A... B... C...
Trong một thành phố lớn của nước Đức vĩ đại, hằng ngày Joanna Lipska đi ngang qua tòa nhà mà giờ đây người ta đang mở rộng mặt tiền và trang hoàng thêm, nhưng cô không mảy may để ý đến điều đó. Nhà nước ấy là một nhà nước vĩ đại và trụ sở Tòa án được nhà nước đó xây dựng là một tòa nhà đường bệ. Cô có gì liên quan đến những thứ lớn lao kì vĩ ấy cơ chứ? Cô biết rằng bên trong những bức tường rộng rãi được trổ hàng loạt ô cửa sổ cực lớn và sáng sủa kia, số phận của những kẻ dính líu đến các vụ tranh chấp quyền thừa kế hoặc phạm vào các tội nặng nhẹ khác nhau đã được định đoạt. Khi hoàn toàn không có bất cứ tài sản gì thì các tranh chấp thừa kế với cô là không thể, còn nếu như một lúc nào đó, chợt nảy ra trong đầu ý nghĩ là mình có thể bị dính líu đến việc phạm tội thì lập tức cô phải phì cười. Nhưng ý nghĩ ấy chưa bao giờ nảy sinh trong cô và ngôi nhà trụ sở Tòa án kì vĩ ấy chưa bao giờ gây cho cô sự chú ý đặc biệt nào. Tòa nhà quá lớn lao đường bệ, còn cô lại là một con người quá nhỏ bé, xuất thân từ một dòng họ khiêm nhường với cái nghèo xơ xác và cái eo lưng thon thả trinh nguyên! Cô lúc nào cũng mặc váy len đen và đội mũ đen, không trang điểm, cũng không hợp mốt, song lại để lộ ra mớ tóc dày đẹp tuyệt vời màu vàng nhạt gần giống như lanh, mượt mà và tỏa sáng long lanh phía trước trán, với bím tóc dày bện ngay sau gáy. Da mặt cô trắng xanh nhợt nhạt và lộ rõ vẻ thường xuyên mệt mỏi, đôi môi nhỏ màu hồng và đôi mắt màu tro cực lớn, trong suốt đến mức đôi khi khiến người ta liên tưởng đến đôi mắt trẻ thơ. Cô còn trẻ tuổi và chắc chắn là xinh đẹp, nhưng bất cứ kẻ nào biết nhìn người cũng nhận thấy ngay rằng cô thuộc vào loại các cô gái có thể bắt gặp hàng loạt trong mỗi thành phố, họ không chơi bời và chưng diện, họ ăn ít, thở bằng không khí của những con phố nhỏ và những căn nhà chật chội. Cách sống như thế cản trở sự phát triển của sắc đẹp và đồng thời cũng che đậy nó trước mắt mọi người. Không được chăm chút và làm nổi bật, sắc đẹp ấy chỉ nảy nở yếu ớt và tỏa hương kín đáo, giống như những loài hoa cứ nhỏ dần đi và chỉ khoe màu nhợt nhạt trong bóng tối; bất cứ loài ngưu bàng* nào cũng có thể làm nó lu mờ và thường che khuất nó, nhưng nó sẽ dễ dàng và nhanh chóng lớn lên dưới ánh nắng mặt trời. Cô gái với mái tóc sáng như lanh và cái eo thon thả trinh nguyên có lẽ sẽ trở nên xinh đẹp hơn, giá như có nước da tươi ròn hơn, cử chỉ linh hoạt hơn, trang phục đẹp đẽ hơn, giá như thêm vào đó, cô còn biết mạnh dạn hơn, biết làm duyên hơn trước mắt mọi người. Tuy vậy, có thể thấy rõ rằng cô không muốn và không biết làm việc đó. Cô nhợt nhạt và tàn tạ, cô pha chất dân thường đường phố, mòn mỏi trong bộ váy áo màu đen truyền kiếp, luôn sải chân bước trên các con phố của thành phố một cách vội vã, với thân hình hơi nhô về phía trước, với cái trán hơi cúi xuống, còn hai bàn chân nhỏ nhắn và cân đối bó gọn giữa đôi giày thô kệch xấu xí luôn bước nhanh, rất nhanh trên vỉa hè đá lát gập ghềnh, không để ý gì đến vẻ duyên dáng của các động tác cơ thể. Bây giờ, hằng ngày, cô buộc phải nhảy từ trên vỉa hè xuống và đi vòng qua giàn giáo của cánh thợ nề dựng tạm cạnh bức tường trụ sở Tòa án. Chỉ một lần cô ngẩng đầu nhìn lên những người công nhân đang làm việc trên đỉnh giàn giáo và chỉ nhìn trong giây lát rồi tiếp tục chạy về phía trước. Giữa cô và tòa nhà lớn đầy ắp những âm thanh ảm đạm của các cuộc tranh chấp và tội ác kia có cái gì có thể liên quan đến nhau?
Ngưu bàng: một loài thực vật có hoa trong họ Cúc (BT).
Tuyệt nhiên không một ai quan tâm đến điều đó, nhưng có một điều chắc chắn là mới cách đây không lâu, gương mặt cô thường tỏ ra vô cùng buồn bã, lo lắng và bộ váy áo màu đen được khâu thêm ở phía dưới một dải viền trắng. Cô để tang người cha và lúc nào cũng nghĩ mình nhất thiết phải tìm được phương thức kiếm sống để bản thân không trở thành gánh nặng cho cuộc sống vốn đã vất vả nặng nề của người anh trai. Đó là một ý nghĩ bình thường và phàm tục, nhưng cũng thường xuyên vẽ hằn lên vầng trán non trẻ của cô nếp nhăn sâu đậm. Lúc bấy giờ, cô rất đau đớn và suy nghĩ nhiều lắm, không chỉ nghĩ về bản thân, đôi lúc, cô nghĩ cả đến toàn thế giới và những cơ chế khác nhau của thế giới ấy. Đôi khi, cô như cảm thấy hổ thẹn vì chuyện gì đó và lúc ấy, đôi mắt cô như nhún nhường muốn nói với mọi người: “Hãy thứ lỗi cho tôi vì tôi đang tồn tại trên đời!”
Khi người cha già còn sống, cô biết mình sống vì ông và cô cũng chưa nếm trải cảnh nghèo. Giờ đây, cô bước đi trên thế gian này với ý nghĩ thường trực là: “Ta có thể trở nên hữu ích cho ai và cho cái gì trên đời này?”
Cô thường xuyên bị đói và bước thất thểu với đôi giày rách bươm, vẫn nghĩ về mẩu bánh mì hoặc chiếc bánh tròn hay đôi giày lành lặn, nhưng đồng thời lại nghĩ: “Thì anh Mieczek khốn khổ có phải lúc nào cũng có miếng thịt để ăn đâu, áo sơ mi của anh ấy cũng rách bươm ra từng mảnh đấy thôi!... Thế mà mình còn ngồi trên gáy anh ấy!”
Đó là nỗi lo lắng rất đỗi bình thường phàm tục, ẩn nấp trong đầu cô gái dưới dạng những lời dung tục; nhưng chẳng ai nhìn thấy đã bao nhiêu lần cô bóp nát đôi bàn tay nhỏ nhắn của mình vì thất vọng, những giọt nước mắt trẻ, tức là rất đậm đặc, chảy dài trên má, còn đôi môi run rẩy vì buồn đau vẫn thầm thì câu hỏi: “Ta có thể trở nên hữu ích cho ai và cho cái gì trên đời này?”
Cô có những người quen và bạn bè cùng trang lứa, những kẻ có hoàn cảnh giống như cô, nhưng vẫn sống bình thản, thậm chí đôi khi còn vui vẻ nữa. Họ khôn khéo và tham lam chộp giật lấy những thú vui của cuộc sống hằng ngày, tự nuôi mình bằng những thứ đó, chờ đợi tương lai tốt đẹp hơn, không nhìn ngó ra thế giới xung quanh và không ngoái đầu nhìn lại bất cứ người nào - họ đã sống không tồi. Cô không thể làm như vậy. Tại sao? Có lẽ tạo hóa đã tạo ra cô hơi khác, và hỗ trợ thêm vào đó là các câu chuyện cô đã nghe được, các cuốn sách đã cô đọc qua, hình ảnh khác nhau của những vật thể tồn tại xung quanh cô đã nhìn thấy, chút ít kiến thức đã tuôn chảy vào đầu óc cô từ miệng ông bố, người trước khi rời xa thế giới này đã bị mất việc, không được làm giáo viên trường nam sinh của địa phương. Giá như ông giữ được vị trí làm việc đó lâu hơn nữa... Ôi! Tình cảnh của hai đứa con ông giờ đã khác hẳn rồi. Tuy nhiên, ông không thể giữ được nó. Tại sao? Có thể tương lai sau này, mọi người sẽ vô cùng ngạc nhiên vì điều đó; nhưng hiện thời thì mọi người đều có thể dễ dàng đoán được. Ở tuổi xế chiều, ông được thông báo rằng ông không có quyền làm việc như mình muốn và mình biết, đồng thời cũng không được hưởng thành quả công việc của mình. Có lẽ trước đó, ông đã chịu đựng đau khổ và lao lực quá nhiều. Ớ nghĩa trang thành phố, ngôi mộ sẽ không bao giờ được mở nắp ra và không ai còn nhìn thấy mái đầu sớm bạc của nhà giáo dục với đôi mắt đỏ ngầu vì công việc và những nếp nhăn lớn hằn trên vầng trán không phải vì tuổi tác mà chỉ vì một khoảnh khắc, khoảnh khắc mà giữa các bức tường của ngôi trường, người ta đã quát lên với ông: “Ngươi hãy cút ngay khỏi đây!”. Ông đã ra đi và khi mới vừa khuất bóng, ngay trước mặt con gái ông, những câu hỏi lập tức đã xuất hiện: Làm gì? Ở lại với anh trai? Nấu bữa trưa cho anh, khâu vá quần áo, tối tối đọc những cuốn sách để anh tiêu khiển sau giờ làm việc ở văn phòng xưởng mộc? Tất cả những việc đó cô muốn làm và biết làm, không việc gì trong số đó cô chán ghét cả, nhưng cái công việc văn phòng của anh... chỉ vừa đủ để nuôi sống và sắm sửa quần áo tươm tất cho anh thôi. Thêm vào đó, mặc dù nấu bữa ăn trưa, dọn dẹp nhà cửa, khâu vá quần áo chẳng phải là công việc khó nhọc đối với cô và cũng chẳng làm giảm nhân phẩm cô, song tâm hồn cô không được thỏa mãn vì những công việc ấy, giống như ngọn lửa nhỏ, tâm hồn cô quằn quại trong lồng ngực, bùng cháy thành ngọn lửa, dâng mãi lên cao... Mặc dù những âu lo và nỗi nhọc nhằn ấy thật bình lặng, cô - tâm hồn trẻ ấy, vẫn mộng mơ và tham vọng. Cô muốn làm một cái gì đó và trở thành một người nào đó.
Joanna phải đắn đo khá lâu với những ý nghĩ và dự định khác nhau, cho đến một hôm, cô chạy vào căn bếp nhỏ của mình với vẻ xúc động lộ rõ trên nét mặt. Trong tay cô là chiếc sọt đựng quần áo vừa mang theo để là cho phẳng. Mặc dù chiếc sọt khá nặng, cô chạy rất nhanh dọc theo các bậc cầu thang hẹp dựng đứng và dễ dàng đặt nó lên mặt bàn. Người thon thả và nhợt nhạt, nhưng cô lại nóng nảy và hăng hái. Sau khi đã đặt chiếc sọt lên mặt bàn, cô đứng im không nhúc nhích và lặng người suy nghĩ. Cô đứng trên sàn lắp bằng những tấm gỗ dày, lởm chởm những mũ đinh đen ngòm nổi lên chi chít; trên đầu cô là trần nhà thấp, làm bằng những thanh dầm phủ khói và bụi đen kịt; giữa bốn bức tường dán bằng lớp giấy màu sắc sặc sỡ tồi tàn có thể nhìn thấy vài chiếc bàn và ghế dài, một chiếc tủ nhỏ đựng thức ăn và nồi niêu bát đĩa, chiếc giường trên đó phủ tấm vải trải nhỏ nhắn và trắng như tuyết. Cô ngủ ở đó; căn phòng nhỏ nằm kề bên được dùng làm phòng ngủ cùng phòng làm việc của anh trai cô và đó là toàn bộ căn hộ của họ, nằm ở gian áp mái, tức là tầng trên cùng của ngôi nhà. Ngôi nhà ấy trông hệt như kiểu nhà mà nguyên mẫu lấy từ bản vẽ của một kiến trúc sư năm tuổi chơi trò xếp bảy tờ giấy lên bàn, trong đó, hai hình tam giác đặt phía dưới, còn một hình tam giác đặt bên trên. Hình tam giác tầng trên của các ngôi nhà ở thành phố chính là những căn hộ rẻ tiền nhất, vì thế, anh em nhà Lipski đã chọn thuê sau khi ông bố qua đời. Phía dưới nhà họ là quán rượu với cửa hàng nhỏ nhìn ra đường phố, các cánh cửa hẹp thông với sân trong và gia đình chủ quán rượu ở đó. Sân trong có rất nhiều người ở, cả nam và nữ với lứa tuổi khác nhau.
Tia nắng mặt trời lọt qua cửa sổ nhỏ đổ ánh vàng lên mái tóc người con gái đang đứng bất động phía trong và làm lộ ra không thương tiếc những chỗ rách đã được vá lại rất cẩn thận trên chiếc váy màu đen của cô. Đôi bàn tay đan chéo vào nhau đặt trên tấm váy, mí mắt cô khép lại và trên đôi môi, một nụ cười mơ mộng hé nở. Cô đang mơ mộng điều gì mà cảm thấy hứng khởi như vậy? Mơ về một tối khiêu vũ nào đó? Hay chiếc váy mới có màu sắc vui tươi sáng sủa? Hay thầm ước về một lời nói ngọt ngào tình tứ hoặc ánh mắt rực lửa của người yêu?
Chợt bừng tỉnh từ những suy nghĩ thầm kín của mình, cô ngẩng mặt nhìn lên và vỗ mạnh hai bàn tay vào nhau. Đó là cử chỉ biểu thị sự vui mừng. Với niềm vui gần như thơ dại đó, cô nhảy khỏi chỗ và đẩy hé cánh cửa phòng bên cạnh. Nhưng cô lại đặt một ngón tay lên môi và tự nhắc nhở mình: “Hãy im lặng!” Sau đó, cô lên tiếng hỏi chính mình: “Anh ấy đang ngủ hay thức?”
Trong căn phòng nhỏ được xếp đặt khá nhiều đồ đạc, phần lớn là cổ lỗ và rẻ tiền, một chàng trai trẻ tầm thước trung bình đang nằm trên chiếc đi văng nhỏ. Đây là một thanh niên gầy gò, khuôn mặt ưa nhìn, khá đẹp trai, nhưng màu da trắng như giấy của khuôn mặt đó lại làm cho người ta có cảm giác về sức khỏe yếu ớt và èo ợt của anh, hơn nữa, nó lại tương phản với những chùm ria mép ngắn ngủn màu đen và cặp kính đen ngòm đeo trên mắt. Trước đây, Mieczyslaw Lipski là đứa trẻ khỏe mạnh, mặc dù lúc nào cũng chậm chạp và không mạnh dạn, nhưng tình trạng ấy diễn ra trong thời gian không lâu. Lúc anh mười sáu tuổi và kết thúc khóa học năm năm ở bậc trung học, nước da của anh bắt đầu trắng bợt ra, nhợt nhạt như màu giấy, đôi tay teo lại gầy gò khẳng khiu, cử động một cách lười nhác; đôi mắt đau bệnh được bác sĩ khuyên phải mang kính đen giống như ông bố; kể từ đó, không lúc nào anh tháo cặp kính khỏi mắt. Bỏ học, quá yếu không thể làm thợ thủ công, anh bắt đầu làm việc trong văn phòng xưởng mộc. Con đường thăng tiến của anh đã thất bại vĩnh viễn. Tại sao? Không một ai có thể giải thích cặn kẽ được điều đó. Đơn giản là anh phải gánh chịu một sức ép gì đó không thể nhìn thấy được, nhưng rõ ràng nó đang tồn tại - ở đâu? Trong trường học? Trong căn nhà sầu não vì người cha bị mất việc làm? Hay trong cách thức sinh hoạt của một gia đình nghèo? Hay do bầu không khí tinh thần mà thành phố này đang thở? Có thể tìm hiểu sâu thêm, nhưng khó mà có được lời giải...
- Mieczyslaw ơi, anh đang ngủ đấy ư? Mieczyslaw ơi, anh đang ngủ à?
Nghe thấy tiếng gọi khẽ của đứa em gái, anh không còn ngủ nữa, và vì còn chưa đẫy giấc sau buổi làm mệt mỏi, chàng thư kí xưởng mộc khốn khổ vừa uể oải duỗi thẳng chân trên chiếc đi văng nhỏ vừa cố bật ra khỏi cuống họng một câu hỏi tỏ vẻ khó chịu:
- Gì thế?
Sau đó, khi người anh vừa ngẩng đầu lên, vươn thắng đôi vai và ngáp thật to, khi miệng anh còn đang há ra chưa kịp khép lại thì một trận mưa những nụ hôn đã tới tấp ập xuống. Joanna vừa cười to và hôn rất mạnh vào miệng, vào má, vào trán người anh trai vừa nói:
- Em có rồi, Mieczek ơi, có rồi! Em có cái mình muốn rồi! Em tìm thấy rồi!
Với thái độ lười nhác dửng dưng, nhưng cũng rất nhẹ nhàng, anh vùng người thoát ra khỏi vòng tay đang ôm choàng của em gái và bằng giọng mũi ngập ngừng, anh hỏi:
- Nào, cái gì thế hả? Cô phát điên rồi phải không? Cô đã tìm thấy cái gì rồi? Tìm được tiền hay sao?
Bất chợt tỏ ra nghiêm nghị, cô đáp:
- Việc làm.
Anh chàng thư kí đột ngột duỗi thẳng người, tháo cặp kính ra lấy khăn mùi xoa lau, đeo nó trở lại và vừa nhìn vào người em gái bằng đôi mắt hấp háy đỏ lòm, vừa hỏi:
- Công việc gì? Có kiếm được tiền từ đó hay không?
Joanna đứng cách người anh trai vài bước và lần đầu tiên, cô kể cho anh nghe tất cả những lo lắng băn khoăn của mình, những điều mà trước đây cô không muốn nói ra làm cho anh buồn chán. Cách đây không lâu, cô đã quyết định đi khỏi nhà để đến nơi khác làm gia sư, nhũ mẫu, quản gia cho một gia đình nào đó ở thôn quê... ở đâu cũng được và làm gì cũng được, chỉ cần bắt mình làm một cái gì đó, bắt đầu một cái gì đó... Nhưng cô còn lưỡng lự đắn đo. Bản thân cô không biết rõ mình có thể làm được cái gì, do cô chỉ mới học ở nhà và học không nhiều... Cái mà cô biết thì biết thành thạo, chính ông bố đã dạy cô mà... song ông dạy không nhiều... Thêm vào đó, cô cảm thấy tiếc nuối khi phải chia tay với anh trai! Họ chỉ còn hai anh em trên thế gian này, mà anh thì thường không được khỏe và cần đến sự hỗ trợ nỗ lực của cô... Đến đây, từ đôi mắt màu tro của người kể chuyện, những giọt nước mắt bỗng dâng lên lấp lánh, nhưng biến mất ngay sau đó. Hôm nay, cô đã gặp niềm hạnh phúc lớn lao. Bà chủ tiệm là ủi Roznowska, người đàn bà sung túc và biết rõ tình cảnh của cô, đã hỏi liệu cô có muốn dạy cháu nội bà- hai bé gái còn chưa cần đến một cô giáo quá thông minh hay không. Lẽ tự nhiên là cô đã nhận lời đề nghị ấy với lòng biết ơn. Các bé gái nhà Roznowska sẽ đến học ở đây, vì ở nhà họ, bên tiếng kêu cót két và phả hơi phì phì của máy ép ủi quần áo không thể nào học được. Tuy nhiên, đó mới chỉ là khởi đầu. Bà Roznowska hứa sẽ tiến cử cô cho một bà bạn thân, người có hai căn nhà ngay trên phố này và cũng có đứa cháu trai đang chuẩn bị đi học. Cậu bé chơi thân với hai đứa cháu gái nhà bà Roznowska và sẽ đến học cùng với chúng. Nhưng đấy cũng chỉ mới là khởi đầu. Chỉ cần bắt đầu thôi! Còn cái thằng Kostus nữa chẳng hạn, nó là con trai ông thợ nguội, kẻ chỉ ngồi trong quán rượu và uống liên miên, còn mẹ nó thì suốt ngày tối tăm mặt mũi với việc giặt giũ quần áo, đã mười hai tuổi nhưng nó chưa biết đọc và bắt đầu tập tọe theo bố vào quán rượu. Bà mẹ đành bó tay không biết làm gì với thằng bé, giá như có người nào đó dạy nó học và tách nó ra khỏi những việc làm xấu xa, thì dù không khá giả gì, mụ sẵn sàng trả công theo khả năng của mình... Trong tương lai còn có thêm một bé gái con ông thợ xây nữa, ông ta vừa mới sửa cho hai anh em họ chiếc lò sưởi trong năm nay và đôi khi phải đưa cả con gái theo. Còn cô bé Manka, con gái người gác nhà nữa chứ, con nhỏ ấy cũng sắp đến lúc phải học một thứ gì đó rồi. Cô đã biết khá rõ về những đứa trẻ ấy. Đã nhiều lần, cô dẫn thằng Kostus lớn xác vào nhà bếp của mình, ấn cái đầu rối bù của nó vào nước và kì cọ bằng xà phòng, nói chính xác là chà xát cả người thằng bé giống như mẹ nó giặt giũ quần áo ấy. Cái thằng Kostus bắng nhắng ấy, một đứa bé phổng phao, vai rộng như vậy, đầu to tướng, bước đi lúc nào cũng khom lưng, nện gót xuống nặng nề đến nỗi sàn nhà rung lên bần bật cũng là đứa trẻ nghịch ngợm, du côn, bắt đầu thích rượu, nhưng đối với cô, nó lại tỏ ra hiền lành như chú cừu non, cho phép cô tắm rửa, chải đầu, mắng mỏ... Cô tin chắc rằng có thể cứu vớt thằng bé ấy khỏi thói hư đường phố và quán rượu; còn với cô bé Manka nhỏ xíu kia thì từ lâu, hai chị em đã tỏ ra quyến luyến nhau rồi...
- Hơn nữa anh cũng biết đấy, anh Mieczek ạ, nói chung là em rất yêu trẻ con... Em không hiểu tại sao, nhưng đúng là như vậy... Có lẽ do bố truyền lại... Em đã nghĩ như thế và vậy là bây giờ đã tìm được công việc. Bà Roznowska đã giúp em... Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu. Cóp nhặt từng hạt một rồi sẽ tích thành đấu, còn về sau... về sau...
Tất cả những điều đó cô đã nói với sự phấn chấn càng lúc càng lớn hơn; trong căn phòng lờ mờ tối, cửa sổ hướng ra phía bắc, không một tia sáng mặt trời nào rọi vào người, thế mà trên vầng trán cô lấp lánh ánh hào quang và màu hồng cuộc sống ửng lên đôi má.
Mieczyslaw vừa uốn thẳng người ngồi lại cứng đơ vừa chăm chú nhìn cô không chớp mắt từ sau cặp kính của mình. Các đường nét trên bộ mặt tiều tụy và ngái ngủ của anh cũng bất động và thật khó mà đoán được liệu điều mà cô vừa nói có gây ra cho anh cảm giác gì hay tuyệt nhiên không. Chỉ có điều, đôi mắt của anh không dời khỏi khuôn mặt sống động của em gái và những ngón tay gầy gò của đôi tay dài, trắng muốt của anh đang đặt trên đầu gối càng lúc càng gõ nhanh hơn vào bộ quần áo đã sờn rách. Khi Joanna thôi không nói nữa, bằng giọng mũi chậm rãi của mình, anh nhắc lại câu cô vừa nói:
- Còn về sau!... về sau!...
Còn sau đó, bằng động tác đặc biệt, không hiểu là để biểu thị sự lo lắng hay bông đùa, vừa rụt đầu xuống dưới cổ áo sơ mi hồ cứng của mình, anh vừa do dự lên tiếng hỏi:
- Ôi... gì thế?... Em lập kế hoạch xa vời như vậy ư?... Thế em không nghĩ đến chuyện đi lấy chồng à?
Cô nhún vai.
- Em ngờ rằng chuyện đó chẳng bao giờ xảy ra. Anh biết là hầu như chúng ta không quen biết một ai cả, chúng ta không đi đến đâu... Vậy thì sao đây? Bằng cách nào? Kể ra thì cũng có thể... nhưng em không thể hạ mình làm việc đó.
Vẫn co ro trong chiếc cổ áo, nhưng đã nghển cao đầu hơn một chút, người anh trai vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm vào cô, chỉ có điều trên đôi môi mỏng dính viền dải ria mép đen đã dường như xuất hiện một nụ cười đùa cợt:
- Thế... - Anh lên tiếng - Cái anh chàng bác sĩ kia đâu?
Lần này thì mặt Joanna đỏ bừng và cô ngạc nhiên nhìn lên anh trai. Sao lại như vậy được? Có nghĩa là anh ấy đã đọc được trong ý nghĩ của cô điều mà cô chưa hề mở miệng nói ra với bất kì ai! Anh, con người thờ ơ và lúc nào cũng buồn ngủ như vậy, chắc phải quan sát cô tỉ mỉ lắm mới có thể đoán được, không hiểu từ đâu, có lẽ từ đôi mắt, từ sự co giãn trên nét mặt... Nhưng ở đây chẳng có gì để nói. Ở đây, hoàn toàn không có bất kì một mối tình lãng mạn nào, thậm chí một giả thiết nào về chuyện đó. Chỉ có điều là không hiểu sao trái tim đập sôi động hơn thôi. Khi người ta còn trẻ, phải có lúc nào đó trái tim buộc phải đập loạn nhịp, song ngay sau đó, nó đã lặng im, bởi không hi vọng.
Ánh hồng đã tắt trên khuôn mặt Joanna, đôi mắt và cặp môi cô biểu thị vẻ nghiêm trang đặc biệt. Sau giây lát im lặng, cô nói với giọng còn nhỏ hơn trước đây:
- Mieczek của em ơi, anh thừa biết rằng điều đó đối với em là ước mơ quá lớn... Bác sĩ Adam đối xử với chúng ta vô cùng tốt trong suốt quãng thời gian dài đau ốm của bố... Và em thành thực nói với anh rằng trong suy nghĩ của em, anh ấy là mẫu người lí tưởng. Nhưng cũng chính vì thế, đúng là như vậy, em biết rõ rằng anh ấy không nghĩ đến em và sẽ không bao giờ nghĩ đến đâu...
Cô cúi đầu xuống và tiếp tục nói nhỏ:
- Chỉ có điều anh biết đấy... thành phố của chúng ta thật chật chội... mọi người ở đây, người nọ biết về mọi thứ người kia và đôi lúc buộc phải gặp mặt nhau... vì vậy, em muốn anh ấy biết... là em... em biết rõ giữa chúng em sẽ không bao giờ xảy ra chuyện gì, nhưng em muốn... anh ấy biết là ít nhất em cũng đáng được hưởng sự tôn trọng của anh ấy...
Cô ngẩng mặt và ngước nhìn lên cao qua lớp kính cửa sổ, rất cao, như thể ở nơi xa xăm vô cùng tận trên kia, cô nhìn thấy ánh sáng của vầng cầu vồng lí tưởng đang treo lơ lửng trên cuộc sống ảm đạm của cô. Mieczyslaw ngẩng đầu lên từ chiếc cổ áo là cứng rồi lại cúi xuống. Các ngón tay của anh vẫn gõ nhịp trên đầu gối đầy xương xẩu, khóe miệng hé rộng ra đôi chút. Thật khó đoán được là anh đang cảm thấy buồn rầu, chán nản hay vẫn còn buồn ngủ. Đột nhiên, anh hỏi:
- Nào, thế thì họ sẽ trả em bao nhiêu?
Câu hỏi ấy lập tức đánh thức Joanna khỏi trạng thái trầm ngâm suy nghĩ hay mơ mộng. Cô liền hạ vầng cầu vồng lấp lánh trên cao của mình xuống để giải quyết những công việc của đời sống thường nhật, những thứ có ý nghĩa lớn lao đối với cô. Cô lại vui vẻ nói cho người anh trai nghe rằng thu nhập của cô chưa cao, nhưng sẽ có giá trị lớn trong cuộc sống chung của họ. Hơn nữa, đó chỉ mới là khởi đầu... Cóp nhặt từng hạt một rồi sẽ tích thành đấu, còn về sau... về sau...
Mieczyslaw đứng lên. Anh cứng đơ người, bước vài bước về phía trước, đôi tay gầy co ro trong hai ống tay áo rách bươm dang ra ôm ngang eo lưng em gái và anh hôn trán cô vài lần. Cô nhảy lên ôm cổ anh. Cô hết sức vui mừng và ngạc nhiên. Những biểu hiện tình cảm như vậy thật hiếm hoi mới xuất hiện ở người anh trai, sự trìu mến như thế này cô gần như không nhớ đã bao giờ được hưởng. Mãi đến khi người anh nhấc chiếc mũ lên, bước ra khỏi nhà đến văn phòng, cô còn ngồi một mình trong bếp với những ý nghĩ ngổn ngang trong đầu:
“Có phải anh ấy tỏ ra âu yếm đối với mình như vậy vì khoản thu nhập sắp tới không nhỉ? Có nghĩa là
trước đây anh không nghĩ về chuyện gì khác, chỉ nghĩ đến tiền!...”
Nhưng buổi tối hôm ấy, những ý nghĩ buồn rầu nhanh chóng rời khỏi cô. Khi màn đêm buông xuống, từ phía dưới sàn nhà bắt đầu ập đến chỗ cô những giọng nói đùa giỡn, tiếng gõ đập, tiếng hò hét mỗi lúc một to. Đó là giây phút khi ánh sáng ban ngày vừa tắt, quán rượu bừng thức và bắt đầu cuộc sống của mình. Có vẻ như tiếng vọng của cuộc sống ngầm ban đêm đó đã lập tức chiếm lĩnh cô. Joanna bật người dậy khỏi ghế dài và nhanh chóng chạy thẳng xuống sân trong của ngôi nhà. Cô chạy về phía căn hộ của gã thợ nguội suốt ngày say xỉn và vợ hắn, mụ thợ giặt. Dọc đường, váy của cô phe phẩy chạm cả vào bé gái nhỏ xíu, chân đất, má phình, mặt đỏ bừng, với động tác nhảy như vịt chạy bên và cùng với cô khuất bóng sau cánh cửa căn phòng nhỏ tối tăm. Sau khoảng thời gian tương đối lâu, khi hai người bước ra sân thì sau lưng họ xuất hiện gã thợ nguội, kẻ có đôi vai rộng, mặt sưng phù vì rượu, đôi mắt to mọng nước, tóc rối bù trùm kín vầng trán thấp. Từ bộ quần áo và toàn bộ con người hắn toát ra vẻ lộn xộn quen thuộc, song ngày hôm ấy, hắn không say mà chỉ tỏ ra hân hoan và xúc động vì một điều gì đó. Hắn cúi người khi bước ra sau ngưỡng cửa căn hộ nhà mình và sau khi nắm lấy bàn tay Joanna, hắn mang hết sức căng môi ra hôn cô. Cùng lúc đó, thằng Kostus to xác, vai rộng, nặng cân, toàn thân phủ kín trong bộ quần áo vải thô dày cộm, chân trần gõ thình thịch trên nền đá, vừa ôm bình nước đầy vừa chạy dọc theo bậc thang gác dẫn đến căn hộ của anh em nhà Lipski. Đã từ khá lâu, nó thỉnh thoảng lại làm những công việc khác nhau phục vụ cho Joanna. Chuyện lạ kì! Đứa bé trai ấy mới mười hai tuổi đã có vầng trán nhiều nếp nhăn và thường nheo mắt nhìn mọi người tỏ vẻ hoài nghi, đôi lúc còn giảo quyệt và hằn học. Người mẹ vất vả, làm lụng quần quật và suốt đời buồn khổ thường xuyên la mắng nó, thậm chí đánh nó; người cha, kẻ thường lẻn theo sau nó, mang từ quầy rượu những mẩu xì gà chưa hút hết và những mẩu bánh bích quy đầy mùi rượu về cho nó; nguồn vui sướng, niềm khoái cảm và mùi vị cuộc sống đối với nó là quầy rượu. Từ cách đây không lâu, trong trái tim trẻ thơ sớm già nua ấy, lần đầu tiên có thể nảy nở một tình cảm khác, không còn là sự tổn thương, sợ hãi, trần tục và những ấn tượng thô bỉ. Chưa bao giờ trong đời, nó nhìn thấy cô gái nào tuyệt vời như Joanna hiện lên trong mắt nó, và chưa bao giờ nó được nghe giọng nói êm dịu như thế, cả những câu chuyện thú vị như những chuyện mà cô đã kể cho nó mỗi lần cô nấu bữa ăn trưa hoặc khâu vá quần áo, còn nó làm giúp cô những việc có thể, hoặc khi nó ngồi bệt trên nền đất bên cạnh bức tường gian bếp, vừa lấy tay ôm hai đầu gối nhô cao vừa ngước nhìn lên cô không phải với đôi mắt nheo lại một cách hoang dã, mà bằng ánh mắt mạnh dạn và thận trọng. Kể từ lúc cô bảo nó phải đối xử tốt với bé Manka nhỏ xíu, nó không bao giờ đánh con bé, không trêu ghẹo, không dọa nạt và người ta thường thấy hai đứa nắm tay nhau thận trọng cùng bước từng bước qua mảnh sân trong của ngôi nhà. Chúng cũng cùng tỏ ra thận trọng như vậy khi leo lên các bậc thang gác và bước vào gian bếp nhà anh em Lipski.
Sau đó, hằng ngày trong gian bếp thường vang lên những âm thanh hết sức ồn ào, ầm ĩ. Từ sau bức tường mỏng của tầng trên vọng ra ngoài giọng trẻ con bập bõm đánh vần:
- A... b... c... A... b... c...
Giọng khác của những đứa lớn hơn một chút tập đọc:
- Con ong, dù nhỏ bé, cũng là loài côn trùng có ích. Nó có bốn cánh, sáu chân, hai râu và một ngòi châm...
Hoặc:
- Năm lần sáu bằng ba mươi..., mười trừ bốn bằng sáu v.v...
Thằng Kostus lớn đầu tỏ ra là người đặc biệt yêu thích môn Tập viết. Nó không thích gì hơn là đưa ngòi bút trên mặt tờ giấy, lúc ấn nhẹ lúc nặng tay, và khi bắt đầu tập viết chữ cái, nó có vẻ thực sự khoái trá với những kiệt tác của mình. Joanna tự mình viết những dòng chữ mẫu cho nó. Cô có dụng ý trong việc làm đó. Cậu bé sau khi đã viết kín trang giấy liền cầm quyển vở bằng cả hai tay, cúi gập đôi vai rộng trên bàn và với niềm vui chiến thắng cùng sự say mê thích thú, cậu đọc to những chữ mình vừa viết:
- Đừng bắt người khác phải chịu cái mà mình không thích... Dù nghèo, nhưng vẫn sạch... Bồ câu rán không tự rơi xuống bàn ăn...
Trong những lúc như vậy, Joanna chẳng cảm thấy buồn nữa. Thậm chí, khi cô bước trên các con phố của thành phố, có thể nhìn thấy trong nhịp đi của cô và trên nét mặt cô những sự thay đổi đáng kể. Trông cô nhanh nhẹn khỏe mạnh và dịu dàng hơn. Giày của cô không còn bị rách, cả váy áo cũng không tàn tạ nữa. Cô nở hoa. Thành quả cô đạt được tuy còn nhỏ bé, nhưng rõ ràng, khái niệm lớn nhỏ trên đời này chỉ là thứ hết sức tương đối. Đối với cô, những thứ bé nhỏ kia hầu như đã là sự cứu rỗi. Người này cho cô chút ít tiền, kẻ khác trả công cô theo cách mà họ có thể. Mụ thợ giặt đã giặt miễn phí quần áo cho anh em cồ;
ông thợ xây có mảnh vườn rộng đã mang đến cho họ rau xanh và hoa quả; gia đình người thợ làm bánh mì ở đối diện ngoài tiền công mỗi tháng một rúp còn gửi cho họ mỗi ngày một ổ bánh mì tròn; người gác nhà chặt củi cho họ không lấy tiền công, thỉnh thoảng còn mua cái nọ cái kia ngoài chợ mang về làm quà tặng cô vì cô đã đối xử thật tốt đối với con gái nhỏ của ông... Cô thực sự ngạc nhiên khi thấy ngay cả gã thợ nguội suốt ngày say xỉn trả công cô bằng một đồng tiền, kể ra cũng không giống đồng tiền bình thường, song đối với cô cũng có giá trị không hề thua kém. Biết bao nhiêu lần khi từ thành phố trở về, bước vào sân trong của ngôi nhà, con người ấy, không biết từ đâu cũng đồng thời xuất hiện. Hoặc sau khi nhìn thấy cô qua cửa sổ, gã chạy ra từ quầy rượu hoặc lẻn ra từ góc nhà mà gã đã lười biếng ngồi hàng tiếng đồng hồ, hoặc vào những ngày khá hơn, gã tạm dừng công việc đe búa và bước ra từ căn hộ của mình, chỉ biết rằng lúc nào cũng vậy, không bao giờ thay đổi, với mức độ đều đặn, chính xác như đồng hồ, đầu tóc rối bù, cái trán thấp tịt và tăm tối luôn cúi thấp trước cô, còn đôi môi vàng khè sưng phù đặt lên tay cô một nụ hôn kéo dài và kêu to chùn chụt. Đó thực ra là nụ hôn kinh tởm của một gã say, mà dấu vết của nó cô đã nhanh chóng chùi cho sạch khỏi tay mình hầu như vô thức, nhưng nó lại giống như viên kim cương rơi sâu vào trái tim cô. Như những viên kim cương, niềm vui ngời sáng long lanh trong mắt cô, khi cô mang về khoe với anh trai nửa tá áo sơ mi mới toanh trắng như tuyết thay cho những chiếc áo khi giặt đã bị rách ra từng mảnh. Cũng trong ngày hôm ấy, cô đã đính vào chiếc mũ đen muôn thuở của mình một nhánh hoa giả...
Bây giờ, cô nhìn mọi người với thái độ bạo dạn và bình thản; nhưng trong thành phố có một người đặc biệt mà cái nhìn của anh, hễ cứ bắt gặp là cô lại thèm khát, mặc dù cô đã cố không nghĩ đến điều đó. Với cha cô, anh là người đối xử vô cùng tốt trong thời gian dài ông bệnh tật. Lúc bấy giờ, cô thường xuyên nhìn thấy anh, nghe các cuộc nói chuyện lễ độ của anh với nhà giáo lâu năm trong nghề, sau đó, anh có đến dự tang lễ và khi thấy cô run rẩy bước xiêu vẹo sau quan tài, anh đã chìa vai mình ra để cô vịn tay vào. Và không có gì xảy ra giữa họ thêm nữa, nhưng không bao giờ cô quên điều đó. Bây giờ, cô chỉ nhìn thấy anh ngoài đường phố từ xa, khi anh ngồi trên chiếc xe nhỏ nhắn thắng một ngựa đi vòng qua các ngôi nhà bệnh nhân của mình. Mỗi lần phát hiện ra cô, anh đều cúi chào lễ độ. Không có gì thêm. Nhưng trong tim cô, một sợi dây đàn nào đó đã ngoan cố rung lên mỗi lần gặp anh và cất tiếng hát để cô nghe về anh trong những giờ phút im lặng sau đó. Cô nói với mình: “Mi là người không giống như vậy!”. Song không một ai có thể mang đến cho cô cảm giác nhẹ nhàng thanh thoát đến thế. Thỉnh thoảng, trong những đêm trăng sáng, được nghỉ ngơi sau ngày làm việc, vẫn còn chưa ngủ, qua lớp kính cửa sổ nhỏ, cô ngước nhìn lên cao, thật cao... Đó là niềm hạnh phúc lớn lao mà cô không dám mơ với tới, cô mường tượng đó là vầng cầu vồng lí tưởng treo lơ lửng ở miền xa vô tận trên mặt đất xám xịt...
Thỉnh thoảng, cô cũng tưởng tượng mình là con sâu bé nhỏ, nhảy loăng quăng cho đến khi kiệt sức trên nền tảng một công trình xây dựng cao chọc trời. Từ nền tảng*. Cụm từ ấy cô đã nghe thấy, đọc được ở đâu đó rồi. Bây giờ thì chính cô cũng đã đến đó. Ở trên cao thật sáng sủa và dễ chịu. Mọi người ở đó mang vác và đục đẽo những viên cẩm thạch, kéo tia nắng từ trên trời xuống, đi tìm ngọc ngà châu báu, cả thế giới và bản thân họ cũng biến thành ánh hào quang. Cô cùng với vô số những bản thể nhỏ bé giống hệt mình đang cóp nhặt những hạt bụi nhỏ xíu trong bóng râm, nhưng cô cảm thấy hoàn toàn thỏa mãn vì trong thế giới tưởng tượng của mình, tương lai trở nên dịu dàng viên mãn và thậm chí, từ trên dải cầu vồng của cảm giác lạ lẫm và mãi mãi câm lặng ấy không rơi xuống môi cô bất cứ giọt đắng cay nào, chỉ đôi lúc chảy đến chút nhớ thương và u buồn...
Từ nền tảng: một trong những khẩu hiệu chủ yếu của chủ nghĩa thực nghiệm, tức là mọi thứ phải bắt đầu từ việc nâng cao nền giáo dục đối với dân chúng (TG).
Thường thường trong đêm khuya, những tiếng hát hèn hạ, tiếng cười khả ố, tiếng gót giày trêu ngươi và tiếng gõ đập từ quầy rượu ở phía dưới qua sàn nhà phun ra ngập tràn gian bếp đen ngòm hoặc lờ mờ ánh trăng. Lúc bấy giờ, âm thanh hoang dã đó bay bổng bên trên tấm chăn đệm trắng, bay trên các ý nghĩ, các ước mơ và trên giấc ngủ êm đềm trong sáng trẻ thơ của Joanna.
•••
Mặc dù đã dạy khá nhiều trẻ nhỏ, cô vẫn không sao nhãng công việc nội trợ vặt vãnh của gia đình mình và anh trai. Vì thế ngày nào cũng vậy, mỗi ngày một hoặc hai lần, cô ra thành phố để mua thực phẩm và giải quyết các công việc khác nhau. Trong những cuộc du ngoạn ấy, cô thường hay phải đi ngang qua ngôi nhà trụ sở Tòa án đường bệ nọ, nhưng không bao giờ cô để ý dù chỉ là thoảng qua đến nó. Tòa nhà lớn lao đến thế, còn cô thì bé nhỏ chừng này! Không gian rộng lớn bên trong tòa nhà đó luôn đầy ắp tiếng vang của các cuộc tranh cãi và tội lỗi, vì vậy cô thì có cái gì có thể liên quan đến nó cơ chứ? Tuy vậy, chuyện đã xảy ra - tại sao, thật khó mà hiểu nổi - một ngày kia, cô đã bước vào một trong những sảnh lớn của tòa nhà ấy và ngay sau đó, người ta chỉ cho cô chỗ mà cô phải đứng. Đó là hàng ghế dành cho những kẻ bị buộc tội. Mãi về sau, cô cũng không bao giờ hiểu nổi bằng cách nào cô đã vượt qua được đám đông và đi đến chỗ đó. Lúc bấy giờ, cô có cảm giác rằng toàn bộ lượng máu của mình đều dồn cả lên đầu, nó sôi lên sùng sục, nó réo gào kêu thét, cháy rừng rực ở má và trán giống như thanh sắt nung đỏ. Trong mắt cô, những con người, tường nhà, đồ đạc cứ nhạt nhòa như sương khói và rối ren đến mức cô chỉ nhìn thấy quanh mình một đám hỗn độn đầy màu sắc lấp lánh. Cuối cùng, khi đã nhận biết được rằng trong đám hỗn độn kia có vài trăm con mắt đang hết sức tò mò nhìn chòng chọc vào mình, cô có cảm giác giống như bỗng nhiên người ta xé rách toàn bộ quần áo che thân rồi mang cô ra đặt giữa quảng trường thành phố. Cô muốn ngay lập tức vùng thoát ra và chạy trốn, nhưng con người mệt mỏi đến tột cùng của cô mách bảo rằng điều đó không thể thực hiện được. Những kẻ giờ phút ấy nhìn cô đã trông thấy trước mắt họ một cô gái mảnh khảnh, dịu dàng trong bộ quần áo đen khiêm nhường run rẩy sợ hãi, toàn thân cháy đỏ đến tận chân tóc.
Đó chính là sảnh lớn nhất của tòa nhà lớn. Bề cao gần như bằng nhà thờ mang đến cho nó dáng vẻ oai nghiêm, đường bệ; còn những tấm thảm và tấm khăn đỏ thắm phủ chiếc bàn dài mà phía sau nó, các vị quan tòa ngồi tạo ra cảm giác long trọng. Đám đông người đủ mọi tầng lớp đã lấp kín các hàng ghế đặt ở gần lối vào. Bốn ô cửa sổ lớn trổ cao tít trên các bức tường ngang hắt tia sáng trắng đơn điệu mệt mỏi lên các bức tường cao cũng trắng nhởn một màu đơn điệu, hắt lên vóc dáng oai phong của các vị quan tòa, lên đám đông đầy màu sắc không ngừng di động, đang thầm thì trò chuyện trong im lặng và trễ nải chiếm lĩnh nửa sảnh đường. Đây đó một bông hoa sặc sỡ đung đưa trên đầu phụ nữ, một câu nói to vang vọng ở trên cao. Người chạy giấy của tòa lớn tiếng nói vài lời hết sức đĩnh đạc và bầu không khí tĩnh lặng bao trùm, giây lát sau nghe rõ giọng nói của vị chánh án:
- Vụ Joanna Lipska bị kết tội duy trì trường học không có giấy phép của chính quyền...
Những lời nói đó đã thức tỉnh Joanna. Cô đứng lên và trả lời mấy câu hỏi của chánh án bằng giọng nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng. Sau đó, cô lại ngồi xuống. Những tia lửa đỏ không còn xuất hiện trên mặt cô nữa, nước da trắng nhợt của cô được phơi bày. Ngay lúc đó, có thể nhận thấy cô đang bị những dòng suy nghĩ dồn dập tấn công mạnh mẽ đến mức thị giác và thính giác đã hoàn toàn tách khỏi cảnh tượng đang diễn ra trước mắt và bao bọc ngay sát quanh cô. Trong đôi mắt mở to của cô hiện ra nỗi kinh ngạc lớn lao. Cô nâng nó lên cao về phía vòm mái đúc cổ lỗ trang trí phía trên bức tường đối diện; đôi lúc, cô lúc lắc đầu như thể từ bên trong con người mình, cô đang cố gắng cắt nghĩa một điều gì đó vô cùng khó hiểu và cô đã không tài nào hiểu nổi. Thật khó nói là liệu cô có để ý gì đến lời khai của những người làm chứng hay không. Nhưng những lời khai đó thật sự được nói rất to và diễn ra khá lâu. Bà già to béo tóc hoa râm Roznowska trong chiếc áo choàng đan kiểu cổ, chiếc mũ có bông hoa đỏ thêu chìm, lấy khăn mùi xoa lau mồ hôi nhỏ giọt trên khuôn mặt khá bự và độ lượng của mình, mấy lần nhắc đi nhắc lại lời khai rằng bà chính là người có lỗi trong mọi chuyện. Lương tâm bà không cho phép nói khác. Bà thề rằng sẽ nói sự thật và bà đang nói đúng sự thật. Bà là người đầu tiên gợi ý Lipska làm việc đó. Cô bé nghèo và mồ côi cần có thu nhập, còn bà có các cháu gái. Nếu như biết chuyện này có cái gì xấu xa, chắc chắn bà đã không gợi ý, nhưng bà thề trước Chúa Jesus rằng bà không hề nghĩ là đã xúi giục cô làm điều xấu. Tóc bà đã bạc, cả cuộc đời bà trải qua trong thành phố này và mọi người đều có thể đứng ra làm chứng rằng bà chưa xúi giục ai làm điều gì không lương thiện bao giờ. Bà sụt sịt khóc, một lần nữa nhắc lại rằng chính bà đã gợi ý..., thậm chí đề nghị... song người ta ra hiệu cho bà đừng nói nữa và ngồi xuống. Người bạn thân của chủ tiệm là ủi, người sở hữu hai căn nhà, một người đàn bà bé nhỏ, khô khốc, nổi bật trong đám đông vì bộ váy áo dệt bằng len tuyệt đẹp, với kiểu cách trang nhã, bằng giọng nói hạ thấp, nụ cười vô cùng duyên dáng, đã tuyên bố rằng những quyển sách được dùng làm corpus delicti* đang nằm trước tòa thực ra là do bà mua tặng Lipska, người đã chuẩn bị cho con trai bà vào học lớp vỡ lòng tốt đến mức, giờ đây, nếu như không vì còn quá nhỏ, người ta đã có thể nhận thẳng nó vào seksta*. Cô ta đã dạy học rất tận tâm... tận tâm đến mức bà cảm thấy có trách nhiệm phải nâng mức tiền công trả cho cô. Nếu như biết chuyện này có cái gì xấu xa thì chắc chắn bà đã không làm điều đó, nhưng bà lấy danh dự ra thề rằng bà không biết. Biết làm sao đây? Kẻ nào có con trẻ, kẻ đó buộc phải chăm lo giáo dục nó, trong khi ở đây, ngay bên cạnh có một gia sư tử tế tận tâm và lấy tiền công rẻ hơn người khác, vì vốn là cô gái mồ côi... Đến đây, bà làm động tác cúi đầu lịch thiệp và hết sức kính trọng trước quan tòa, sau động tác đó, bà nở nụ cười duyên dáng, nhưng với đôi môi hơi run rẩy và mí mắt chớp chớp, ngồi xuống cạnh Roznowska.
Corpus delicti (nguyên văn tiếng Latinh): tang vật phạm tội (TG).
Septima, seksta (nguyên văn tiếng Latinh): tên gọi những lớp học khởi đầu bậc phổ thông thời thuộc Phổ (TG).
Với người bị thẩm vấn tiếp theo, mụ thợ giặt, vợ gã thợ nguội suốt ngày say xỉn, hầu như chẳng khai thác được gì, vì người đàn bà cao gầy với khuôn mặt nhìn theo cả chiều ngang lẫn chiều dọc đều hằn rõ nỗi đau buồn lo lắng, trong chiếc váy dày cộm ngắn cũn, với tấm khăn lớn buộc ngang đầu, đã tỏ ra sợ hãi và đáng thương đến mức ngoài mấy tiếng phát ra lí nhí chỉ vừa đủ nghe thấy, không thể nói được gì. Vai mụ run lẩy bẩy dưới tấm khăn quàng lớn, từ đôi mắt lúc nào cũng bị làn hơi nước sôi sục mịt mù thiêu đốt, những giọt nước mắt nóng bỏng như sắt nung cứ rơi lã chã lên đôi tay to dày, bỏng rát đặt chéo ngang ngực. Tất cả lời khai của mụ người ta chỉ có thể nghe thấy những cụm từ như: “đứa con trai mười hai tuổi”, “người cha say”, “quán rượu ngay dưới nhà”, “việc học hành”, “cô gái tốt”... Người ta nhanh chóng tống khứ mụ khỏi đó nhường chỗ cho ông thợ xây. Thay cả cho mình lẫn người đàn bà trước đó, ông nói nhiều, nhanh và to đến mức đã vài lần, người ta đề nghị ông hạ thấp giọng, lệnh ấy lập tức được tuân thủ, nhưng bàn tay đầy mạch máu chắc nịch vừa sờ vào sợi dây làm bằng đồng của chiếc đồng hồ đeo tay hoặc vò lên mớ tóc rậm rạp cứng đơ trên đầu, ngay sau đó, ông lại tỏ ra sốt sắng nhiệt tình và lên giọng to hơn mức cần thiết. Ông chứng minh rằng vì sự dạy dỗ con gái mình, ông đã trả công cho cô gái bằng khoai tây và rau quả, điều đó cho thấy ông mong muốn con gái mình tiếp thu được một điều gì đó. Nếu gửi con vào trường có kí túc xá thì đối với ông là quá đắt. Do vậy biết làm gì đây? Và ông đã gây ra điều gì? Hoặc cô gái kia, cô ta đã gây nên điều gì?... Sau khi đặt câu hỏi, ông chìa hai tay ra và giương mắt lên nhìn như để biểu lộ rằng trước mắt mình, thế giới đang bị đảo lộn và ông không tài nào hiểu nổi tại sao chuyện đó lại xảy đến với mình? Sau ông thợ xây, lần lượt cho khẩu cung và đứng ra làm chứng là ông thợ làm bánh mì, người gác nhà, người đánh xe ngựa và bà góa có chồng trước đây là công chức và cuối cùng, đứng khai lâu nhất, chính là kẻ đã có công phát hiện ra rằng trên tầng gác nhỏ của căn nhà, mà phía dưới là quầy rượu, nhóm trẻ em nhỏ tuổi đã biết được rằng con ong có bốn cánh, sáu chân, hai râu và một ngòi châm, rằng mười trừ bốn bằng sáu,rằng không nên bắt người khác làm điều mình không muốn v.v...
Trong giây phút im lặng tạm thời vừa được tạo nên, khi giọng nói của người làm chứng cuối cùng câm lặng, ánh mắt Joanna chậm rãi phóng từ phía trên xuống đám đông đang tập trung ở nửa sảnh. Tất cả mọi người đều ngồi trên các hàng ghế dài im lặng, chăm chú theo dõi diễn biến của phiên tòa. Phía bên trên đám đông đầy màu sắc và bất động đó nổi bật lên một người, kẻ không ngồi mà đứng. Để có thể nhìn rõ mọi thứ, anh đứng phía sau mọi hàng ghế, trên một gồ cao, hai bả vai dựa hẳn vào tường cứ như mọc từ đó ra. Đôi mắt Joanna ghim vào mặt anh và bộc lộ vẻ sợ hãi đến khiếp đảm.
Đó chính là anh trai cô, nhưng anh ăn mặc khác hẳn mọi ngày! Hai cánh tay gầy khô khốc trong chiếc áo rách bươm đặt chéo sát trước ngực; trên đôi má nhợt nhạt như tờ giấy của anh xuất hiện những vết đỏ kéo dài đến tận gọng mắt kính đen. Anh thở gấp gáp và môi hơi hé mở, tình trạng đó cũng thường xảy ra với anh, chỉ có điều trong giây phút đó, nét đặc trưng của khuôn mặt anh không gây cho cô cảm giác đó là biểu hiện của sự ngớ ngẩn hoặc thờ ơ, mà là sự đớn đau không thể nào diễn tả nổi. Với sự chăm chú tột độ, anh lắng nghe lời buộc tội ngắn nhưng rất quyết liệt mà vị công tố viên tuyên và những lời bào chữa thiếu mạch lạc của vị trạng sư. Sau đó, chánh án hướng đến Joanna tuyên bố cho cô biết cô có quyền phát biểu lời cuối cùng về vụ án trên và hỏi liệu có điều gì cô có thể nói và muốn nói để tự bào chữa cho mình.
Sau hàng lan can cao và nặng nề của ghế bị cáo, cô gái mảnh khảnh, tóc vàng sáng, mặc bộ quần áo đen một lần nữa lại đứng lên. Với hai mí mắt cúp xuống, dáng vẻ bình thản, chỉ có giọng hơi run run, cô nói:
- Tôi đã dạy bọn trẻ con học, tôi nghĩ rằng mình làm điều tốt...
Đến đây, trong giây lát, trên khuôn mặt cô bỗng có sự đổi thay đập vào mắt mọi người. Giống như có một cảm giác nào đó bỗng sôi sục dâng trào trong cô, cô ngẩng cao vầng trán, đôi mắt cháy sáng, miệng run run và vừa sửa lại câu cuối cùng của mình, cô vừa cất tiếng rất to và dõng dạc:
- Tôi nghĩ rằng mình đã làm đúng.
Cô là người có tội một trăm phần trăm. Nhưng một điều thật lạ lùng xảy ra là tại sao chánh án không đứng ngay dậy cùng đi với các vị quan tòa khác vào phòng luận tội mà lại ngồi thừ ra vài phút với cái đầu hơi ngẩng cao nhìn chằm chằm vào bị cáo như nhìn vào vầng cầu vồng - với nét mặt biểu lộ cái gì? - Điều đó vì ở xa nên không một ai trong đám đông nhận biết được. Các vị quan tòa khác cũng nhìn lên cô, trong đó có một vị mí mắt vội vàng cụp xuống. Khoảnh khắc đó diễn ra ngắn ngủi, cùng lắm chỉ một hoặc hai phút, sau đó, họ đứng lên và rời đi. Hồi lâu sau chưa thấy họ trở lại. Vụ việc đơn giản và rõ ràng. Tại sao cuộc thảo luận lại kéo dài lâu như vậy?
Bằng giọng ầm vang như kèn đồng, người chạy giấy tòa án tuyên bố các vị quan tòa đang trở lại sảnh đường.
Tất cả mọi người như hàng cây rì rầm xào xạc cùng đứng cả lên. Phía sau dãy bàn phủ nỉ, chánh án đứng cùng với các vị quan tòa khác và bắt đầu tuyên án. Người ta để ý thấy rằng ông ta đọc bằng giọng nhỏ hơn so với giọng trước đây thường nói:
- Joanna Lipska buộc phải nộp hai trăm quan tiền phạt, còn trong trường hợp không trả được sẽ bị phạt tù ba tháng.
Phiên tòa kết thúc; công chúng rời khỏi sảnh, ở chỗ nọ chỗ kia, các vị luật sư thì thầm to nhỏ với nhau rằng cô gái ấy đúng là gặp may, vì có thể chuộc tội bằng khoản tiền chi phí nhỏ.
Nhưng cái lớn và cái nhỏ chỉ là khái niệm hết sức tương đối. Mieczyslaw Lipski chắc cũng nghĩ như vậy, vì sau khi nghe bản án, anh không để lộ ra bất kì cảm xúc nào và vẫn chỉ đứng cạnh tường như lúc trước, hai tay đặt chéo ép sát ngực. Một công chức nào đó trong chiếc cổ áo sơ mi thêu vàng hiếm thấy đi ngang qua đó và sau khi phát hiện ra anh, ông ta liền dừng lại trước mặt. Rõ ràng là ông ta biết anh và đã lên tiếng với nụ cười thân thiện:
- Ôi, anh Lipski đấy à? Mọi chuyện kết thúc thật may mắn. Song sẽ ra sao đây? Nộp tiền phạt hay vào tù? Sáng mai, tôi sẽ đến chỗ anh sớm. Nhưng tốt hơn hết là anh hãy trả tiền phạt... Hai trăm quan không phải là cái gì to tát, cô gái thật đáng thương...
Và ông ta vội vã chạy ra ngoài. Mieczyslaw cũng lập tức bứt người ra khỏi bức tường và nhảy về phía cửa ra vào. Vài người bạn cùng văn phòng định giữ anh lại nói gì đó, có lẽ định khuyên răn... Nhưng đôi mắt anh bỗng ngời lên cháy sáng đến mức sau cặp kính đen vẫn nhìn thấy những tia sáng vọt ra, còn hai cùi tay nhọn hoắt thì vung ra đẩy lùi tất cả mọi người và mọi thứ ở xung quanh. Cứ như vậy, anh lao vào một phòng dài và sáng với những ô cửa sổ rất lớn, công chúng cũng đang lũ lượt chảy tràn qua đó rồi chậm rãi mất hút trên những bậc cầu thang ở phía dưới. Đến đây, anh ngoái đầu nhìn lại và ở phía sau
một ô cửa sổ đã trông thấy Joanna, người vẫn đang đứng ở đó, có thể là để chờ anh, cũng có thể vì không còn sức lực hoặc lòng dũng cảm tự mình mở một lối đi giữa đám đông. Trong lúc đó, cô đang đưa mắt nhìn về phía nhóm người đứng ở cuối phòng. Đấy là hai người phụ nữ và một người đàn ông mà hầu như cả thành phố đều biết, tuấn tú, được nhiều người hâm mộ, đặc biệt được các cô gái quý mến, đó chính là bác sĩ Adam. Cũng giống như rất nhiều người khác, anh ta đến đây để nghe về một vụ án thú vị và dễ dàng nhận thấy là anh đang đi ra với những xúc cảm hết sức nghiêm túc và buồn rầu. Tuy vậy, khi một trong hai cô bạn, cô gái cao ráo và ăn mặc chải chuốt cười nói gì đó với anh, anh cũng cười đáp lại và đến đầu cầu thang liền vội vã đưa vai cho cô vịn. Trong giây phút ấy, Joanna cảm thấy có ai đó nắm lấy tay mình và cô nhìn thấy Mieczyslaw, kẻ đang cúi ngay trước mặt cô và vội vã nói khẽ:
- Em hãy về nhà một mình. Bây giờ anh không thể đi cùng em. Anh có việc cần giải quyết trong thành phố. Vài tiếng nữa anh về. Cứ đi một mình về nhà đi.
Anh nhìn cô vẫn với ánh mắt cháy bỏng và vừa bóp chặt bàn tay cô vừa nói thêm:
- Đừng sợ... Em đừng sợ gì hết... Đừng sợ!
•••
Vài tiếng đồng hồ sau, Mieczyslaw Lipski bằng những bước đi chán nản lần mò bước lên bậc cầu thang căn hộ nhà mình, chậm rãi đi qua gian bếp và khi đến căn phòng bên cạnh thì rên lên một tiếng rất lớn rồi ngồi xuống bộ đi văng cứng cổ lỗ của mình. Rõ ràng là anh tỏ ra vô cùng chán nản, khuôn mặt trở lại tình trạng trắng bợt như tờ giấy; với điệu bộ trầm ngâm suy nghĩ và lo lắng, anh đưa bàn tay trắng thon dài của mình di di trên vầng trán đầy nếp nhăn. Anh hoàn toàn không ngạc nhiên khi không nhìn thấy Joanna trong bếp. Có lẽ cô đã đi xuống sân trong của ngôi nhà đến chỗ mụ thợ giặt hoặc có thể bà già tốt bụng Roznowska hôm ấy đã đón cô về nhà mình.
Nhưng Joanna đang có mặt trong gian bếp, chỉ có điều cô ngồi ở một góc tối, giấu mình phía sau thành cao của chiếc giường. Khi nhìn thấy người anh trai bước vào, cô không đứng ngay dậy giống như thường làm để chào đón và hỏi xem anh có cần gì không. Có lẽ cô không thể ngay lập tức bứt mình ra khỏi trạng thái đăm chiêu suy nghĩ hay đang cảm thấy hơi buồn vì anh về nhà chậm như vậy. Song vài phút sau, cô đã đứng lên và từ tốn nhẹ nhàng bước vào phòng bên cạnh.
- Thế là em đã về! Em vừa ở đâu về?... - Mieczyslaw hỏi.
- Em vẫn ngồi ở nhà, chỉ có điều anh không nhìn thấy thôi. Bà Roznowska có cho người đến mời em đến nhà bà ấy hôm nay, nhưng em không muốn... Em nghĩ anh sẽ về ngay... Sao anh về muộn thế?...
- Ừ, muộn rồi. - Chàng thư kí càu nhàu.
Sự thờ ơ ấy của người anh trai trước số phận của cô đã khiến tim cô nhói đau. Cô đứng cách anh vài bước với đôi tay đặt chéo trên váy, đôi mắt cụp xuống buồn rầu và sáng long lanh trên khuôn mặt vô cùng ảm đạm.
- Em nghĩ là anh sẽ muốn nói chuyện với em trong ngày cuối cùng... trước khi rời xa nhau...
- Ngày cuối cùng nào? Rời xa cái gì? - Người anh lại tiếp tục làu bàu.
- Anh không nhớ là ngày mai người ta sẽ bắt em vào tù ư?
Trên gương mặt cô thoáng hiện lên những co giật bất bình. Ngay sau đó, cô nói tiếp:
- Ba tháng là khoảng thời gian khá dài... và sau đó chắc chắn em sẽ không về ở với anh nữa, em sẽ đi đâu đó làm công việc phục vụ nào đó... Vì vậy cần phải nghĩ đến công việc gia đình của anh. Tối nay, em sẽ ghi chép lại toàn bộ số quần áo của anh để anh biết anh có cái gì và đừng để bị người ta lấy cắp mất. Em sẽ hẹn bà mẹ thằng Kostus để mỗi ngày, ngay từ sáng sớm bà ấy đến nhà dọn dẹp và đặt ấm đun trà lên bếp cho anh. Anh sẽ không ăn ở nhà, vì ai là người sẽ nấu cho anh đây? Nhưng em sẽ đến nhà bà Roznowska để hỏi xem liệu bà ấy có cho anh trả tiền để được ăn bữa trưa hay không. Anh sẽ được ăn ở chỗ bà ấy sạch sẽ và bổ dưỡng hơn ngoài quán ăn... Anh cũng nên nhớ rằng khi ngồi viết buổi tối phải thắp đèn cẩn thận, do anh thường hay làm căn phòng sặc sụa đầy khói và mùi khét, điều đó rất có hại cho mắt anh... Trong chạn để thực phẩm ở gian bếp có một ít bơ, tấm và bột, còn ở dưới hầm có khoai tây và khá nhiều rau quả... anh nên đưa cho bà Roznowska thì tốt hơn nếu như anh ăn trưa ở đó. Như vậy sẽ tiết kiệm được một khoản tiền...
Khi cô nói như vậy thì Mieczyslaw nhìn lên cô với ánh mắt ngạc nhiên. Trong đôi mắt sớm bị hủy hoại và bệnh tật ấy chứa đựng bao nhiêu niềm hân hoan vui sướng và cả nỗi buồn đau, đến mức thật khó nói
liệu ngay giờ đây, anh sẽ bật ra tiếng cười hay tiếng khóc. Khi Joanna ngừng lời, anh hỏi:
- Em nói xong rồi phải không?
- Vâng, - cô đáp - cũng có thể sẽ tiếp tục nếu tối nay và sáng mai em nhớ thêm được điều g