “Giá tất cả mọi người đều bình tĩnh giải quyết công việc của mình như vậy nhỉ!”

Nhưng anh đã chuyển sang nói chuyện sắp đi Kazan và hỏi tôi xem cần mang những sách gì về.

Đôi khi tôi cảm thấy trong tâm hồn anh có một thứ máy móc đang chạy như máy của một chiếc đồng hồ, nó đã được lên dây cót từ khi anh sinh ra và cứ thế chạy suốt đời. Tôi yêu mến Khokhol và rất kính trọng anh, nhưng tôi muốn anh bực tức với tôi hoặc với một người nào đó, muốn anh quát tháo và giậm chân, dù chỉ một lần thôi. Song hình như anh không muốn hoặc không thể bực tức. Khi người ta châm chọc anh bằng những hành động ngu xuẩn hoặc đê tiện, anh thường chỉ nheo cặp mắt xám với vẻ giễu cợt, nói một câu gì đó, thường là rất đơn giản và tàn nhẫn, bằng lời lẽ ngắn gọn và lạnh lùng.

Chằng hạn như có lần anh hỏi Suslov:

– Lão già kia, lão sống đạo đức giả như thế để làm gì, hả?

Cặp má vàng bủng và cái trán của ông lão từ từ chuyển thành màu đỏ tía. Hình như chân những sợi râu bạc phơ của ông lão cũng biến thành màu đỏ.

– Việc đó nào có lợi gì cho lão đâu, mà lão còn mất uy tín là đằng khác.

Suslov cúi đầu đồng ý:

– Đúng, không có lợi thật!

Sau đó Suslov nói với Izot:

– Anh ta mới thật là người biết dẫn đường chỉ lối! Chúng ta cần phải lựa chọn những người như vậy làm quan mới được…

… Romass dặn dò vắn tắt và rõ ràng những điều tôi cần phải làm khi anh đi vắng. Tôi có cảm tưởng anh đã quên việc người ta định dùng vụ nổ để dọa nạt anh như là người ta quên việc bị ruồi muỗi đốt vậy.

Pankov bước tới, anh nhìn quanh bếp lò và cau mày hỏi:

– Các anh không sợ à?

– Ồ, có gì đáng sợ đâu?

– Chiến tranh đấy!

– Ngồi xuống đây uống trà đã.

– Nhà tôi đang đợi.

– Anh ở đâu về thế?

– Đi đánh cá. Đi với Izot.

Anh trở ra. Khi đi qua bếp, anh nhắc lại với vẻ đăm chiêu:

– Chiến tranh đấy.

Anh thường nói với Khokhol bằng những lời vắn tắt y như họ đã nói hết với nhau từ lâu tất cả mọi điều quan trọng và phức tạp. Tôi nhớ có lần sau khi nghe Romass kể câu chuyện về triều đại Ivan Grozny, Izot nói:

– Một ông vua chán chết!

– Một tên đồ tể. ‒ Kukushkin bổ sung.

Còn Pankov thì nói với vẻ quả quyết:

– Hắn chẳng lấy gì làm sáng suốt. Hắn đã sát hại các vương công và thay thế vào đó những tên tiểu quý tộc. Hắn còn rước về bọn ngoại quốc nữa. Như thế đúng là thiếu sáng suốt. Tiểu địa chủ tồi hơn đại địa chủ. Con ruồi không phải như chó sói; dùng súng không bắn chết nó được, nhưng nó quấy rầy còn khổ hơn là chó sói.

Kukushkin đến, tay xách thùng đất sét nhào với nước. Anh vừa lấy gạch xây lại bếp lò vừa nói:

– Lũ quỷ ấy cứ tưởng bở! Ngay đến con rận trên mình cũng không thể giết được còn định đi giết người khác! Antonich, anh đừng chở nhiều hàng về cùng một lúc, tốt hơn cả là chở về in ít thôi, nhưng thường xuyên hơn, không có thì coi chừng đấy, người ta sẽ thiêu cả anh cho mà xem! Hiện nay anh đang tổ chức cái đó, anh hãy liệu mà đón lấy tai họa!

“Cái đó” ở đây ám chỉ nhóm của các chủ vườn hoa quả, “cái đó” làm cho bọn phú nông trong làng rất khó chịu. Khokhol nhờ sự giúp đỡ của Pankov, Suslov và thêm hai, ba bần nông biết điều, hầu như đã thu xếp ổn thỏa “cái đó”. Đa số những người trong làng bắt đầu có thái độ tốt với Romass, số người mua hàng ở cửa hiệu tăng lên rõ rệt, ngay cả những bần nông “vô dụng” như Barinov và Migun cũng cố gắng giúp đỡ Khokhol bằng mọi cách.

Tôi rất thích Migun, tôi yêu những bài hát hay và buồn của bác ta. Khi hát, bác thường nhắm mắt lại,lúc đó khuôn mặt đau khổ của bác không còn bị co giật nữa. Bác sống trong những đêm tối trời, khi bầu trời không có trăng hoặc ánh trăng bị những đám mây dày đặc che khuất. Có hôm, ngay từ chập tối bác đã bảo nhỏ tôi:

– Lát nữa ra sông Volga nhé!

Ra tới bờ sông, tôi thấy bác đang ngồi ở đuôi con thuyền độc mộc nhỏ của bác, hai chân đen sì và cong cong thả xuống mặt nước đen ngòm. Bác vừa sửa lại những dụng cụ bị cấm dùng để đánh cá tầm, vừa thì thầm:

– Khi mà bọn quý tộc nhạo báng tôi, thôi được, tôi có thể chịu đựng, chó má thật, chúng nó có địa vị, biết được những điều mà tôi không biết. Nhưng khi một ông bạn bần nông chèn ép tôi thì làm sao tôi có thể chịu đựng được? Chúng ta khác gì nhau? Họ có trong túi đồng rúp, còn tôi chỉ có đồng kopek thôi, khác nhau chỉ có thế!

Khuôn mặt Migun giần giật một cách đau đớn, lông mày nhướn lên, ngón tay động đậy rất nhanh, bác vừa tháo vừa lấy giũa giũa nhọn những lưỡi câu, giọng nói chân thành của bác khẽ vang lên:

– Tôi bị coi là một tên ăn trộm, đúng, tôi là kẻ có tội! Nhưng tất cả mọi người cũng đều sống bằng nghề trộm cướp cả thôi, tất cả đều hút máu và cắn xé lẫn nhau. Thật vậy. Chúa không ưa chúng ta, nhưng quỷ lại nuông chiều chúng ta.

Dòng sông đen sẫm trườn bên cạnh chúng tôi, những đám mây đen bay ngang trời; trời tối quá, không thể trông thấy bờ bên kia của cánh đồng cỏ. Những gợn sóng khẽ dạt vào bãi cát ở bờ sông, rửa sạch chân tôi như muốn kéo tôi đi cùng vào bóng tối vô tận trôi về đâu không rõ.

– Con người ta cần phải sống chứ? ‒ Migun vừa thở dài vừa hỏi.

Ở trên núi vọng xuống tiếng chó sủa buồn bã. Như qua một giấc mơ, tôi nghĩ: “Nhưng sống như bác thế này thì sống làm gì kia chứ?”

Mặt sông yên tĩnh, đen ngòm đầy ghê sợ. Bóng tối ấm áp bao trùm và trải dài vô tận.

– Người ta sẽ giết Khokhol mất. Coi chừng, họ sẽ giết cả anh nữa đấy. ‒ Migun lẩm bẩm, rồi đột nhiên khẽ hát một bài:

Mẹ tôi yêu mến tôi,

Người thường hay nói:

– Yasha, con ơi,

Con yêu quý của mẹ,

Con hãy sống lặng lẽ…

Bác nhắm mắt, giọng bác cất lên mạnh mẽ hơn và da diết hơn, ngón tay vừa tháo sợi dây câu vừa từ từ động đậy:

Tôi không nghe lời mẹ,

Ôi, tôi chẳng chịu nghe…

Tôi có một cảm giác kì lạ: Dường như đất dưới chân tôi bị dòng nước đen ngòm nặng nề xói lở, đang sụt xuống, còn tôi thì trượt và rơi từ mặt đất xuống một chốn tối om, nơi mặt trời vĩnh viễn bị vùi lấp.

Migun kết thúc bài hát cũng đột ngột như lúc bắt đầu. Bác lặng lẽ đẩy chiếc thuyền xuống nước, ngồi vào đó rồi gần như im lìm biến mất trong bóng tối. Tôi nhìn theo bóng bác và suy nghĩ.

“Những con người ấy sống để làm gì nhỉ?”

Tôi có một người bạn khác là Barinov. Tính anh ta bừa bãi, khoác lác, lười biếng, hay đặt điều và lang bạt không thể ở đâu yên. Anh đã từng sống ở Moskva. Anh vừa khạc nhổ vừa nói về Moskva như sau:

– Đấy là một thành phố địa ngục! Hổ lốn. Nhà thờ có tới mười bốn ngàn lẻ sáu cái, còn dân chúng thì toàn bọn bịp bợm. Tất cả đều ghẻ lở như lũ ngựa, thật đấy! Bất chấp là thương gia, quân nhân hay tiểu thị dân ‒ tất cả đều vừa đi vừa gãi. Đúng, ở đấy có súng thần công, một vật khổng lồ! Chính tay Pyotr Đại đế đúc để bắn bọn phiến loạn. Có một mụ quý tộc vì tình đã nổi dậy chống ông ta. Ông ta chung sống với mụ đúng bảy năm, ngày này qua ngày khác, sau đó bỏ mụ cùng với ba đứa con. Mụ ta tức giận, và thế là nổi loạn. Ông anh có biết không, cứ mỗi lần súng thần công của ông ta nổ vào bọn phiến loạn là lập tức chín ngàn ba trăm linh tám người bị chết. Ngay cả ông ta cũng hoảng sợ. Ông nói với đức tổng giám mục Filaret: “Không được, phải bít cái của khỉ ấy lại kẻo nó cứ cám dỗ!” Thế là người ta bít lại…

Tôi nói với Barinov rằng tất cả những chuyện đó đều nhảm nhí, anh ta tức giận:

– Trời ơi! Anh này mới khó tính chứ! Câu chuyện này là do một người thông thái kể tỉ mỉ cho tôi nghe, thế mà anh…

Barinov cũng đã từng tới Kiev “lễ thánh”, anh kể:

– Thành phố ấy cũng nằm trên đồi núi như làng ta, cũng có một con sông, nhưng tôi quên mất tên rồi. So với sông Volga thì con sông đó chỉ giống như một cái ao nhỏ! Nói thẳng ra, thành phố ấy rất hỗn loạn. Tất cả các đường phố đều quanh co và dôc. Dân ở đấy toàn là người Khokhol, nhưng không như Mikhailo Antonovich, mà là nửa Ba Lan, nửa Tatar. Họ chỉ nói lúng búng, không nói to. Người nào đầu tóc cũng rối bù, bẩn thỉu. Họ ăn nhái, mỗi con nhái ở đó nặng khoảng mười funt. Họ cưỡi bò và thậm chí dùng bò để cày. Bò của họ thật là tuyệt, con bé nhất cũng to gấp bốn lần bò của chúng ta. Mỗi con nặng tám mươi ba pood. Ở đấy, có năm mươi bảy ngàn tu sĩ và hai trăm bảy mươi ba giáo chủ… Ồ, anh này rõ lạ chửa! Anh làm sao tranh cãi nổi với tôi? Tất cả cái đó chính mắt tôi đã trông thấy, còn anh, anh đã đến đấy chưa? Chưa đến. Đó! Ông anh thấy đấy, tôi ưa nhất là những điều chính xác…

Barlnov thích dùng con số, tôi dạy cho anh biết tính cộng và tính nhân, nhưng anh lại không chịu học tính chia. Anh say mê nhân những con số lớn và thường hay bị nhầm lẫn. Anh lấy gậy viết lên cát một dãy số dài rồi nhìn những con số đó bằng cặp mắt tròn xoe ngây thơ đầy kinh ngạc. Anh thốt lên:

– Con số này không ai có thể đọc nổi!

Anh là người luộm thuộm, đầu tóc rối bù, quần áo rách rưới, khuôn mặt anh có thể nói là đẹp, anh có bộ râu cằm loăn xoăn nom vui nhộn, cặp mắt xanh luôn nheo cười với nụ cười ngây thơ. Ở anh và Kukushkln hình như có điểm gì giống nhau, và có lẽ vì vậy mà họ xa lánh nhau.

Barinov đã hai lần tới biển Caspian đánh cá, anh luôn luôn mơ tưởng đến biển:

– Ông anh ơi, không thể ví biển với bất cứ cái gì được. Đứng trước biển anh chỉ như một con ruồi thôil Nếu anh nhìn ra biển, anh sẽ có cảm giác như không thấy mình đâu nữa! Cuộc sống ở đấy thật là thú vị. Mọi người đều đổ xô ra biển, ngay cả một ông tu viện trưởng cũng ra đó. Ông ta đâu phải loại thường, cũng là người làm việc. Lại có cả một ả làm bếp nữa, cô ta vốn là nhân tình của một ông biện lí. Anh xem, như vậy thì còn đòi gì nữa? Nhưng cô ả không chịu và đã nói với ông kia: “Anh biện lí ạ, anh đối với em rất tốt, nhưng dù sao thì cũng xin từ biệt anh!” Bởi vì rằng ai đã nhìn thấy biển, dù chỉ một lần thôi, người đó sẽ lại bị hấp dẫn tới đó. Ớ đấy rộng mênh mông như ở trên trời vậy, không có cảnh chen chúc xô đẩy nhau! Tôi cũng sẽ tới đó ở suốt đời. Tôi không thích đông người, có vậy thôi! Tôi muốn sống như một ẩn sĩ ở sa mạc, nhưng tôi chưa biết sa mạc nào tốt…

Anh ta giống như một con chó vô chủ chạy loăng quăng trong làng; mọi người khinh bỉ anh nhưng vẫn nghe những câu chuyện của anh một cách say sưa như nghe những bài hát của Migun vậy.

– Hắn nói láo tài thật! Kể cũng hay!

Những chuyện bịa đặt của anh ta đôi khi làm chocả đầu óc những người thực tế như Pankov phải bối rối. Một hôm bần nông hay hoài nghi ấy đã nói với Khokhol:

– Barinov chứng minh rằng sách vở chưa nói hết về Grozny, còn nhiều điều bí ẩn. Hình như Grozny vốn là một con ma hiện hình, hay biến thành một con chim đại bàng. Do đó, từ thời hắn làm vua, người ta mới khắc chim đại bàng trên những đồng tiền để kỉ niệm hắn.

Đã bao lần tôi nhận thấy rằng người ta thích những chuyện bịa đặt kì quái, đôi khi được bịa ra một cách vụng về, hơn là những câu chuyện đúng đắn về cuộc sống thực.

Nhưng khi tôi nói với Khokhol điều ấy thì anh chỉ mỉm cười:

– Cái đó rồi sẽ qua! Chỉ cần mọi người học được cách suy nghĩ là họ khắc biết tìm đến chân lí. Anh cần phải hiểu cả những con người kì lạ như Barinov và Kukushkin nữa. Nên biết, đó là những nghệ sĩ, những nhà sáng tác. Có lẽ Jesus cũng là một con người kì lạ như vậy. Anh phải đồng ý với tôi rằng nhiều chuyện Jesus bịa cũng khá đấy chứ…

Tôi lấy làm lạ rằng tất cả những người này rất ít và không thích nói đến Chúa. Chỉ có ông lão Suslov là thường nói vẻ tin chắc:

– Tất cả đều do ý Chúa!

Nhưng bao giờ tôi cũng nghe thấy trong lời nói ấy có cái gì tuyệt vọng, sống với những người này rất thú vị, trong những đêm trò chuyện tôi đã học được ở họ nhiều điều. Tôi có cảm tưởng rằng mỗi vấn đề Romass nêu lên giống như một cây cổ thụ đâm sâu rễ vào cuộc sống, ở đó, trong lòng cuộc sống, những nhánh rễ này bện chặt với rễ của một cây cổ thụ khác cũng to lớn như vậy, và trên mỗi cành cây đều nảy nở những ý nghĩ chói lọi, những lời nói ngân vang. Tôi cảm thấy mình lớn lên và hút được chất mật bổ dưỡng của sách vở. Tôi ăn nói đã vững vàng hơn, và nhiều lần Khokhol đã phải vừa mỉm cười vừa khen tôi:

– Maksimich, anh hành động khá lắm!

Tôi cảm ơn anh về những lời khen ngợi ấy biết chừng nào!

Pankov thỉnh thoảng cũng dẫn vợ đến. Chị ta nhỏ nhắn, khuôn mặt dịu dàng và cặp mắt xanh thông minh, ăn mặc “theo lối tỉnh thành”. Chị rón rén ngồi một góc, môi mím chặt với vẻ khiêm tốn, nhưng một lát sau chị há hốc miệng ngạc nhiên và cặp mắt mở to sợ hãi. Đôi lúc nghe thấy một lời sắc sảo, chị cười ngượng nghịu và lấy tay che mặt. Còn Pankov thì nháy mắt ra hiệu cho Romass:

– Cô ấy cũng hiểu đấy nhé!

Thường có một số người điệu bộ thận trọng hay lui tới chỗ Khokhol. Khokhol cùng với họ lên gác thượng, chỗ tôi ở, và ngồi đấy hàng giờ.

Aksinya đưa thức ăn và nước uống lên cho họ; họ ngủ ở đấy, không ai trông thấy cả, trừ tôi và bà làm bếp trung thành với Romass như một con chó trung thành với chủ, bà luôn miệng cầu nguyện cho anh ta. Đêm đêm, Izot và Pankov chở thuyền đưa những vị khách này lên một chiếc tàu thủy đi ngang qua hoặc đưa họ tới bến tàu ở Lobyshki. Từ trên núi, tôi theo dõi chiếc thuyền bé bằng hạt đậu thấp thoáng trên dòng sông đen sẫm hoặc bàng bạc dưới ánh trăng, một ánh đèn lung linh trên mặt nước thu hút sự chú ý của viên thuyền trưởng. Tôi nhìn và cảm thấy như mình đang tham dự vào một công việc to lớn, bí mật.

Mariya Derenkova từ thành phố về, nhưng tôi không còn thấy ở cô ta cái nhìn đã từng làm tôi bối rối nữa. Bây giờ tôi thấy cặp mắt của cô là cặp mắt của một cô gái sung sướng vì biết rõ vẻ đẹp của mình và vui mừng vì có một người to lớn để râu cằm đang theo đuổi. Anh nói chuyện với cô cũng với vẻ bình thản và hơi có chút giễu cợt như với tất cả mọi người, chỉ khác ở chỗ là anh hay vuốt râu và cặp mắt của anh sáng lên một cách ấm áp hơn. Giọng nói thanh thanhcủa cô vang lên vui vẻ, cô mặc áo dài xanh, trên mái tóc vàng óng buộc một chiếc nơ xanh. Đôi bàn tay trẻ con của cô không lúc nào yên, dường như đang tìm cách nắm lấy một vật gì đó. Cô hầu như luôn miệng khe khẽ hát, miệng không há to, và lấy khăn mùi soa phe phẩy khuôn mặt hồng hào nom mệt mỏi. Ở cô như có cái gì khiến tôi phải bối rối khác trước, khó chịu và bực bội. Tôi cố sức tránh gặp mặt cô.

Vào trung tuần tháng Bảy Izot bỗng nhiên mất tích. Có tin đồn rằng anh bị chết đuối. Khoảng hai ngày sau, tin đó đã được xác thực: Cách làng khoảng bảy dặm xuôi theo dòng sông, người ta thấy chiếc thuyền của anh bị thủng đáy và mạn thuyền vỡ dạt vào phía bờ sông giáp cánh đồng cỏ. Người ta đoán tai nạn này có lẽ vì Izot ngủ quên và thuyền của anh đâm vào mũi ba chiếc sà lan đậu cách làng khoảng năm dặm xuôi theo dòng sông.

Khi xảy ra tai họa, Romass đang ở Kazan. Tối hôm đó, Kukushkin tới cửa hiệu tìm tôi. Anh ngồi xuống đống bao tải, uể oải, lặng thinh nhìn xuống chân, rồi vừa hút thuốc vừa hỏi:

– Khi nào Khokhol về?

– Tôi không rõ.

Anh bắt đầu lấy lòng bàn tay xát mạnh vào khuôn mặt sứt sẹo, khẽ chửi những câu tục tằn rồi gầm lên như bị hóc xương.

– Anh làm sao thế?

Anh cắn môi, liếc nhìn tôi. Cặp mắt anh đỏ ngầu, hàm răng run cầm cập. Thấy anh không nói được, tôi lo lắng chờ đợi một tin buồn. Cuối cùng, anh nhìn ra ngoài đường, cố gắng lắm mới lắp bắp được mấy câu:

– Tôi cùng đi với Migun. Xem chiếc thuyền của Izot. Đáy thuyền có vết rìu bổ, anh rõ chưa? Nghĩa là Izotuska[73] bị giết! Nhất định thế…

Anh vừa lắc đầu vừa chửi rủa không tiếc lời, giọng nói nóng nảy, khô khan của anh nghe như nức nở, sau đó anh im lặng và bắt đầu làm dấu thánh giá. Tôi không thể chịu nổi khi nhìn thấy bần nông này muốn khóc mà không khóc được và không biết sao để khóc. Toàn thân anh run lên, nghẹt thở vì tức giận và buồn rầu. Anh đứng bật dậy, lắc đầu, bỏ đi.

Chiều hôm sau, bọn trẻ con tắm sông thấy xác Izot nằm dưới gầm một chiếc sà lan hỏng. Chiếc sà lan nằm chếch phía trên làng một chút, nửa đáy ghếch lên những tảng đá ở bờ sông, nửa kia ngâm dưới nước. Thân hình dài thuồn thuỗn của Izot nằm sóng soài dưới chiếc sà lan, gần phần đuôi, người mắc vào chỗ bánh lái hỏng nát. Anh nằm úp mặt xuống đất, sọ bị bổ vỡ toang, trống rỗng, nước đã xói hết óc ra ngoài. Chàng đánh cá ấy bị người ta bổ rìu từ phía sau, gáy anh như bị một nhát rìu đẽo vạt. Dòng nước chảy lay động xác Izot, đẩy hai chân anh dạt vào bờ, làm động đậy hai cánh tay. Có cảm giác như anh đang gắng sức bò lên bờ.

Khoảng hai chục tên phú nông đứng trên bờ, vẻ mặt đăm chiêu và cau có, còn các bần nông thì chưa đi làm đồng về. Viên trưởng thôn, một tên bất lương và nhút nhát, vừa chạy ngược chạy xuôi vừa vung vẩy chiếc ba toong. Hắn khịt khịt mũi và đưa ống tay áo sơ mi màu hồng lên quệt. Tên chủ hiệu Kuzmin to béo, bụng phệ, đứng dạng hai chân, hết nhìn tôi lại nhìn Kukushkin. Hắn cau mày hăm dọa, nhưng nước mắt đã ứa ra trong cặp mắt trắng dã, và tôi thấy bộ mặt rỗ của hắn có vẻ tội nghiệp.

– Ôi, thật là đểu giả! ‒ Viên trưởng thôn vừa khóc vừa chạy lon ton bằng đôi chân khòng khòng.‒ Chao ôi, bọn bần nông tệ quá!

Cô con dâu của hắn, một cô ả béo ụt ịt, ngồi trên tảng đá, mắt lờ đờ nhìn xuống mặt nước, tay run run làm dấu thánh giá. Miệng cô ả mấp máy, môi dưới dày và đỏ choét trễ xuống trông thật khó coi, nom như mõm chó, để lộ hàm răng vàng khè như răng cừu.

Đám con gái và trẻ con từ trên núi đổ xuống như những hòn đất; những bần nông, mình đầy bụi, vội vã đi tới. Trong đám đông có tiếng nói lao xao khe khẽ và dè dặt:

– Lão bần nông ấy hay gây sự lắm.

– Ai kia?

– Kukushkin, hắn là một tay hay gây sự…

– Một mạng người chết oan…

– Izot vốn là người hiền lành…

– Hiền lành à? ‒ Kukushkin vừa xông đến chỗ đám bần nông vừa la lớn. ‒ Thế tại sao các người lại giết anh ta, hả? Quân đê tiện!

Đột nhiên có một mụ nào đó cười rộ lên như người loạn thần kinh. Tiếng cười của mụ giống như một cái roi mây quất vào đám đông. Đám bần nông thét lên, xông vào nhau, chửi bới, kêu gào ầm ĩ. Kukushkin nhảy bổ đến chỗ tên chủ hiệu, vung tay tát vào cái má xù xì của hắn.

– Này, đồ súc sinh!

Anh vung hai nắm đấm, rồi lập tức nhảy ra khỏi đám ẩu đả và cất tiếng gọi tôi, giọng gần như vui vẻ:

– Đi đi, họ sắp đánh nhau đấy!

Anh đã bị đánh. Anh nhổ máu ở chỗ môi bị rách ra, nhưng khuôn mặt anh ánh lên niềm vui sướng…

– Anh có trông thấy tôi tát thằng Kuzmin không?

Barinov chạy đến chỗ chúng tôi, hoảng hốt nhìn đám đông đang xúm lại bên chiếc sà lan. Từ đám đông phát ra giọng viên trưởng thôn:

– Không, anh phải nói rõ, tôi nể nang ai nào? Anh nói đi!

– Ta phải chuồn ngay khỏi đây thôi.‒ Barinov vừa càu nhàu vừa đi lên dốc.

Buổi chiều hôm ấy thật là oi bức, không khí nặng nề, ngột ngạt làm người ta thấy khó thở. Mặt trời đỏ tía đã lặn vào đám mây xanh dày đặc, phản chiếu ánh đỏ lấp lánh trên các bụi cây. Đâu đây có tiếng sấm ì ầm.

Trước mặt tôi là cái xác của Izot đang động đậy. Trên cái sọ vỡ, những sợi tóc thẳng ra xuôi theo dòng nước như dựng đứng cả lên. Tôi nhớ lại giọng khàn khàn và những lời nói rất hay của anh:

“Trong mỗi người đều có cái ngây thơ, cũng cần phải dựa vào cái ngây thơ đó! Thí dụ như Khokhol chẳng hạn: Anh ta có vẻ sắt đá, nhưng tâm hồn lại rất ngây thơ!”

Kukushkin bước bên cạnh tôi, tức giận:

– Rồi tất cả bọn mình cũng đến bị như thế… Trời ơi, thật là ngu xuẩn!

Khoảng hai ngày sau, mãi khuya Khokhol mới về. Chắc anh rất hài lòng về chuyện gì đó, nên có vẻ dịu dàng khác thường. Khi tôi mở cửa cho anh vào nhà, anh vỗ vai tôi:

– Maksimich, anh lại thiếu ngủ rồi!

– Izot bị giết rồi.

– Sa‒ao?

Đôi gò má anh phồng lên như những cái u và bộ râu cằm rung rung như những dòng nước chảy ròng ròng xuống ngực. Quên cả bỏ mũ, anh đứng giữa phòng, nheo mắt và lắc đầu:

– Thế đấy. Không biết ai giết chứ? Phải, tất nhiên… ‒ Anh từ từ bước tới cửa sổ và ngồi ở đó, hai chân duỗi ra. ‒ Tôi đã bảo anh ta rồi mà… Có cấp trên nào đến chưa?

– Hôm qua có viên trưởng thôn đến.

– Thế, kết quả ra sao? ‒ Anh hỏi rồi lại tự trả lời. ‒ Tất nhiên là chẳng được gì?

Tôi bảo anh rằng viên trưởng thôn, giống như mọi khi, đứng về phía Kuzmin và ra lệnh bỏ tù Kukushkin vì tội đã tát tên chủ hiệu.

– Hừ, thế thì còn biết nói gì nữa!

Tôi xuống bếp đun nước.

Trong lúc uống trà, Romass nói:

– Đám dân này thật đáng thương, họ giết chết những người ưu tú của họ. Có thể là họ sợ những người đó. Những người đó “không hợp rơ” với họ, như ở đây người ta vẫn thường nói. Lúc tôi bị đày đi Siberla, một người tù khổ sai đã kể cho tôi nghe một câu chuyện. Hắn làm nghề ăn cắp, hắn có cả một bọn năm người. Bỗng một hôm một người nói: “Các cậu ạ, chúng mình nên bỏ cái nghề ăn cắp này đi, dù sao thì cũng sống hoài sống khổ!” Thế là vì câu nói đó, bọn chúng đã bóp cổ anh ta khi anh ta say rượu ngủ mê. Người tù khổ sai không tiếc lời khen người bị giết, hắn nói: “Tôi không thương tiếc ba người mà sau này tôi đã trừ khử, cho tới nay tôi chỉ tiếc mỗi anh bạn ấy, anh ta là một người tốt, thông minh, vui vẻ, có tâm hồn trong sạch.” Tôi hỏi: “Vì sao các anh lại giết anh ấy, các anh sợ anh ấy tiết lộ chứ gì?” Hắn tỏ vẻ bực mình: “Không phải, anh ta sẽ không vì tiền hoặc vì bất cứ thứ gì mà tiết lộ đâu! Chỉ vì chúng tôi không hợp làm bạn với anh ta nữa, tất cả chúng tôi toàn là những người có tội, còn anh ta thì dường như là một người chính trực. Như thế không được!”

Khokhol đứng dậy và đi lại trong phòng, hai tay chắp sau lưng, môi ngậm tẩu, anh mặc chiếc áo sơ mi trắng kiểu Tatar dài đến tận gót chân. Anh giậm chân đến thình một cái rồi khẽ nói, vẻ trầm ngâm:

– Đã nhiều lần tôi thấy cái cảnh người ta sợ hãi người chính trực, người ta gạt bỏ người tốt ra khỏi cuộc sống. Có hai kiểu đối xử với những người này: Hoặc là người ta tìm mọi cách thủ tiêu họ sau khi đã săn đuổi họ rất khéo, hoặc là lấy lòng họ, khúm núm trước mặt họ như những con chó. Thái độ thứ hai ít gặp hơn. Còn học cách sống của họ, bắt chước họ thì người ta lại không thể làm được và không biết làm. Cũng có thể là không thích chăng?

Anh cầm lấy cốc nước chè nguội lạnh, tiếp:

– Có thể là người ta không thích! Anh thử nghĩ xem: Người ta tốn nhiều công mới tạo ra được cho mình một cuộc sống yên ổn, họ đã quen với nếp sống ấy rồi, bỗng nhiên có một người nào đó phản đối họ và nói: “Các anh sống như vậy không được!” Không được à? Nhưng chúng tôi đã dốc hết phần sức lực dồi dào nhất của mình vào cuộc sống ấy rồi, anh cút đi cho rảnh mắt! Hãy nện cho ông thầy, người chính trực ấy một trận. Chớ có quấy rầy! Dù sao thì chân lí đầy sức sống vẫn thuộc về những người nói câu “Các anh sống như vậy không được!” Chân lí thuộc về họ. Như thể chính là họ đẩy cuộc sống tiến lên phía trước tốt đẹp hơn.

Anh chỉ tay lên giá sách và nói thêm:

– Đặc biệt là những cuốn sách này! Chà, giá mà tôi biết viết sách thì tốt biết bao! Nhưng tôi không có tài làm việc ấy, vì những ý nghĩ của tôi rất nặng nề và lộn xộn.

Anh ngồi vào bàn, chống khuỷu tay, hai tay bóp đầu:

– Thương Izot quá đi mất…

Rồi anh ngồi im lặng hồi lâu.

– Thôi, chúng ta đi ngủ đi…

Tôi trở về gác thượng, ngồi bên cạnh cửa sổ. Trên cánh đồng bỗng nổi lên những tia chớp nguồn bao lấy nửa bầu trời. Dường như mỗi khi vết sáng đỏ trong suốt loang ra trên bầu trời thì mặt trăng lại rùng mình sợ hãi. Tiếng chó sủa não nùng. Nếu không có tiếng sủa ấy thì có thể tưởng như mình đang sống trên một hòn đảo hoang vắng. Có tiếng sấm ì ầm xa xa, một luồng hơi ấm nặng nề ngột ngạt lùa vào cửa sổ.

Trước mắt tôi là hình ảnh xác Izot nằm trên bờ, dưới bụi liễu. Khuôn mặt xanh xao của anh hướng lên trời, còn cặp mắt trong sáng như thủy tinh mang ánh nhìn cương trực, hướng nội. Bộ râu vàng óng dính bết lại thành những cục nhọn hoắt, bên trong ẩn náu cái miệng há ra một cách kì quái.

“Maksimich ạ, cái chính là lòng tốt, là sự thân ái! Tôi thích ngày lễ Phục sinh, bởi vì đó là ngày lễ thân ái nhất!”

Chiếc quần dài xanh khô cong vì nắng gắt dính chặt vào hai bắp chân xanh lợt của Izot được nước sông Volga rửa sạch. Ruồi nhặng kêu vo ve trên mặt anh; từ cái xác ấy bốc lên mùi tanh lợm nồng nặc.

Có tiếng bước chân nặng nề trên cầu thang. Romass khom lưng chui qua cửa rồi bước vào, anh ngồi xuống giường tôi, một tay nắm bộ râu cằm.

– Anh có biết không, tôi sắp lấy vợ! Thật đấy!

– Phụ nữ tới đây ở, e không chịu nổi…

Anh chăm chú nhìn tôi, như chờ đợi xem tôi sẽ nói gì thêm. Nhưng tôi không tìm ra chuyện gì để nói. Những ánh chớp tràn vào phòng làm cho gian phòng tràn ngập một thứ ánh sáng huyền ảo.

– Tôi sẽ lấy Masha[74] Derenkov…

Tôi bất giác mỉm cười, vì trước đây tôi chưa hề nảy ra ý nghĩ rằng cô gái ấy lại có thể được gọi là Masha. Tôi không nhớ bố hoặc anh em cô có gọi cô là Masha như vậy không.

– Anh cười cái gì thế?

– Có gì đâu.

– Anh tưởng tôi già so với cô ấy ư?

– Ồ, không phải!

– Cô ấy nói với tôi rằng anh cũng đã từng yêu cô ấy

– Có lẽ đúng.

– Thế bây giờ thì thế nào? Thôi rồi chứ?

– Vâng, có lẽ là như vậy.

Anh buông bàn tay đang nắm râu ra và nói khẽ:

– Đối với lứa tuổi các anh thì chuyện đó thường là “có lẽ”, còn đối với lứa tuổi chúng tôi thì chuyện ấy không phải là “có lẽ” nữa, vả lại cũng không có sức để mà suy nghĩ!

Romass mỉm cười, để lộ hàm răng chắc khỏe, anh nói tiếp:

– Antony[75] sở dĩ thua bá vương Octavianus ở Actium vì đã bỏ hạm đội và nhiệm vụ chỉ huy của mình, quay thuyền chạy theo Cleopatra khi Cleopatra sợ hãi rời bỏ trận địa. Đấy, sức mạnh của tình yêu là thế đấy!

Romass đứng dậy, vươn vai và như buột miệng nhắc lại:

– Thế là tôi sắp lấy vợ rồi!

– Bao giờ?

– Mùa thu này. Khi chúng ta thu hoạch táo xong.

Anh bước ra, lúc đi ngang qua cửa, đầu anh cúi thấp hơn mức cần thiết. Tôi lên giường, nghĩ bụng có lẽ tốt hơn cả mùa thu này tôi sẽ rời khỏi nơi đây. Anh ta kể về Antony để làm gì? Tôi không thích câu chuyện đó.

Đã đến lúc trẩy những loại táo chín sớm. Năm nay được mùa táo, những cành táo nặng trĩu quả sà xuống tận mặt đất. Mùi hăng hắc tỏa khắp các khu vườn, bọn trẻ con ríu rít ở đó, chúng nhặt nhạnh những quả táo bị sâu ăn và những quả táo màu vàng, màu hồng bị gió làm rụng.

Vào những ngày đầu tháng Tám, Romass từ Kazan trở về, mang theo một thuyền hàng hóa và một thuyền nữa chất đầy hộp. Một buổi sáng ngày thường, vào khoảng tám giờ, Khokhol vừa mới tắm rửa, thay quần áo xong, sửa soạn uống trà và vui vẻ nói:

– Ban đêm bơi thuyền trên sông thật là tuyệt…

Bỗng anh khịt khịt mũi và hỏi với vẻ lo lắng:

– Hình như có mùi gì khen khét thì phải?

Ngay lúc ấy, ngoài sân vang lên tiếng gào thét của Aksinya:

– Cháy nhà!

Chúng tôi lao ra sân và nhìn thấy bức vách nhà kho phía vườn đang bốc cháy. Trong kho có để dầu hỏa, hắc ín và dầu mỡ. Suốt mấy giây chúng tôi sửng sốt nhìn những lưỡi lửa vàng rực bị ánh mặt trời sáng chói làm bạc màu, đang liếm bức vách và uốn cong lên mái nhà. Aksinya mang tới một thùng nước, Khokhol đổ hết thùng nước lên bức vách đang bốc cháy, sau đó quẳng thùng xuống và nói:

– Hỏng bét rồi! Maksimich, lăn các thùng gỗ ra ngay đi! Aksinya, chạy ngay vào cửa hiệu đi thôi!

Tôi vội lăn thùng hắc ín ra ngoài sân rồi ra ngoài đường, sau đó quay trở lại lăn tiếp thùng dầu hỏa, nhưng khi tôi vừa xoay thùng dầu hỏa thì thấy nút thùng bị mở tung và dầu chảy lênh láng ra mặt đất. Trong lúc tôi đi tìm nút, những ngọn lửa nhọn hoắt như những cái chêm, không chờ đợi tôi, đã lách qua phòng ngoài bằng ván ghép của nhà kho; mái nhà nổ lốp đốp và có tiếng gì vang lên như giễu cợt. Lăn thùng dầu vơi ra đến ngoài, tôi nhìn thấy ở ngoài đường đàn bà và trẻ con từ khắp nơi vừa chạy tới vừa kêu rú lên.

Khokhol và Aksinya khuân hàng hóa trong cửa hiệu ra, chuyển vào khe. Một mụ già tóc bạc vận đồ đen đứng ở giữa đường, vừa giơ nắm đấm đe dọa vừa kêu the thé:

– A‒a‒a, đồ quỷ sứ!…

Chạy trở vào nhà kho, tôi thấy trong kho mù mịt những khói, trong đám khói có tiếng kêu ầm ầm, tiếng nổ lốp đốp. Những dải lửa đỏ ngoằn ngoèo từ mái nhà buông thõng xuống. Bức vách đã biến thành một hàng rào sắt đỏ rực. Khói làm tôi nghẹt thở và tối cả mắt. Tôi gắng sức lắm mới lăn được thùng dầu tới gần cửa kho, nhưng thùng bị mắc vào cửa, không lăn tiếp được nữa. Những tia lửa từ trển mái nhà rơi xuống người tôi, làm cháy cả da thịt. Tôi kêu cứu, Khokhol chạy tới nắm lấy tay tôi và kéo ra ngoài sân.

– Chạy đi! Nổ bây giờ…

Anh nhảy bổ vào phòng ngoài, tôi cũng chạy theo anh rồi lên gác thượng, trên đó tôi có để nhiều sách vở. Sau khi quăng hết sách qua cửa sổ, tôi định quăng theo cái hòm mũ, nhưng cửa sổ hẹp quá không nhét vừa cái hòm, tôi lấy quả cân nửa pood đập khung cửa. Đột nhiên, một tiếng nổ đinh tai, trên mái nhà có tiếng rào rào, tôi hiểu rằng thùng dầu đã phát nổ. Mái nhà trên đầu tôi bắt đầu bốc cháy, nổ lép bép. Luồng lửa màu hung vừa chảy ròng ròng bên ngoài cửa sốvừa ngó nhìn vào phía trong. Nóng quá, không thể nào chịu nổi, tôi liền lao về phía cầu thang, nhưng những đám khói dày đặc đã bốc lên, những con rắn đỏ lòm bò theo bậc cầu thang. Phía dưới, trong phòng ngoài, có tiếng răng rắc nghe như hàm răng sắt của ai đang gặm gỗ. Tôi bối rối quá. Bị khói làm mờ mắt và ngạt thở, tôi đứng lì ra trong mấy giây, mấy giây ấy dường như dài vô tận. Một khuôn mặt vàng vàng, râu hung hung, ngó vào chiếc cửa sổ tò vò phía trên cầu thang, nhăn nhó với vẻ lo lắng rồi biến mất. Ngay khi ấy, những ngọn lửa giống như những ngọn giáo đẫm máu đã đâm thủng mái nhà.

Tôi nhớ là lúc đó tôi cảm tưởng rằng tóc trên đầu tôi nổ lép bép, ngoài ra tôi không nghe thấy tiếng gì khác. Tôi hiểu rằng chết đến nơi rồi, hai chân tôi nặng trình trịch, mắt đau nhức, mặc dù tôi đã lấy tay che kín.

Bản năng sinh tồn đã mách cho tôi một lối thoát duy nhất: Tôi ôm lấy đệm gối và bó vỏ cây gai, lấy cái áo lông cừu của Romass trùm lên đầu rồi nhảy qua cửa sổ.

Khi tôi tỉnh lại ở bờ khe, tôi thấy Romass ngồi xổm trước mặt:.

– Có việc gì không?

Tôi đứng dậy, ngơ ngác nhìn căn nhà gỗ của chúng tôi đã tiêu tan, tất cả biến thành những đám vỏ bào đỏ rực, những lưỡi lửa đỏ hồng như lưỡi chó liếm mảnh đất đen phía dưới ngôi nhà. Các cửa sổ thở ra những luồng khói đen, trên mái nhà xuất hiện những bóng hoa vàng rung rinh.

– Sao, có việc gì không? ‒ Khokhol kêu lên.

Khuôn mặt anh đầm đìa mồ hôi và nhọ nhem bồ hóng. Anh khóc, nước mắt đục ngầu chảy ròng ròng, cặp mắt chớp chớp có vẻ sợ hãi, vỏ cây gai lẫn lộn cả trong bộ râu ướt sũng. Tình cảm mãnh liệt dạt dào ấy khiến tôi cảm thấy như có một làn sóng tươi vui giội khắp người. Thấy chân trái đau nhức, tôi nằm xuống và nói với Khokhol:

– Tôi bị sái chân.

Anh sờ nắn chân tôi rồi thình lình giật mạnh. Tôi thấy đau nhói, nhưng sau vài phút tôi vui sướng không sao tả siết. Tôi khập khiễng mang những món đồ đã chạy được tới nhà tắm của chúng tôi. Romass, miệng ngậm tẩu, vui vẻ nói:

– Tôi cứ đinh ninh rằng anh đã chết cháy khi thùng dầu nổ và dầu vọt tung lên cả mái nhà. Lửa dâng cao như một cái cột, rất cao, sau đó trên trời bỗng xuất hiện thứ gì giống như cái nấm và toàn bộ căn nhà gỗ lập tức chìm trong biển lửa. Tôi cứ yên trí là Maksimich đi đời rồi!

Anh đã trở lại vẻ bình tĩnh mọi khi. Anh xếp đặt gọn gàng đồ đạc thành một đống rồi nói với Aksinya lúc đó mặt mày nhem nhuốc, đầu tóc rối bù:

– Bà ngồi đây canh giữ đồ đạc kẻo mất cắp, tôi đi chữa cháy đây.

Trong đám khói dưới khe có những mảnh giấy trắng bay lả tả.

– Chà. ‒ Romass nói. ‒ Tiếc đống sách quá! Toàn là sách quý cả…

Bốn căn nhà gỗ đã cháy rụi. Ngày hôm đó lặng gió, lửa từ từ lan sang bên phải và bên trái. Những cái móc lửa mềm dẻo bám lấy các hàng rào và mái nhà như miễn cưỡng. Cái lược lửa đỏ rực chải các mái nhà tranh, những ngón tay lửa cong queo sờ soạng các hàng rào, nô giỡn trên đó giống như gảy đàn gusli vậy. Trong không khí mù mịt khói, vang lên tiếng ca của ngọn lửa và tiếng tí tách khe khẽ của gỗ cháy, ngọn lửa như rên rỉ cười trên nỗi đau khổ của kẻ khác. Những “con quạ” lửa vàng chói từ đám khói sà xuống mặt đường và các sân nhà. Đám bần nông và đàn bà chạy ngược chạy xuôi một cách vô tích sự, ai nấy đều lo cho nhà mình và luôn miệng la ầm ĩ:

– Nước! Nước!

Nguồn nước rất xa, mãi tận chân núi, dưới sông Volga. Romass nhanh chóng tập hợp các bần nông lại thành một khối, anh vừa nắm lấy vai họ vừa đẩy, rồi phân họ thành hai tốp và ra lệnh phá các hàng rào và các nhà xép ở hai bên khu vực bị cháy. Họ ngoan ngoãn nghe theo anh, và thế là cuộc chiến đấu khá khôn khéo với thần lửa đang nằng nặc muốn thiêu hủy toàn bộ “cơ đồ”, toàn bộ dãy phố, bắt đầu. Nhưng họ làm việc vẫn có vẻ dè dặt và không gắng sức, giống như làm hộ người khác vậy.

Tôi vui sướng, thấy mình mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Ở cuối phố, tôi trông thấy một đám phú nông do viên trưởng thôn và Kuzmin cầm đầu. Họ đứng như những khán giả, không làm gì cả, vung tay, múa gậy và kêu la ầm ĩ. Một toán bần nông từ cánh đồng phi ngựa về, mình cúi rạp, khuỷu tay cao đến tận mang tai. Cánh đàn bà hướng cả về phía họ kêu la, bọn trẻ con thì chạy lăng xăng.

Lại thêm mấy gian nhà của một hộ nữa bốc cháy, cần phải mau mau tháo dỡ bức vách chuồng bò. Bức vách này đan bằng những cành cây to và đã được trang điểm bằng những băng lửa đỏ rực. Toán bần nông bắt đầu chặt lớp cọc hàng rào. Những đốm lửa và than rơi xuống, họ vội nhảy tránh sang một bên, lấy tay đập lửa trên áo cánh.

– Đừng sợ! ‒ Khokhol kêu.

Tiếng kêu đó chẳng ăn thua gì. Anh bèn lột mũ của một người nào đó chụp lên đầu tôi:

– Anh chặt từ đầu kia, còn tôi chặt ở đây!

Tôi chặt được một hai cái cọc thì bức rào bắt đầu lung lay. Tôi liền leo lên bức rào, tay nắm lấy đầu trên của nó, Khokhol vội kéo hai chân tôi. Thế là cả dãy hàng rào đổ ụp xuống, phủ lên người tôi gần lút đầu. Toán bần nông cũng xúm vào kéo hàng rào ra ngoài đường.

– Có bị bỏng không? ‒ Romass hỏi.

Thái độ săn sóc của anh khiến tôi thêm mạnh và nhanh nhẹn. Tôi muốn trổ tài trước mặt con người thân thiết ấy, và tôi làm việc như điên như dại, cốt sao xứng đáng với lời khen của anh. Trong khi ấy, những trang sách của chúng tôi vẫn đang bay lượn trong đám khói như những con bồ câu.

Ở phía bên phải, người ta đã dập tắt được một phần, không cho đám cháy lan rộng, nhưng ở phía bên trái, đám cháy vẫn mỗi lúc một lan rộng và đã lan đến ngôi nhà thứ mười. Sau khi phân công một số bần nông ở lại ngăn chặn mánh khóe của “đàn rắn” lửa, Romass thúc một số đông sang phía bên trái. Khi chạy qua trước mặt bọn phú nông, tôi nghe thấy một tên thốt lên, giọng tàn nhẫn:

– Một vụ đốt nhà!

Tên chủ hiệu nói:

– Cần phải lục soát nhà tắm của nó xem sao!

Những lời nói đó đã lọt vào trí nhớ tôi một cách khó chịu.

Tôi biết rằng sự kích động, đặc biệt là cảm giác phấn chấn, làm tăng thêm sức mạnh. Tôi được kích động nên đã làm việc quên mình và cuối cùng kiệt sức. Tôi nhớ là tôi ngồi trên mặt đất, tựa lưng vào vật gì nong nóng. Romass lấy nước ở thùng tưới vào người tôi. Đám bần nông vây quanh chúng tôi, nói lúng búng với vẻ kính trọng:

– Thằng cha thế mà khỏe!

– Thằng ấy sẽ không phản bội ai…

Tôi nép đầu vào chân Romass và bắt đầu khóc một cách đáng hổ thẹn. Anh vuốt mái đầu ướt của tôi và nói:

– Anh nghỉ đi! Thôi đủ rồi.

Kukushkin và Barinov, cả hai cùng bị ám khói đen như quỷ sứ, dẫn tôi tới khe và an ủi:

– Không sao, người anh em ạ! Mọi việc đều xong cả rồi.

– Anh sợ à?

Tôi chưa kịp nghỉ ngơi cho lại sức và hồi tỉnh thì bỗng thấy khoảng mười tên “phú nông” đi xuống khe về phía nhà tắm của chúng tôi, đi đầu là viên trưởng thôn, tiếp theo sau là hai tên cảnh sát thôn đang kèm chặt tay Romass lôi đi. Anh không đội mũ, tay áo sơ mi ướt đẫm rách tơi tả, miệng ngậm chặt tẩu, mặt cau có trông rất đáng sợ. Gã lính Kostin vung gậy, thét lên như điên dại:

– Đem tên dị giáo này quẳng vào lửa thôi!

– Mở cửa nhà tắm ra…

– Bẻ khóa mà vào, chìa khóa mất rồi. ‒ Romass nói to.

Tôi nhổm dậy, nắm lấy cái cọc dưới đất và đứng ngay cạnh Romass. Hai tên cảnh sát thôn lùi lại phía sau, còn viên trưởng thôn thì rít lên với vẻ sợ hãi:

– Những người thuộc chính giáo không được phép bẻ khóa!

Kuzmin vừa chỉ tôi vừa kêu:

– Kìa, lại thêm một thằng nữa… Nó là ai?

– Bình tĩnh, Maksimich. ‒ Romass nói. ‒ Họ tưởng tôi giấu hàng ở nhà tắm và tự tay đốt cửa hiệu.

– Cả hai đứa chúng mày!

– Bẻ khóa đi!

– Những người thuộc chính giáo…

– Chúng tôi chịu trách nhiệm!

– Trách nhiệm của chúng tôi…

Romass nói thầm:

– Anh đứng áp lưng vào lưng tôi! Kẻo chúng nó đánh từ phía sau lại…

Ổ khóa cửa nhà tắm bị bẻ gãy, mấy tên lập tức xô vào rồi lại vội vàng lẻn ra ngay. Trong khi đó, tôi nhét cái cọc vào tay Romass và nhặt một cái cọc nữa ở dưới đất lên.

– Không có gì cả…

– Không có gì cả?

– Chà, lũ quỷ sứ!

Một tên nói, giọng sợ sệt:

– Công toi rồi, các bạn bần nông ạ…

Vài giọng nói đáp lại dữ tợn như say rượu:

– Công toi cái gì cơ?

– Đem quẳng tụi chúng nó vào lửa thôi!

– Quân gây rối loạn…

– Tụi chúng định âm mưu tổ chức các nhóm sản xuất!

– Tụi kẻ cắp! Cả lũ chúng nó đều là bọn kẻ cắp!

– Im đi! ‒ Romass kêu to. ‒ Các anh đã thấy đấy, ở nhà tắm của tôi có giấu giếm hàng hóa gì đâu, các anh còn cần gì nữa nào? Tất cả đều bị cháy hết, chỉ còn lại có thế, các anh thấy chưa? Tôi đốt tài sản của tôi thì được gì?

– Được bảo hiểm!

Lại một chục cái họng nữa thét lên dữ tợn:

– Còn nhìn chúng nó làm gì nữa?

– Đủ rồi! Chúng ta đã chịu đựng nhiều rồi…

Chân tôi run run và cặp mắt như tối sầm lại. Qua lớp sương mù đo đỏ tôi nhìn thấy một loạt những gương mặt hung dữ với những cái mồm nom như những cái lỗ đầy lông lá. Tôi khó nhọc lắm mới nén được ý nghĩ tức giận muốn đánh cho lũ này một trận. Bọn chúng nhảy xung quanh chúng tôi, miệng thét:

– A ha! Chúng nó cầm cọc kìa.

– Cầm cọc à?!

– Tụi chúng nó sẽ vặt râu tôi. ‒ Khokhol nói, và tôi thấy như anh nhếch mép cười. ‒ Maksimich ạ, anh cũng sẽ có phần đấy, chà! Nhưng phải bình tĩnh, bình tĩnh…

– Coi chừng, thằng trẻ có rìu đấy!

Quả thực, sau thắt lưng quần tôi có một chiếc rìu thợ mộc lòi ra mà tôi quên bẵng đi mất.

– Tụi chúng có vẻ nhát gan lắm. ‒ Romass nói. ‒ Nhưng anh không được dùng đến rìu, nếu…

Có một gã bần nông nhỏ bé và thọt chân mà tôi không quen biết bước tập tễnh trông thật buồn cười, miệng la hét như điên dại:

– Cứ lấy gạch đứng xa mà ném vào tụi chúng nó! Có giỏi đánh vào đầu tao!

Gã nắm lấy một hòn gạch vỡ, vung lên và ném vào bụng tôi. Nhưng tôi chưa kịp phản đòn thì Kukushkin như một con chim kền kền từ phía trên lao vào gã, hai người ôm lấy nhau và lăn vào khe. Theo sau Kukushkin là Pankov, Barinov, bác thợ rèn và khoảng một chục người nữa chạy tới. Ngay lúc ấy Kuzmin nói giọng trịnh trọng:

– Mikhailo Antonovich! Anh là một người thông minh, anh biết đấy: Đám cháy đã làm cho những bần nông phát điên lên được…

– Maksimich! Chúng ta ra bờ sông thôi, đi tới quán ăn. ‒ Romass nói rồi rút tẩu ở miệng ra, nhét mạnh vào túi quần.

Anh lấy cọc chống và mệt nhọc lắm mới bò lên được khỏi cái khe. Kuzmin đi cạnh anh và nói gì đó. Romass không thèm nhìn hắn, anh đáp:

– Cút ngay đi, đồ ngốc!

Ở chỗ căn nhà gỗ của chúng tôi có một đống than vàng óng đang cháy âm ỉ, ở giữa nhà là lò sưởi, một làn khói xanh từ ống khói hãy còn nguyên vẹn bay lên bầu không khí nóng bỏng. Những cái chân giường bằng sắt đỏ rực nhô ra như chân nhện. Những cột chống cháy sém đứng sừng sững bên cạnh đống lửa như những người gác cổng vận đồ đen, một cái cột đội chiếc mũ bằng than đỏ có những ánh lửa nhỏ ở trên trông như lông gà trống.

– Sách bị cháy hết cả. ‒ Khokhol vừa thở dài vừa nói. ‒ Thật đáng tiếc!

Tụi trẻ con lấy gậy lùa những thanh củi lớn bị cháy sém vào vũng nước bẩn ở ngoài đường như lùa đàn lợn con… Củi kêu xèo xèo và tắt ngấm, tỏa khắp không gian một thứ khói trăng trắng, mùi hăng hăng. Một đứa bé khoảng lên năm, tóc trắng, mắt xanh, ngồi ở vũng nước ấm, đen ngòm, lấy gậy nện vào chiếc thùng méo mó, say sưa với những tiếng gõ vào sắt. Những người bị cháy nhà bước đi buồn bã, họ thu dọn các món đồ dùng còn lại trong nhà thành một đống. Các bà thì khóc lóc, chửi rủa, cãi nhau vì những khúc gỗ cháy sém. Cây cối trong các khu vườn đằng sau đám cháy đứng trơ ra, nhiều cây vì bị nóng lá đã biếnthành màu hung, những cành táo trĩu quả đỏ thắm lộ ra càng rõ hơn.

Chúng tôi xuống sông tắm rửa rồi lặng lẽ ngồi uống trà ở cái quán trên bờ sông.

– Bọn cường hào đã hoàn toàn thất bại. ‒ Romass nói.

Pankov đi tới, vẻ mặt trầm ngâm và dịu dàng hơn mọi khi.

– Cái gì thế, anh bạn? ‒ Khokhol hỏi.

Pankov nhún vai, đáp:

– Ngôi nhà của tôi đã được bảo hiểm rồi.

Chúng tôi im lặng, đưa mắt chăm chú thăm dò nhau một cách kì lạ, như những người không hề quen biết.

– Mikhail Antonich! Bây giờ anh định thế nào?

– Để tôi suy nghĩ đã.

– Anh nên rời khỏi đây thôi.

– Để tôi xem sao đã.

– Tôi có kế hoạch rồi. ‒ Pankov nói. ‒ Chúng ta ra ngoài nói chuyện đi!

Họ đi ra.

Tới cửa, Pankov quay lại bảo tôi:

– Anh, anh không phải là kẻ nhút nhát! Anh có thể sống ở đây được, bọn chúng sẽ sợ anh…

Tôi cũng đi ra phía bờ sông, nằm dưới bụi cây ngắm dòng sông.

Trời nóng bức, mặc đù mặt trời đã lặn về tây. Tất cả nbững chuyện xảy ra ở làng này mở ra trước mắt tôi như một cuộn giấy lớn, tất cả những việc đó dường như được vẽ trên dải sông bằng đủ màu. Tôi cảm thấy buồn. Nhưng chẳng bao lâu, mệt mỏi đã thắng và tôi ngủ thiếp đi.

– Này! ‒ Có tiếng ai gọi trong giấc mơ và tôi cảm thấy như có ai lay và cố kéo tôi đi. ‒ Anh chết rồi hay sao vậy? Tỉnh dậy đi!

Bên kia sông, một vầng trăng đỏ tía, to như bánh xe, tỏa sáng trên cánh đồng cỏ. Barinov cúi xuống, lay tôi.

– Về ngay, Khokhol đang đi tìm anh đấy, anh ấy đang lo!

Barinov đi theo tôi, càu nhàu:

– Anh không được bạ đâu ngủ đấy! Nhỡ có người đi lại trên núi, vô ý sẩy chân làm đá rơi vào anh thì sao? Cũng có thể có người cố ý làm như vậy. Ở chỗ chúng ta người ta không đùa đâu. Anh bạn phải biết, dân ở đây chỉ nhớ điều ác thôi. Ngoài điều ác ra, họ chẳng nhớ gì cả.

Trong bụi cây trên bờ sông có ai khẽ động làm cành cây rung rinh.

– Tìm thấy chưa?‒ Giọng nói ngân vang của Migun.

– Tôi đang dẫn về đây. ‒ Barinov đáp.

Đi được khoảng mười bước, Barinov vừa thở dài vừa nói:

– Anh ta chuẩn bị ăn cắp cá đấy. Cuộc sống của Migun cũng chật vật lắm!

Romass đón tôi bằng một câu trách bực tức:

– Tại sao anh lại đi chơi như thế? Anh muốn người ta nện cho anh một trận hay sao?

Khi chỉ còn lại hai người chúng tôi, anh khẽ càu nhàu: