← Quay lại trang sách

GIẤC MƠ CỐI XAY GIÓ

Antek sinh ra tại ngôi làng bên bờ sông Wisla.

Làng nằm trên một thung lũng không lớn. Bao phủ phía bắc làng là những ngọn đồi dốc thoai thoải, bên trên có rừng thông, còn phía nam là các ngọn đồi chỗ cao chỗ thấp mọc đầy dẻ, mận dại và sơn trà. Ớ đó, chim chóc hót to nhất và bọn trẻ con trong làng cũng hay đến nhất để hái quả bồ đào hoặc tìm tổ chim.

Khi bạn đứng ở giữa làng, bạn có cảm giác rằng hai ngọn núi nọ chạy đến với nhau và sẽ gặp nhau ở một điểm mà buổi sáng ông mặt trời đỏ lòm thức dậy. Nhưng đó chỉ là ảo giác.

Vì phía sau làng có một thung lũng kéo dài giữa các ngọn đồi, với một con sông nhỏ cắt ngang và phủ bên trên là cánh đồng cỏ xanh rờn.

Tại đó, người ta chăn đàn gia súc và tối tối, những con cò chân cao lêu đêu thường đi bắt lũ ếch nhái kêu om sòm.

Từ phía tây làng có một con đập chắn nước, phía sau đập là sông Wisla, còn phía sau sông Wisla lại là những ngọn đồi đá vôi trọc lốc.

Mỗi ngôi nhà nông dân đều được một lớp mái rơm màu xám bao phủ và có vườn cây, còn trong vườn là những cây mận và ẩn mình giữa đám cây đó là các ống khói phủ đầy muội than đen ngòm và thang dùng để chữa cháy. Những cái thang ấy được đưa vào chưa bao lâu, mọi người đều nghĩ rằng nó sẽ giúp bảo vệ các ngôi nhà trước hỏa hoạn tốt hơn so với các tổ cò xưa kia. Chính vì vậy, khi một ngôi nhà nào đó bị cháy, mọi người đều vô cùng ngạc nhiên, song không ai đi cứu hỏa.

- Rõ ràng là chủ nhân ngôi nhà đó đã gặp phải điều bất hạnh. - Mọi người nói với nhau - Ngôi nhà bị cháy trụi, mặc dù rõ ràng có trang bị cây thang mới và đã đóng tiền phạt vì cây thang cũ bị gãy mấy bậc.

Trong ngôi làng như vậy, Antek đã ra đời. Người ta đặt cậu nằm trong một chiếc nôi không sơn, chiếc nôi còn lại từ đứa anh trai bị chết và cậu đã nằm trong đó hai năm. Sau đó, cô em gái của cậu, Rozalia, chào đời, vì vậy cậu phải nhường chỗ cho em, còn bản thân cậu, với tư cách một người đã lớn, chuyển sang nằm ở chiếc ghế dài.

Một năm liền, cậu đưa nôi cho em, còn suốt năm tiếp sau đó - cậu ngắm nghía thế gian. Một lần cậu lao xuống sông, lần thứ hai bị một trận đòn từ người đánh xe đi ngang qua vì suýt nữa thì lũ ngựa đã giẫm lên cậu, còn lần thứ ba, cậu bị lũ chó cắn đến nỗi suốt hai tuần sau đó, cậu phải nằm cạnh bếp lò. Vậy là cậu đã từng trải khá nhiều. Vì vậy, đến năm lên bốn tuổi, cậu được người bố tặng cho chiếc áo ghi lê dài phủ gối của mình với chiếc cúc bằng đồng thau, còn người mẹ - lệnh cho cậu phải bế đứa em gái.

Khi lên năm tuổi, cậu đã phải đi chăn lợn cho người ta. Nhưng Antek không quan tâm nhiều đến chúng. Cậu thích nhìn sang bên kia sông Wisla hơn, nơi phía sau dãy đồi đá vôi thỉnh thoảng lại xuất hiện cái gì đó cao và đen. Cái đó luồn ra từ bên trái cứ như từ dưới đất chui lên, đi lên phía trên cao và đổ xuống bên phải. Cái đầu tiên vừa đi qua, ngay sau đó cái thứ hai đi tới và đến cái thứ ba, đều đen và cao như thế cả.

Lũ lợn theo thói quen vẫn lẩn vào các luống khoai tây. Bà mẹ, sau khi phát hiện ra điều đó đã quấn chiếc áo ghi lê dài quá đầu gối của Antek lại khiến cho cậu bé gần như không thể thở nổi. Nhưng cậu không có trong tim tính hung hăng, do bản chất cậu là đứa bé tốt. Sau khi hét to và giằng chiếc áo ghi lê ra, cậu hỏi mẹ:

- Mẹ ơi! Cái gì đen như thế đi ở bên kia sông Wisla hở mẹ?

Người mẹ nhìn theo hướng tay chỉ của Antek, lấy một tay che mắt rồi đáp:

- Ở đằng kia, phía sau sông Wisla hử? Có gì đâu, mày không nhìn thấy à, đó là cái cối xay gió đang chạy. Lần sau thì hãy trông nom lũ lợn cẩn thận, không thì tao sẽ cho mày ăn roi gai đấy.

- A ha, cối xay gió! Mẹ ơi, thế nó là cái gì vậy?

- Ôi, mày thật là ngu ngốc. - Người mẹ đáp và vội đi làm việc của mình. Đâu có thời gian và trí óc để giảng giải về những cái cối xay gió cơ chứ!...

Nhưng cái cối xay gió không để cậu bé được yên. Antek nhìn thấy nó mỗi ngày. Cậu bé nhìn thấy nó cả trong mơ vào ban đêm. Vì vậy, trong người cậu bé nổi lên một sự tò mò kinh khủng, khiến cho một ngày nọ cậu lẩn lên phà, phương tiện đưa người sang bên kia sông, và bơi sang bên kia sông Wisla.

Cậu bé bơi qua sông, leo lên núi đá vôi, đúng vào địa điểm có biển thông báo không nên đi qua, và cậu đã nhìn thấy cái cối xay gió. Cậu có cảm giác ngôi nhà ấy giống như cái gác chuông, chỉ có điều ở bên trong có vẻ dày hơn, còn ở chỗ mà gác chuông có ô cửa sổ, thì ở đây có bốn cánh rất lớn đặt theo hình chữ thập. Lúc đầu cậu không hiểu gì cả - đó là cái gì và để làm gì? Nhưng những người chăn gia súc đã giảng giải cho cậu hiểu, vì vậy cậu đã biết mọi thứ. Trước hết, cậu biết về chuyện gió thổi vào cánh quạt và xoay tròn chúng giống như những chiếc lá. Sau đó, cậu biết trên cối xay gió người ta xay lúa mì thành bột, và cuối cùng biết về chuyện bên cạnh cối xay gió người thợ xay ngồi, người đó thường đánh vợ, và là người thông minh đến mức biết bằng cách nào nhử được lũ chuột ra khỏi kho chứa lúa mì.

Sau khi được biết bài học tổng quan như vậy, Antek quay về nhà bằng chính con đường lúc trước. Những người vận tải đã nện cho cậu mấy cái vào đầu vì việc làm hăng máu của cậu, cả bà mẹ cũng nện vào chiếc áo ghi lê của cậu, nhưng điều đó chẳng là cái gì: Antek tỏ ra hài lòng, vì đã thỏa mãn tính tò mò. Vì vậy, mặc dù đặt mình nằm ngủ trong lúc bụng đói, suốt cả đêm cậu mơ tưởng về cái cối xay gió, cái dùng để xay lúa mì, lúc thì mơ tưởng về người thợ xay, kẻ thường đánh vợ và biết nhử chuột ra khỏi kho.

Sự cố nhỏ này đã có ảnh hưởng quyết định đến cả cuộc sống của cậu bé. Kể từ lúc đó - từ khi mặt trời

mọc đến lúc hoàng hôn - cậu luôn bào các que củi trong tay và xếp thành hình chữ thập. Sau đó cậu bào các cây cột, thử đẽo, cắt gọt, sắp đặt cho đến khi làm được một chiếc cối xay gió nhỏ, quay được trong gió giống như cái cối xay ở bên kia sông Wisla.

Niềm sung sướng mới lớn làm sao! Bây giờ, Antek chỉ còn thiếu có cô vợ, để có thể đánh và cậu đã trở thành một người thợ xay thứ thiệt!

Đến năm lên mười, cậu đã làm hỏng bốn con dao to bản, nhưng bằng những con dao đó, cậu cũng đã làm ra những đồ vật kì lạ. Cậu làm các cối xay gió, các hàng rào, cây thang, giếng nước, thậm chí cả những ngôi nhà nguyên vẹn. Đến nỗi mọi người đều cân nhắc và nói với mẹ cậu bé, rằng Antek sẽ trở thành một người thợ cả hoặc kẻ nhặt giẻ rách tầm cỡ.

Trong thời gian đó, cậu lại có thêm một đứa em trai nữa là Wojtek, cô em gái đã lớn, còn người bố bị một cây gỗ đè chết ở trong rừng.

Ở nhà với Rozalia thật quá thoải mái. Mùa đông, cô bé lau chùi phòng ở, mang nước về, thậm chí còn biết nấu xúp lúa mạch. Mùa hè, người ta phái cô bé đi cùng Antek ra chăn bò, bởi cậu bé bận bịu với việc đẽo bào, không bao giờ chăm sóc chúng. Còn cái gì mà người ta không đánh đập, không van nài, không khóc lóc vì cậu! Cậu bé kêu gào, hứa hẹn, thậm chí khóc lóc với mẹ, nhưng cậu vẫn làm việc của cậu, còn lũ bò vẫn phá phách gây thiệt hại.

Chỉ đến khi cô em gái cùng với cậu chăn dắt thì tình hình mới tốt lên: cậu bé bào đẽo các cây gậy, còn cô bé chăm nom đàn bò.

Nhiều lần thấy rằng con bé mặc dù nhỏ hơn nhưng có trí khôn và nhiệt tình hơn Antek, bà mẹ chỉ còn biết đau lòng phẩy tay và than vãn với người bạn già Andrzej:

- Tôi biết làm cái gì với thằng Antek lạ đời này, thật là bất hạnh! Ở nhà nó chẳng làm gì, đàn bò cũng không chăm nom, chỉ cắt gọt những cái gậy, cứ như trong đó có cái gì ẩn náu ấy. Ông Andrzej của tôi ơi, thằng bé này lớn lên sẽ không thành ông chủ, thậm chí cũng chẳng ra người làm công, chỉ làm trò cười cho mọi người và phỉ báng Chúa!...

Ông Andrzej, kẻ thời trai trẻ đã từng làm nghề vận chuyển bè mảng trên sông và nhìn thấy nhiều điều trên thế giới, liền lên tiếng động viên bà góa phụ buồn phiền như thế này:

- Nó sẽ không trở thành ông chủ cho bà đâu, chỉ uổng công thôi, vì thậm chí nó không có một chút trí khôn nào đối với việc đó. Vì vậy, trước tiên phải cho nó đến trường học, sau đó cho nó đi học làm thợ. Nó sẽ học được từ trong sách, nó sẽ học nghề thủ công và nếu như không trở thành miếng giẻ rách thì sẽ sống được.

Đáp lại điều đó, bà quả phụ vẫn vừa nói vừa phẩy tay:

- Ôi, ông bạn già, ông nói cái gì thế! Làm nghề thủ công không phải là điều đáng xấu hổ đối với một chủ đất ư và bất kì ai đặt hàng cũng phải làm cho họ à?

Ông Andrzej phả khói từ chiếc tẩu gỗ ra ngoài và nói:

- Đúng là có xấu hổ thật, song không còn cách nào khác đâu.

Sau đó, hướng tới Antek đang ngồi trên nền nhà bên cạnh chiếc ghế dài, ông lên tiếng hỏi:

- Nào nói đi, thằng ranh con, mày muốn trở thành người nào? Chủ đất hay thợ thủ công?

Antek liền đáp:

- Cháu sẽ đóng cối xay gió để xay bột mì.

Và cậu luôn trả lời như vậy, mặc dù người ta lắc đầu trước cậu, đôi khi họ còn dùng chổi đánh.

Năm cậu lên mười tuổi, một lần cô em gái tám tuổi, Rozalia, bị ốm nặng. Buổi tối con bé lên giường nằm, sáng hôm sau khó khăn lắm mới đánh thức được nó. Thân thể con bé nóng ran, mắt hoa lên và nói năng lộn xộn.

Bà mẹ lúc đầu nghĩ rằng cô gái trốn việc; vì vậy đã cho nó vài cái hích bằng khuỷu tay. Nhưng khi điều đó không giúp được gì, bà đã lau người nó bằng dấm nóng, hôm sau cho nó uống rượu vodka pha với ngải hương. Tất cả đều vô ích, thậm chí còn tồi tệ hơn, bởi sau khi uống rượu, cô bé bị những vệt tím bầm mọc khắp người. Sau khi tìm kiếm tất cả mớ quần áo ở trong hòm và trong phòng, bà quả phụ lấy ra được sáu đồng xu, liền gọi bà Grzegorzowa, một thầy lang nổi tiếng đến cứu giúp.

Bà già thông minh ngắm nghía kĩ lưỡng người ốm, nhổ nước bọt xuống nền nhà bên cạnh cô bé như thường lệ, thậm chí còn lấy dầu thoa vào người cô, nhưng ngay cả điều đó cũng không giúp được gì.

Bà ta liền nói với người mẹ:

- Bà bạn ơi, hãy đốt lửa trong lò làm bánh lên. Phải để cô bé chảy thật nhiều mồ hôi ra, lúc đó sẽ qua khỏi.

Bà quả phụ đốt lò như yêu cầu và lấy thêm than vào, rồi chờ nghe lệnh tiếp.

- Nào, bây giờ - bà thầy lang nói, - hãy đặt con bé lên tấm ván gỗ thông và đưa nó vào trong lò khoảng một phút. Nó sẽ khỏi ngay tức khắc, giống như ai đó chặt tay ấy mà!

Đúng là người ta đã đặt Rozalia lên tấm ván gỗ thông (Antek nhìn việc đó từ góc căn phòng) và đưa hai chân nó lên phía trước, cho vào lò.

Cô gái bị cái nóng bao phủ liền tỉnh lại.

- Mẹ ơi, các người làm gì con thế? - Cô lên tiếng gọi.

- Im nào, đồ ngu, cái này giúp con chóng khỏe lại

Các bà già đã đẩy nó vào đến nửa người; cô bé bắt đầu giãy giụa như cá bị vướng mạng. Cô đấm bà thầy lang, nắm lấy cổ bà mẹ bằng cả hai tay và hét váng trời:

- Các người định thiêu chết con à, ôi mẹ ơi!...

Người ta đã đưa toàn thân cô vào, lò được đặt tấm ván lên và các bà già bắt đầu đếm giờ...

- Hỡi Đức Mẹ Đồng trinh Maria, người làm phúc...

- Mẹ ơi! Mẹ của con ơi!... - Cô gái bất hạnh rên rỉ - Ôi, mẹ ơi!...

- Chúa đến với con, con sẽ được ban phước lành giữa những người con gái...

Bây giờ, Antek chạy đến bếp lò và giật váy người mẹ.

- Mẹ ơi! - Nó vừa khóc vừa gọi- Ở trong đó con bé sẽ chết vì đau đớn!...

Nhưng nó chỉ nhận lại được điều duy nhất là cái củng vào đầu, để khỏi làm cản trở việc đếm thời gian. Một phút trôi qua, người ta đưa tấm ván ra ngoài.

Bên trong bếp lò là một cái xác với lớp da đỏ lòm, đôi chỗ rỉ nước nằm cong queo.

- Ôi Jesus! - Người mẹ kêu lên sau khi nhìn thấy cô gái không ra hình dáng một con người.

Và nỗi đau đớn vì đứa bé đã chiếm lĩnh bà, khiến cho bà chỉ còn có thể giúp đỡ bà thầy lang khênh xác đặt lên trường kỉ. Sau đó, bà quỳ giữa phòng và vừa đập đầu vào nền đất vừa kêu gào:

- Ôi! Grzegorzowa!... Bà làm trò gì thế này!...

Bà thầy lang buồn rầu.

- Ê!... Tốt hơn hết là bà nên im lặng lại. Bà nghĩ rằng con bé bị bỏng mà đỏ lên như thế này sao? Đó là do bệnh của nó phát ra, chỉ có điều là phát ra hơi nhanh, vì vậy nó làm con bé khốn khổ chết. Tất cả mọi chuyện đều là theo ý Chúa.

Trong làng không ai biết về nguyên nhân cái chết của Rozalia. Cô bé chết - biết làm thế nào được. Rõ ràng là chuyện đó đã được định sẵn như vậy. Tuy vậy, cho dù mỗi năm ở trong làng có một đứa bé bị chết thì vẫn còn đầy rẫy bọn trẻ con đấy thôi!

Ngày thứ ba, người ta đặt Rozalia lên một chiếc quan tài mới đóng có cây thập tự đen ở bên trên, quan tài đặt trong chuồng phân và dùng mấy con bò chuyên chở ra sau làng, đến nơi mà bên trên những nấm mộ đã lún xuống có những cây thập tự mục nát và những cây bạch dương vỏ trắng đứng trông nom. Trên con đường gập ghềnh, cỗ quan tài bị lật nghiêng sang một bên, còn Antek vừa giữ vạt váy mẹ vừa đi sau cỗ xe và nghĩ:

“Ở đó Rozalia chắc chắn phải khổ sở lắm, khi cứ phải xoay người và lật sang một bên như vậy!...”

Sau đó - cha xứ vẩy nước thánh vào quan tài, bốn người phu hạ dây đưa nó xuống mồ, người ta lấp đất lên - và tất cả chỉ có như vậy.

Đồi cây rì rào và những sườn dốc với các bụi cây nhỏ mọc um tùm vẫn ở lại nơi mà nó đã có mặt. Những người chăn gia súc giống như trước đây vẫn thổi sáo ở dưới thung lũng và cuộc sống vẫn trôi theo trình tự của mình, mặc dù ở trong làng thiếu đi một cô gái.

Một tuần liền, người ta nói về cô bé, rồi người ta quên cô và bỏ qua ngôi mộ mới, trên đó chỉ còn có gió vuốt ve và những con châu chấu cất tiếng lao xao.

Còn sau đó, tuyết rơi và thậm chí lũ châu chấu cũng sợ không dám đến.

Mùa đông, những đứa con chủ đất đến trường học. Về phía Antek, vì bà mẹ thấy cậu không giúp được gì trong công việc ở đồng ruộng, ngược lại chỉ cản trở, do vậy nghe lời khuyên của ông bạn Andrzej, bà quyết định cho thằng bé đi học.

- Liệu trong trường người ta có dạy con đóng cối xay gió hay không? - Antek hỏi.

- Ôi chao! Thậm chí họ còn dạy mày viết văn bản, chỉ cần mày muốn.

Lúc đó, bà quả phụ lấy ra bốn mươi xu cho vào một túi vải, nắm tay thằng bé và sợ hãi đi đến chỗ ông giáo. Bước vào phòng, bà gặp ông ta đang vá chiếc áo lông cũ. Bà cúi xuống chân ông, trao số tiền mang đến và nói:

- Tôi cúi đầu trước ngài giáo sư và tha thiết đề nghị ngài quyền quý nhận thằng ranh con này vào học, và xin ngài đừng tiếc tay với nó giống như người cha đẻ...

Ngài quyền quý với đôi giày há hốc mõm liền nâng cằm Antek lên, nhìn thẳng vào mắt nó và vỗ nhẹ:

- Thằng bé đẹp đấy.- Ông nói - Con biết gì nào?

- Đúng là nó đẹp thật, - bà mẹ hài lòng lặp lại - nhưng phải học vì có lẽ nó chẳng biết gì.

- Sao lại thế được, bà là mẹ nó mà không biết nó biết cái gì và đã học được gì à?- Ông giáo hỏi.

- Làm sao mà tôi biết là nó biết cái gì cơ chứ? Tôi là đàn bà, tôi không hiểu gì chuyện đó cả. Còn cái gì nó học được, cái thằng Antek của tôi ấy, thì tôi biết là nó đã học chăn bò, kiếm củi, kéo nước từ giếng lên và có lẽ chẳng biết gì hơn nữa.

Bằng cách ấy, người ta đưa thằng bé vào trường học. Vì người mẹ tiếc số tiền bốn mươi xu bỏ ra, nên để được yên lòng, bà tập họp mấy người láng giềng trước nhà và hỏi ý kiến họ xem liệu việc đưa Antek đến trường là đúng hay sai và số tiền bỏ ra như vậy có đáng không.

- Ôi dào!... - Một trong số chủ đất nói - Hình như xã có trả tiền cho giáo viên, vì vậy nếu cứng ra thì bà không cần phải cho ông ta cái gì. Nhưng ông ta luôn nhớ những người không đóng riêng tiền cho mình và sẽ dạy tồi hơn.

- Thế ông ta có phải loại giáo sư giỏi không?

- Cũng không đến nỗi!... Ông ta, nếu như nói chuyện với ông ấy thì thấy ông có hơi đần độn, song biết cách dạy- như cần thiết. Thằng bé con tôi đã học ông ta được ba năm và đã biết toàn bộ vần chữ cái - từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên.

- Ôi dào! Vần chữ cái là cái quái gì! - Người chủ đất thứ hai lên tiếng.

- Thực ra cũng quan trọng chứ. - Người đầu nói - Có lẽ các người không nghe thấy là nhiều lần ông xã trưởng từng nói: “Giá như tôi biết vần chữ cái thì từ cái xã như thế này, tôi có thể kiếm được hơn một nghìn rúp, bằng số tiền của một ông thư kí!”

Vài ngày sau đó, lần đầu tiên Antek đến trường. Cậu bé cảm thấy phòng học cũng đàng hoàng gần bằng căn phòng trong quán ăn, nơi có người chủ quán rượu đứng, bên trong đặt các hàng ghế dài, chiếc nọ nối chiếc kia như ở trong nhà thờ. Chỉ có điều lò sưởi bị nứt và cửa ra vào không đóng kín lại được, vì vậy có hơi lạnh. Bọn trẻ con có bộ mặt đỏ au và hai tay thụt vào trong ống tay áo, thầy giáo mặc áo lông trên người và đội mũ lông cừu trên đầu. Dọc theo các góc của trường học, lớp băng trắng đóng dày và những tia sáng long lanh giương mắt lên nhìn mọi thứ.

Người ta đặt Antek ngồi giữa những đứa bé chưa biết mặt chữ và mới bắt đầu bài học.

Antek được mẹ nhắc nhở đã hứa là phải cố gắng vượt lên.

Thầy giáo cầm phấn trong những ngón tay xương xẩu và viết trên chiếc bảng đã xác xơ một dấu gì đó.

- Bọn trẻ hãy nhìn đây!- Ông nói - Chữ cái này rất dễ nhớ, trông nó giống như ai đó đang nhảy vũ điệu dân gian và đọc là A. Đằng kia hãy im lặng, đồ con lừa!... Đọc lại nào: A... A... A...

- A!... A!... A!... - Bọn học trò nhóm thứ nhất đồng loạt gào to.

Vượt lên trên hết là giọng Antek. Nhưng ông thầy vẫn còn chưa nhận ra điều đó.

Cậu bé hơi đau lòng; lòng tự trọng của cậu bị thương tổn.

Thầy giáo vẽ dấu thứ hai.

- Chữ cái này, - ông nói - còn dễ nhớ hơn, trông nó như cái bánh bích quy. Các trò đã nhìn thấy bánh bích quy chưa?

- Wojtek đã nhìn thấy, còn chúng con có lẽ chưa thấy... - Một đứa lên tiếng.

- Thế thì hãy nhớ lấy, là cái bánh bích quy giống như chữ cái này, nó đọc là B. Các trò kêu: Be! Be!

Mọi người đồng loạt kêu:

- Be! Be!

Nhưng lần này, giọng Antek dĩ nhiên vượt trội hẳn lên. Chụm tay lại thành chiếc kèn, cậu hét to như chú bê một tuổi kêu be be.

Cả trường nổi lên tiếng cười to, còn ông giáo giật nảy mình bực tức.

- Ê! - Ông hét to về phía Antek - Sao mày giỏi thế? Mày định biến trường học thành chuồng bê à? Hãy đưa nó đến để làm nóng!

Cậu bé ngạc nhiên đến ngẩn người ra, nhưng trước khi kịp trấn tĩnh, cậu đã bị hai học trò khỏe nhất trường nắm lấy hai vai, kéo ra giữa và vật ngã ngửa.

Antek vẫn còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì bỗng nhiên cảm thấy mấy đòn đánh rất đau và nghe thấy tiếng cảnh cáo:

- Đừng có mà kêu be be như thế, thằng ranh con! Đừng có kêu be be như thế!

Họ buông cậu ra. Cậu bé rùng mình như con chó vừa từ dưới nước vớt lên và đi về chỗ của mình.

Ông giáo vẽ chữ cái thứ ba và thứ tư, bọn trẻ con gọi tên chúng đồng loạt, sau đó đến lượt hỏi bài.

Người đầu tiên trả lời là Antek.

- Chữ cái này là chữ gì? - Thầy giáo hỏi.

- A! - Thằng bé đáp.

- Còn chữ thứ hai?

Antek im lặng.

- Chữ thứ hai là chữ be. Nhắc lại, đồ con cừu.

Antek lại im lặng.

- Nhắc lại, đồ con cừu, be!

- Con có ngu ngốc đâu! - Cậu bé lầm bầm, trong khi cậu nhớ rõ ràng rằng ở trường không được kêu be be.

- Cái gì hả ranh con, sao mày cứng đầu như thế? Làm nóng cho nó!...

Lại những đứa bạn lần trước đã nắm vai cậu, vật cậu ra, còn ông giáo thì lại đánh đúng số roi như vậy, song đã thêm lời nhắc:

- Đừng có cứng đầu!... Đừng có cứng đầu!...

Mười lăm phút sau bắt đầu giờ học của lớp cao hơn, còn lớp dưới thì đi vào bếp của thầy giáo để nghỉ ngơi. Ờ đó, một nhóm do bà chủ nhà chỉ huy gọt khoai tây, nhóm thứ hai mang nước đến, nhóm khác thì cho bò ăn, và công việc ấy kéo dài cho đến buổi chiều.

Khi Antek về đến nhà, bà mẹ hỏi cậu:

- Sao? Mày học được chứ?

- Con học được.

- Thế được mấy?

- Ôi, còn sao nữa! Được hai trận đòn.

- Vì bài học ư?

- Không, chỉ là để làm nóng.

- Thế đấy, đó là ban đầu. Sau này mày sẽ phải học tử tế! - Bà mẹ động viên cậu.

Antek lo lắng suy nghĩ.

- Ôi, thôi mặc kệ,- cậu tự động viên mình. “Đánh thì đánh, nhưng ít nhất cũng chỉ cho mình biết cách làm cối xay gió.”

Từ lúc đó, trẻ con lớp thấp nhất vẫn chỉ học bốn chữ cái đầu tiên, còn sau đó đi vào bếp và ra sân giúp việc cho bà giáo. Không hề có chuyện về cối xay gió.

Một hôm, ở ngoài trời tuyết rơi nhẹ hơn, trái tim ông giáo cảm thấy ấm áp cởi mở hơn, vì vậy ông muốn giảng giải cho lũ học trò bé nhất của mình về tác dụng của chữ viết.

- Hãy nhìn này các trò, - ông nói, vừa nói vừa viết lên bảng chữ NHÀ - việc biết viết là chuyện thông minh như thế nào. Chỉ ba chữ cái này và không chiếm bao nhiêu chỗ, nhưng lại có nghĩa là ngôi nhà. Cứ nhìn lên chữ này thì ngay sau đó trước mắt ta hiện lên toàn bộ ngôi nhà, cửa ra vào, cửa sổ, hàng hiên, các căn phòng, bếp lò, ghế dài, các bức tranh treo tường, nói tóm lại là sẽ nhìn thấy ngôi nhà với tất cả mọi thứ có mặt trong đó.

Antek giụi mắt, nghiêng người, nhìn chữ viết trên bảng, song bằng cách gì cũng không thể nhìn thấy ngôi nhà. Cuối cùng, cậu hích tay đứa ngồi kế bên và hỏi:

- Mày có nhìn thấy ngôi nhà mà thầy giáo nói hay không?

- Tao không thấy. - Đứa bên cạnh nói.

- Chắc chắn đó là lời dối trá! - Antek đi đến kết luận. Câu cuối cùng ông giáo nghe được và thét lên:

- Dối trá thế nào? Cái gì dối trá?

- Đó là việc trên bảng có cái nhà. Rõ ràng trên đó chỉ có một ít phấn, chẳng thấy ngôi nhà nào.- Antek ngây thơ đáp.

Thầy giáo véo tai cậu và kéo cậu ra giữa trường.

- Làm nóng cho nó! - Ông gọi, và nghi thức phạt với toàn bộ chi tiết giống hệt như đã làm với thằng bé được lặp lại.

Khi Antek về nhà mặt đỏ bừng, khóc lóc và có lẽ không tìm nổi cho mình một chỗ đứng, bà mẹ lại hỏi cậu:

- Mày bị đòn à?

- Thế mẹ nghĩ là không à? - Cậu bé rên rỉ đáp.

- Vì bài học?

- Không phải vì bài học, mà vì để làm nóng!

Bà mẹ phẩy tay.

- Ôi dào! - Bà nói sau hồi suy nghĩ - Phải chờ đợi thì rồi sau này người ta sẽ dạy cho mày học.

Sau đó, khi chất thêm củi vào bếp, bà tự làu bàu với mình:

- Lúc nào mà đàn bà góa và trẻ mồ côi chẳng gặp chuyện như thế ở trên đời này. Giá mà mình có cho giáo sư nửa rúp, chứ không phải bốn mươi xu, thì chắc ông ấy đã nhận ngay đứa bé. Còn bây giờ thì đùa giỡn với nó, thế đấy.

Còn Antek, khi nghe thấy thế thì nghĩ:

“Nào, nào! Nếu như ông ta đùa giỡn với mình như vậy thì cái gì sẽ xảy ra khi bắt đầu dạy mình đây?”

Cũng may hoặc không may là lo sợ của cậu bé không bao giờ trở thành hiện thực.

Một hôm, chuyện xảy ra hai tháng sau khi Antek vào học ở trường, thầy giáo của cậu đến gặp bà mẹ và sau khi chào hỏi thông thường đã hỏi ngay:

-Sao vậy, người đàn bà của tôi, với thằng bé con bà sẽ như thế nào đây? Bà đưa bốn mươi xu ra vì nó, nhưng đó chỉ là ban đầu, còn bây giờ đã là tháng thứ ba rồi, còn tôi không nhìn thấy một cắc bạc nào thêm! Chuyện này không thể như vậy được; bà hãy trả thêm ít nhất là bốn mươi xu nữa, nhưng đó là tiền mỗi tháng.

Nghe thấy thế, người đàn bà góa liền đáp:

- Tôi kiếm đâu ra tiền, tôi không có! Kiếm được xu nào thì mọi thứ đều phải nộp lên xã. Thậm chí không có gì để mua quần áo rách cho trẻ con.

Ông giáo đứng bật dậy khỏi ghế, đội mũ lên và đáp lại ngay trong phòng:

- Nếu là như vậy thì Antek không còn gì để đến trường nữa. Tôi không tội gì phải làm không công cho nó. Chuyện dạy học của tôi không phải dành cho người nghèo.

Ông bước ra và đi thẳng, còn người đàn bà góa nhìn theo ông và nghĩ:

“Đúng thật. Thế giới là thế giới, chỉ có những đứa trẻ con nhà giàu mới đi học. Người bình thường sao mà đủ cung phụng được!...”

Bà lại gọi ông bạn Andrzej đến để hỏi ý kiến và cả hai người bắt đầu tra hỏi thằng bé.

- Thằng ranh con, hai tháng qua mày học được những gì? - Lão Andrzej hỏi cậu - Rõ ràng là mẹ mày mất cho mày bốn mươi xu...

- Thế còn ít nữa ư! - Bà mẹ xen vào.

- Ở đó chẳng học được cái quái gì! - Cậu bé đáp - Gọt khoai tây ở trường cũng giống như ở nhà, cho lợn ăn cũng chẳng khác gì. Chỉ có điều con đã vài lần đánh giày cho thầy giáo. Nhưng họ đã bắt con hằng ngày lên với lũ kia... để làm nóng...

- Còn chuyện học hành mày không nắm được cái gì à?

- Có ai nắm được cái gì đâu! - Antek nói - Khi dạy chúng con theo kiểu bình thường thì dối trá. Ông ấy viết lên bảng dấu gì đó và nói rằng đó là ngôi nhà với phòng ở, hàng hiên, các bức tranh. Con người có mắt và nhìn thấy rằng đó không phải ngôi nhà. Còn khi dạy theo kiểu ở trường thì chỉ có bọn đao phủ hiểu nổi! Ở đó có vài đứa lớn, những đứa biết hát theo kiểu ở trường, nhưng những đứa bé hơn thì may lắm là học được cách chửi thề...

- Mày cứ thử chửi thề như vậy xem, tao sẽ cho ăn đòn! - Người mẹ xen vào.

- Này, cậu bé, thế còn chuyện đồng áng thì không bao giờ mày có hứng hay sao? - Lão Andrzej hỏi.

Antek hôn tay ông ta và lên tiếng:

- Các người hãy gửi con tới nơi người ta dạy đóng cối xay gió ấy.

Những người già đều nhún vai như nghe lệnh.

Cái cối xay gió bất hạnh đứng bên kia bờ sông Wisla chuyên xay lúa mì đã gặm nhấm tâm hồn cậu bé sâu đến mức không có sức mạnh nào có thể lôi được cậu ra khỏi đó nữa.

Sau khi thảo luận rất lâu, người ta quyết định chờ đợi. Và họ đã chờ.

Tuần này đến tuần khác trôi qua, tháng này đến tháng khác trôi qua, cuối cùng cậu bé đến tuổi mười hai, nhưng trong chuyện đồng áng cậu vẫn không phục vụ được gì nhiều. Cậu bào các cây gậy của mình, thậm chí còn khắc được những hình thù kì lạ. Và mãi đến khi con dao của cậu bị hỏng, còn người mẹ không cho tiền mua con dao mới, cậu mới chịu đi làm thuê. Ban đêm, khi canh ngựa cho một người ngoài đồng cỏ, cậu chìm đắm trong màn sương đêm trắng và nhìn lên các ngôi sao; rồi cậu dắt bò khi cày ruộng cho một người khác; đôi khi cậu đi vào rừng tìm quả móc hoặc nấm và bán cả sọt đầy cho chủ quầy rượu Mordko mà chỉ lấy vài xu.

Trong nhà họ gặp khó khăn. Đồng ruộng không có người đàn ông cũng giống như thân thể không có linh hồn; và mọi người đều biết bố Antek đã mấy năm nay yên nghỉ trên quả đồi, nơi những cây thập tự buồn rầu vẫn nhìn xuống làng xóm qua rặng cây móc đỏ trơ trọi.

Bà quả phụ đã thuê một người làm công để trông nom việc đồng áng, số tiền còn lại phải mang nộp cho xã, còn lại bao nhiêu mới dành cho việc nuôi mình và hai thằng bé.

Hằng ngày, họ ăn xúp củ cải đỏ với bánh mì và khoai tây, đôi lúc ăn tấm, mì ống, hãn hữu có đậu Hà Lan, còn thịt- có lẽ chỉ vào dịp lễ Phục sinh. Đôi khi ngay cả cái đó trong nhà cũng không lo nổi, lúc bấy giờ không cần trông coi bếp lò nữa, bà quả phụ may vá quần áo cũ cho các con. Thằng nhỏ Wojtek khóc, còn Antek không có việc gì làm trong bữa trưa liền đi đánh ruồi và sau bữa tiệc như vậy lại đi ra ngoài sân để bào những cái thang, hàng rào, cối xay gió và những thứ thiêng liêng của mình. Cậu đẽo cả những bức tượng để thờ cúng, đúng ra là lúc ban đầu,tượng không có mặt và tay.

Cuối cùng, ông bạn Andrzej, người bạn thân trung thành của gia đình côi cút, đã lo cho Antek vào làm ở chỗ một người thợ rèn làng bên. Một Chủ nhật, họ đi đến đó với người đàn bà góa và cậu bé. Người thợ rèn nhận họ khá nhiệt thành. Thử tay và bả vai cậu bé, biết rằng ở tuổi ấy cậu hoàn toàn đủ sức lực, ông liền nhận cậu vào làm có thời hạn, không lương và chỉ trong sáu năm.

Thật kinh khủng và buồn rầu khi thấy cậu bé nhìn theo mẹ khóc lóc, ông già Andrzej chia tay cậu và người thợ rèn ra sao, và cả khi họ đã khuất bóng sau vườn cây, đi trên đường về nhà. Cậu còn buồn hơn, khi ngủ đêm đầu tiên dưới mái nhà lạ, trong nhà để rơm, giữa những cậu bé nhà thợ rèn không quen biết với mình, những kẻ đã ăn mất của cậu suất cơm tối và trước khi đi ngủ còn nện cho cậu vài cú đấm để dọn đường cho một tình bạn tốt đẹp.

Còn ngày hôm sau, mới sáng tinh mơ, họ đã cùng đi đến lò rèn. Khi người ta đốt lò, Antek bắt đầu thổi ống bễ to đùng, còn những đứa khác thì hát cùng người thợ cả: “Khi vầng đông bừng sáng”, họ bắt đầu nện búa vào thanh sắt nóng chảy - lúc bấy giờ trong cậu bé như bừng tỉnh một tinh thần mới. Tiếng kêu của kim loại, nhịp đập đều đặn, bài hát, đáp lại âm thanh ấy đến rừng cây cũng rung lên xào xạc - tất cả mọi thứ đều làm cậu bé say mê... Hình như trong trái tim cậu những thiên thần trên trời đã kéo căng các dây đàn mà từ trước đến nay những đứa trẻ nông thôn chưa từng được biết đến và các dây đàn đó mãi đến hôm nay mới thánh thót vang lên khi thổi ống bễ, khi nện búa xuống đe và khi những tia lửa phun ra từ thanh sắt.

Ôi, cậu có thể trở thành một thợ rèn năng động như thế nào, và có lẽ còn hơn thế nữa... Nhưng cậu bé, mặc dù cực kì mê thích công việc mới, vẫn luôn nghĩ về những chiếc cối xay gió của mình.

Ông thợ rèn, người đỡ đầu Antek, là một gã không có tính cách rõ ràng. Ông ta quai búa và trông nom công việc chẳng ra tồi, cũng chẳng ra tốt. Đôi lúc, ông ta đánh bọn trẻ đến mức người chúng thâm tím,và quan tâm nhất đến chuyện bọn trẻ đừng nhanh chóng học được kĩ xảo. Vì một đứa trẻ tuổi sau khi học hết thời hạn có thể tự đứng ra lập lò rèn bên cạnh người thầy dạy nó và buộc ông ta phải cố gắng làm việc tốt hơn!...

Cũng cần biết rằng ông thợ rèn còn có một tập quán nữa.

Ở cuối làng có một người bạn thân lớn của ông thợ rèn - ông trưởng thôn, kẻ vào những ngày thường gần như không dời khỏi công việc, song khi ở nhiệm sở gặp chuyện gì đó, ông ta để trang trại lại và đi đến quán ăn bên cạnh lò rèn. Việc đó diễn ra một hoặc hai lần trong một tuần.

Lúc bấy giờ, ông trưởng thôn với những đồng tiền kiếm được ở nhiệm sở đi đến quán dưới gốc thông và cũng không muốn ghé vào lò rèn.

- Vinh danh Thiên Chúa trên trời! - Ông ta đứng ngoài bậc cửa nói với thợ rèn.

- Vinh danh Thiên Chúa trên trời! - Ông thợ rèn đáp lại - Công việc ngoài đồng thế nào?

- Không có gì. - Trưởng thôn nói- Thế còn ở chỗ ông trong lò rèn?

- Không có gì. - Thợ rèn nói -Ơn Chúa, dù chỉ một lần ông ra khỏi nhà cũng tốt rồi.

- Ồ vâng. - Trưởng thôn đáp - Nói chuyện ở văn phòng nhiều rồi, vì vậy tôi phải súc miệng một chút. Ông có đi cùng tôi để tránh bụi bậm ở đây không?

- Phải hiểu rằng nên đi, bởi vì sức khỏe là trên hết. - Thợ rèn đáp và không cởi tạp dề ra khỏi người, đi cùng với trưởng thôn đến quán.

Khi đã đi ra khỏi đó một lần thì bọn trẻ chắc chắn có thể dập tắt lửa. Dù cho công việc có khẩn cấp đến mấy, dù cho trái đất có lung lay, cả thợ rèn lẫn trưởng thôn đều không bước ra khỏi quán trước buổi tối, chỉ trừ khi trưởng thôn phải giải quyết chuyện gì của chính quyền.

Mãi đến đêm khuya họ mới về nhà.

Thông thường thì trưởng thôn cặp tay thợ rèn, còn gã kia bê chai rượu “để ngày mai súc miệng”. Ngày hôm sau, trưởng thôn hoàn toàn tỉnh táo và giải quyết công việc cho đến khi nhận được tiền lương mới ở công sở, song thợ rèn thì vẫn thòm thèm nhìn vào chai rượu mang về, cho đến khi nó chưa cạn đến đáy, và vì vậy chỉ một lần nổi loạn, ông ta nghỉ đến hai ngày.

Đã một năm rưỡi Antek ngửi bễ lò rèn, không làm gì hơn, có lẽ thế, và một năm rưỡi, ông thợ cả cùng trưởng thôn vẫn thường lệ súc miệng dưới quán cây thông. Cho đến một lần xảy ra chuyện.

Khi trưởng thôn và thợ rèn ngồi ở quán rượu, bỗng nhiên sau nửa cút đầu tiên, người ta báo rằng có ai đó treo cổ ở đằng kia - và người ta lôi trưởng thôn ra khỏi bàn. Thợ rèn không có bạn ngồi cùng buộc phải dừng cuộc “súc miệng”, song đã mua một chai cần thiết và bình thản mang nó về nhà.

Trong lúc đó, một nông dân cùng với một con ngựa đi đến lò rèn đóng móng.

Sau khi nhìn thấy ông ta, lũ thợ học nghề liền gọi to:

- Không có thợ cả, hôm nay ông ấy “súc miệng” cùng ông trưởng thôn!

- Thế trong bọn bay không đứa nào đóng được móng ngựa à? - Người chủ đất buồn rầu hỏi.

- Ai mà đóng được! - Thằng bé học nghề lớn tuổi nhất đáp.

- Tôi sẽ đóng móng cho ông. - Bỗng nhiên, Antek lên tiếng.

Chết đuối vớ được cọc, vì vậy người nông dân đồng ý với đề nghị của Antek, mặc dầu không mấy tin ở cậu, còn bọn học nghề khác thì cười nhạo cậu và nói cạnh khóe:

- Hãy xem kìa, thằng nhãi ranh! - Đứa người làm lớn tuổi nhất nói - Khi sống còn chưa cầm cây búa trong tay, chỉ thổi lửa và mang than đưa vào lò, thế mà hôm nay đòi đóng móng ngựa cơ đấy!...

Antek nâng búa lên, sau khi quàng áo vào người, chỉ trong thời gian ngắn cậu đã đóng được vài chiếc đinh vào móng ngựa. Đúng ra thì chiếc móng ngựa hơi to và không thật cân đối, nhưng như vậy cũng đủ làm bọn thợ học việc há hốc mồm.

Vừa đúng lúc ấy, ông thợ cả về. Người ta kể cho ông nghe chuyện gì đã xảy ra, chỉ cho ông chiếc móng ngựa và những chiếc đinh.

Ông thợ rèn nhìn ngắm và phải lấy tay lau máu trào ra từ mắt.

- Mày học được cái này ở đâu, thằng ăn cắp? - Ông hỏi Antek.

- Ở trong lò rèn. - Thằng bé tỏ ra hài lòng với lời khen ngợi đáp lại - Khi ông thợ cả đi súc miệng, còn bọn nó chạy mỗi đứa một nơi, thì cháu rèn những đồ vật khác nhau từ chì hoặc sắt.

Thợ cả bối rối đến mức thậm chí quên không đánh Antek vì tội làm hỏng vật liệu và đồ dùng. Ông ta đành phải đi hỏi ý kiến vợ, hậu quả của việc đó là cậu bé bị tống khứ khỏi lò rèn và đưa về làm việc ở trang trại.

- Mày quá thông minh, cháu yêu ạ! - Thợ rèn nói -Mày sẽ học thạo nghề chỉ trong ba năm và sau đó thì mày chuồn. Nhưng mẹ mày trao mày cho tao những sáu năm, hãy đi phục vụ.

Nửa năm sau, Antek vẫn ở chỗ thợ rèn. Cậu ta đào hố trong vườn, nhổ cỏ, chặt cây, đưa nôi cho trẻ, song không bao giờ vượt qua ngưỡng cửa lò rèn. Về chuyện này mọi người đều canh chừng triệt để: cả thợ cả, cả vợ thợ cả, cả bọn trẻ. Thậm chí, người mẹ đẻ của Antek và ông bạn Andrzej, mặc dù biết về bí mật của thợ rèn, không nói câu nào chống lại ông ta. Theo hợp đồng và tập quán thì cậu bé sau sáu năm mới có quyền tập tọng nghề rèn. Nhưng vì cậu lanh lợi kì lạ và không học ai mà tự biết làm nghề thợ rèn chỉ trong vòng một năm, thế thì đối với cậu càng tồi tệ hơn!

Nhưng Antek cảm thấy buồn chán với cách sống như vậy.

“Tôi phải đào hố và chặt cây ở đây, vậy thì tôi thích làm công việc như vậy ở nhà mẹ tôi hơn.”

Cậu nghĩ ngợi như vậy suốt một tuần, rồi một tháng. Cậu do dự. Cuối cùng, cậu bỏ trốn khỏi nhà thợ rèn và đi về nhà.

Mấy năm sau đó trôi qua với cậu bé lại hóa ra tốt đẹp. Cậu bé lớn lên, trở thành một chàng thanh niên, biết thêm nhiều người hơn so với cái thung lũng của mình, và trên hết là biết thêm được nhiều công cụ thủ công nghiệp.

Bây giờ ngồi ở nhà, đôi lúc Antek cũng giúp việc nhà nông, song thường là chế tạo máy móc của mình và khắc tượng. Ngoài con dao to bản, anh còn có thêm cái đục, cái dũa, cái khoan và sử dụng chúng thành thạo đến mức thậm chí một số sản phẩm của anh được gã chủ quán Mordko bắt đầu mua. Để làm gì?... Antek không biết điều đó, mặc dù các cối xay gió, ngôi nhà, các hòm giả, tượng thần và những chiếc tẩu thuốc của anh được phát tán trong cả vùng. Người ta ngạc nhiên về tài năng của một người tự học không lộ diện, thậm chí còn trả cho gã Mordko số tiền không nhỏ vì những sản phẩm đó, nhưng không ai hỏi về anh, càng không ai nghĩ đến việc đưa tay ra trợ giúp anh.

Ai mà đi chăm sóc đóa hoa đồng nội, những trái lê và anh đào dại, mặc dầu hình như mọi người đều biết nếu cố gắng thì chúng sẽ cho thành quả tốt hơn.

Antek lớn lên, các cô gái và phụ nữ ở làng càng ngày càng nhìn anh với vẻ duyên dáng hơn và thường xuyên bàn tán về anh với nhau hơn:

- Thật đẹp, đúng là con thú dữ, đẹp ghê gớm!

Đúng thật Antek quả là đẹp. Anh rất khéo tay,thân hình cân đối và thẳng lưng, không giống những người nông dân khác - vai co lại, chân bước ì ạch vì công việc nặng nhọc. Khuôn mặt anh cũng không giống những người khác, các đường nét rất đầy đặn, làn da tươi tắn, nét mặt thông minh. Anh cũng có mái tóc sáng màu, hơi quăn, cặp lông mi thẫm màu và đôi mắt đen pha xanh lam, đầy mơ mộng.

Đám đàn ông ngạc nhiên về sức lực của anh và than phiền rằng anh để hoài phí. Còn đàn bà lại thích nhìn vào mắt anh hơn.

- Hắn ta, đồ thú dữ, xem ra đúng là một con người. - Một mụ nói như vậy - Nghĩ đến chuyện đó làm tôi thấy như kiến bò khắp mình mẩy. Còn trẻ như vậy mà nhìn mình cứ như một quý tộc lớn tuổi!...

- Đâu phải vậy! - Bà thứ hai phủ nhận - Hắn nhìn bình thường như một đứa trẻ, chỉ có điều trong ánh mắt có cái gì đó ngọt ngào đến mức làm mình cảm thấy muốn cởi quần áo ra. Tôi biết quá rành chuyện đó!...

- Có lẽ tôi biết rành hơn, - Bà đầu phản ứng lại - bởi vì tôi đã từng phục vụ trong dinh mà...

Và khi những người đàn bà tranh luận nhau về cái nhìn của Antek thì anh hoàn toàn không thèm nhìn họ. Đối với anh, cái dũa tốt còn có giá trị hơn một người đàn bà dù là đẹp nhất.

Trong thời gian đó, ông xã trưởng, một người góa vợ, đã gả đứa con gái có từ cuộc hôn nhân thứ nhất đi lấy chồng và vẫn còn mấy đứa bé có từ cuộc hôn nhân thứ hai ở trong nhà, lần này lại cưới vợ lần thứ ba. Thông thường thì những kẻ hói đầu vẫn hay gặp may, vì thế ông ta đã tìm được cho mình một cô vợ trẻ rất đẹp và giàu ở bên kia sông Wisla.

Khi đôi ấy đứng trước bàn thờ thì mọi người bắt đầu cười; ngay cả cha xứ cũng lắc đầu vì họ không tương xứng với nhau.

Xã trưởng rùng mình như một ông già vừa ở bệnh viện ra và vì chỉ bị bạc tóc có một chút nên cái đầu hói của ông trông như một quả bầu. Cô vợ xã trưởng thì như một tia lửa. Đó là một cô gái Di gan thuần chủng với đôi môi anh đào hơi lệch và cặp mắt đen, trong đó sự trẻ trung của cô cháy lên như ngọn lửa.

Sau ngày cưới, ngôi nhà của xã trưởng trước đây thường lặng lẽ, nay sống động hẳn lên, vì hết lần này đến lần khác khách khứa thường xuyên lui tới. Lúc thì gã tuần canh, kẻ giờ đây có nhiều chuyện làm ăn với xã hơn so với thông thường; lúc thì gã thư kí, kẻ gặp gỡ với xã trưởng ở văn phòng chưa thỏa mãn, còn đến tận nhà thăm ông ta; rồi lại còn các xạ thủ của chính phủ, những kẻ từ trước đến nay ít khi xuất hiện trong làng. Thậm chí ngay cả ngài giáo sư, sau khi nhận lương tháng cũng vứt chiếc áo lông cũ kĩ vào một xó, ăn mặc như một đại quý tộc, khiến bất kì người nào trong làng cũng bắt đầu gọi ông ta là ngài thừa kế quyền quý.

Và tất cả những gã tuần canh, xạ thủ, thư kí và thầy giáo ấy đều bị hút đến với vợ xã trưởng giống như đàn chuột đến với cối xay. Một gã vừa mới bước vào phòng, kẻ thứ hai đã đứng chờ ngoài hàng rào, kẻ thứ ba thì từ cuối làng bắt đầu di chuyển đến, còn kẻ thứ tư thì lượn lờ bên cạnh xã trưởng. Người đàn bà đáng kính đó làm cho tất cả mọi người vui vẻ, cô tươi cười, mời khách khứa ăn uống đàng hoàng. Nhưng thỉnh thoảng, cô cũng nắm tóc người nào đó, thậm chí còn nện cả vào mặt, do tính khí cô ta cũng thay đổi thất thường.

Sau nửa năm cưới, cuối cùng tình hình cũng bình thường trở lại. Một số khách cảm thấy buồn chán, những kẻ khác thì bị vợ xã trưởng tống khứ và chỉ riêng ông giáo sư tương đối già, bản thân ăn uống khổ sở và bỏ đói vợ mình ở nhà, cứ mỗi tháng lương lại mua một vật trang sức gắn vào quần áo và ngồi ở ngưỡng cửa nhà xã trưởng (do người ta tống khứ hắn ta ra khỏi phòng) hoặc quỳ gối và thở dài giữa đường làng.

Một Chủ nhật nọ, Antek đi lễ Misa như mọi bận cùng bà mẹ và đứa em trai. Trong nhà thờ đã khá chật chội, nhưng vẫn còn một ít chỗ dành cho họ. Bà mẹ quỳ cùng với đám phụ nữ ở bên phải, Antek cùng Wojtek với đám con trai ở bên trái và mỗi người đều tụng kinh như mình biết. Đầu tiên là khấn vị thánh ở bàn thờ chính, sau đó tới vị thánh đứng ở vị trí cao hơn vị thánh kia, sau đó tới các vị thánh ở những bàn thờ bên cạnh. Nó tụng kinh thay cho người bố, bị cây đè chết, và thay cho người em gái, bị bệnh chết quá nhanh khi đưa từ trong bếp lò ra, và cầu mong Chúa nhân từ và các vị thánh ở tất cả các bàn thờ kia mang đến cho nó hạnh phúc trong cuộc sống, nếu như ý nguyện các vị đúng là như vậy.

Sau khi Antek đã nhắc lại đến lần thứ tư những khúc kinh tụng của mình, anh bỗng cảm thấy ai đó đập vào chân mình và tì rất nặng lên vai anh. Anh ngẩng đầu lên. Chen lấn giữa đám đông, đứng ngay phía trên anh là vợ xã trưởng, khuôn mặt rám nắng, đỏ lựng, thở hổn hển gấp gáp. Cô ăn mặc giống như một người phụ nữ nông dân, dưới tấm khăn từ trên vai rớt xuống nhìn thấy rõ chiếc áo bằng vải đay mỏng tang và những sợi dây hạt chuyền hổ phách san hô.

Và họ nhìn vào mắt nhau. Cô vẫn giữ nguyên tay trên vai anh, còn anh thì... quỳ, vừa nhìn lên cô như nhìn lên một hiện tượng tuyệt diệu, vừa không dám cựa quậy để không làm cho cô bỗng nhiên biến mất khỏi mình.

Mọi người bắt đầu thì thầm với nhau:

- Xê ra nào, ông bạn, bà xã trưởng đang đến...

Những người bạn dịch ra và vợ xã trưởng đi tiếp, đến tận trước bàn thờ chính. Trên đường đi dường như bị vấp, cô lại nhìn vào Antek, còn anh thì bị sức nóng của ánh mắt ấy tưới khắp mình mẩy. Sau đó, cô ngồi trên ghế dài và đọc kinh từ trong sách, thỉnh thoảng lại ngẩng đầu lên và nhìn khắp nhà thờ. Khi đến Lễ cử dương Thánh thể, xung quanh bỗng im lặng như tờ và những con chiên úp mặt xuống, cô ta gập sách lại và nhìn Antek một lần nữa, găm vào anh ánh mắt rực lửa. Luồng ánh sáng từ cửa sổ chiếu lên khuôn mặt Di gan và lên sợi dây hạt chuyền của cô khiến anh cảm thấy cô như một thiên thần mà đứng trước đó, mọi người phải im lặng và đều trở thành bụi bặm.

Sau lễ Misa, mọi người đi từng đoàn về nhà. Bà xã trưởng bị gã thư kí, thầy giáo và gã nấu rượu bủa vây, và thế là Antek không thể gặp được.

Ở nhà, bà mẹ đã dành cho các cậu con trai món xúp lúa mạch nấu với sữa trắng và những viên bánh bột lớn nhân tấm. Nhưng Antek, mặc dù rất thích những thứ đó, lại chỉ ăn có một tí chút. Sau đó anh ra ngoài, leo lên đồi và đặt mình nằm xuống chỗ đỉnh cao nhất, từ đó anh phóng tầm mắt nhìn về phía nhà xã trưởng. Nhưng anh chỉ nhìn thấy mái nhà lợp rơm và làn khói nhỏ màu xanh da trời từ tốn bay ra từ chiếc ống khói trắng. Vậy là anh cảm thấy một điều gì đó buồn rầu khó tả dâng trào, khiến anh phải giấu mặt vào dưới vạt áo cũ và bật khóc.

Lần đầu tiên trong đời, anh cảm thấy cảnh nghèo khổ cùng cực của mình. Căn nhà của họ là nhà nghèo khó nhất trong làng, còn cánh đồng thì tồi tệ nhất. Bà mẹ, mặc dù cũng là chủ đất, song phải làm việc giống như một tá điền và mặc quần áo gần như giẻ rách. Trong làng, người ta nhìn anh giống như nhìn một kẻ liều lĩnh, kẻ ăn bánh mì của người khác không biết để làm gì. Người ta tha hồ đánh chửi anh, thậm chí cả lũ chó cũng tha hồ cắn xé anh!...

Còn xa lắm anh mới so được với giáo sư, với gã nấu rượu, thậm chí ngay cả đến gã thư kí, những người biết bao nhiêu lần, hễ họ muốn là đều có thể đến được nhà xã trưởng và thoải mái nói chuyện với vợ xã trưởng. Còn anh thì không mong muốn gì nhiều. Anh chỉ ước mong được một lần, một lần cuối cùng trong đời thôi, được cô vợ xã trưởng tì tay lên vai và nhìn vào mắt giống như lúc ở trong nhà thờ. Bởi lẽ trong cái nhìn của cô, anh cảm thấy có một cái gì đó kì lạ xuất hiện, một cái gì đó giống như tia chớp, mà khi nhìn thấy nó trong giây phút ngắn ngủi, cả bầu trời sâu thăm thẳm đầy bí mật bỗng hé lộ ra. Nếu như ai nhìn thấy điều đó rõ ràng thì sẽ biết được mọi thứ, những cái có trên thế gian này, và sẽ trở nên giàu có giống như một ông vua.

Antek trong nhà thờ đã không nhìn thấy rõ ràng điều đó, cái điều hiện lên lấp lánh trong mắt vợ xã trưởng. Anh chưa được chuẩn bị, bị lóa mắt và thế là đánh mất dịp may hiếm có. Ôi giá như một lần nữa cô nàng lại muốn nhìn vào anh như vậy!...

Anh mơ thấy rằng đã nhìn thấy hạnh phúc bay ngang qua, và khát khao trông chờ điều đó quay trở lại. Trái tim ngái ngủ được đánh thức và bắt đầu như muốn luồn xuyên qua mọi đau đớn. Bây giờ đây, anh cảm thấy thế giới đã hoàn toàn biến đổi. Thung lũng tỏ ra quá nhỏ bé, các ngọn đồi quá thấp, còn bầu trời- không biết có bị hạ xuống hay không, vì thay cho việc kéo anh lên cao thì bắt đầu nhấn anh chìm xuống. Anh từ trên đồi tuột xuống ngất ngây say, không biết bằng cách gì có mặt trên bờ sông Wisla và vừa nhìn xuống những viên sỏi của sông vừa cảm thấy có cái gì đó lôi kéo anh đến với chúng.

Tình yêu, thứ mà anh còn chưa biết gọi tên, đổ ập xuống anh như một cơn bão, làm dấy lên trong tâm hồn nỗi sợ hãi, nuối tiếc, cảm giác ngạc nhiên và - liệu anh còn biết được cái gì nữa?

Kể từ đó mỗi Chủ nhật, anh đều đến nhà thờ dự lễ Misa và với trái tim run rẩy, anh chờ đợi vợ xã trưởng, vừa chờ vừa nghĩ rằng cũng giống như lúc ấy, nàng sẽ lại tì tay lên vai anh và nhìn vào mắt anh. Nhưng trường hợp ấy không lặp lại, hơn nữa giờ đây sự chú ý của vợ xã trưởng đã hướng về gã nấu rượu, một nông dân trẻ và khỏe, người từ mãi tận làng thứ ba đi đến... để dự lễ cầu kinh.

Lúc bấy giờ, Antek nảy ra một ý tưởng khác thường. Anh quyết định làm một cây thánh giá đẹp và đem tặng vợ xã trưởng. Lúc đó có lẽ nàng sẽ nhìn lên anh và có thể anh sẽ khỏi căn bệnh nhớ thương, thứ đã làm cho cuộc sống của anh hao mòn.

Phía sau làng của họ, trên ngã ba đường có một cây thánh giá kì lạ. Từ dưới đế nó có những cây bìm bịp cuốn quanh. Cao hơn một chút là cây thang nhỏ, cái giáo và chỏm cây gai, còn trên đỉnh ở phía cánh tay đòn bên trái treo lơ lửng cánh tay Chúa Jesus, phần còn lại của pho tượng đã bị kẻ nào đó đánh cắp - chắc là để làm bùa phép. Cây thánh giá đó được Antek lấy làm khuôn mẫu.

Vì vậy anh bào, chế tác và bắt đầu làm mới cây thánh giá của mình, cố gắng sao cho nó đẹp và xứng đáng với vợ xã trưởng.

Trong khi đó, có điều bất hạnh xảy ra trong làng. Nước sông Wish chảy tràn bờ, cắt ngang đập chắn, phá hủy các cánh đồng ven bờ. Mọi người thiệt hại rất nhiều, nhưng người thiệt hại nhất là mẹ Antek. Gia đình bà thậm chí còn bị đói. Phải đi kiếm việc làm thêm; vì vậy bản thân bà, người đàn bà bất hạnh, phải đi làm, để Wojtek chăn gia súc. Nhưng việc làm đó vẫn chưa đủ. Antek, kẻ không thích công việc đồng áng trở thành gánh nặng thực sự đối với bà.

Nhìn thấy điều đó, ông già Andrzej bắt đầu nài nỉ anh đi khỏi làng, đến với thế giới bên ngoài.

- Mày là chàng trai nhanh nhẹn, khỏe mạnh, khéo tay đối với nghề thủ công, vì vậy mày hãy đi ra thành phố đi. Tại đó mày sẽ học được cái gì đó và còn có ích cho mẹ mày, chứ ở đây thì mẩu bánh mì cuối cùng mày cũng lấy mất khỏi miệng bà ấy.

Antek phờ phạc mặt mày trước ý nghĩ sẽ phải rời bỏ làng mà không được nhìn thấy vợ xã trưởng thêm một lần. Nhưng anh hiểu rằng không thể làm gì khác và chỉ xin mọi người để cho anh ở thêm vài ngày nữa.

Với sự sốt sắng gấp đôi, anh chạm khắc cây thánh giá của mình và đã làm một cây thánh giá rất đẹp, có cây bìm bịp ở bên dưới, với các bộ phận người bị nhục hình và với bàn tay Chúa ở cánh tay đòn bên trái. Khi hoàn thành công việc, anh lại không có đủ can đảm đi đến nhà xã trưởng và tặng quà cho vợ xã trưởng.

Trong thời gian đó, bà mẹ đã vá lại quần áo cho anh, vay gã Mordko một rúp làm tiền đi đường, xếp vào thúng cho anh một cái bánh mì cùng pho mát, rồi bà khóc.

Nhưng Antek vẫn nói dông dài, lần lữa việc ra đi của mình hết ngày này sang ngày khác.

Điều đó gây ra sự sốt ruột ở ông Andrzej, người đã gọi anh ra khỏi nhà vào một ngày thứ Bảy và nói với anh một cách nghiêm khắc:

- Nào, bao giờ thì mày đi, chàng trai, mày có làm chủ được mình không đấy? Mày có muốn mẹ mày phải đói vì mày và chết mệt vì công việc hay không? Rõ ràng là bằng đôi bàn tay già nua của mình, bà ấy không thể nuôi sống bản thân và một đứa to xác như mày, kẻ suốt ngày chỉ biết lêu lổng!...

Antek cúi người xuống đến tận chân ông ta.

- Cháu sẵn sàng ra đi ngay, bác Andrzej ạ, chỉ có điều bỏ lại những người thân của mình thì cháu rất thương!

Nhưng anh không nói ai khiến anh thương nhất.

- Ô hô! - Ông Andrzej nói to - Mày đâu còn là đứa bé đang bú để mà không thể xa nổi mẹ? Mày là chàng trai tốt, không nói gì, nhưng lại có trong mình sự lưỡng lự như vậy, điều đó có thể giữ chân mày cho đến bạc đầu bên cạnh mẹ. Vì vậy tao nói thẳng với mày: ngày mai là Chủ nhật, tất cả chúng tao đều được nghỉ vì thế chúng tao sẽ tiễn đưa mày ra đi. Vì vậy sau lễ cầu kinh, ăn trưa xong là mày phải lên đường. Ở đây ngồi bó tay mãi không được đâu. Mày biết rõ nhất là tao nói đúng sự thật.

Antek bị sỉ nhục trở về nhà và nói rằng ngày mai sẽ đi ra thiên hạ để tìm công việc và học tập. Người đàn bà nghèo khổ vừa lau nước mắt vừa chuẩn bị đồ đạc cho anh lên đường. Bà cho đứa con trai chiếc thúng cũ, chiếc duy nhất còn lại ở trong nhà và một cái túi may bằng vải bố. Bà cho vào trong thúng một chút thức ăn, cho vào chiếc túi cái dũa, cái búa, cái đục và các đồ dùng khác mà bao nhiêu năm nay Antek vẫn dùng để chế tạo các đồ chơi của mình.

Đêm đến. Antek nằm trên chiếc ghế dài cứng, nhưng không thể ngủ được. Anh nhổm dậy nhìn vào những cục than đang dần tắt trong bếp lò, nghe tiếng chó sủa từ xa vọng đến hoặc tiếng dế gáy liên hồi trong nhà, âm thanh ấy đang lên tiếng gọi an