← Quay lại trang sách

NHỮNG TỘI LỖI TUỔI ẤU THƠ

Tôi sinh ra vào thời đại mà mỗi người đều phải có biệt danh, mặc dù biệt danh đó không hoàn toàn đúng.

Chính vì lí do ấy, bà chủ đất của chúng tôi được gọi là bà công tước, bố tôi là người đại diện của bà, còn tôi rất hiếm khi là Kazio hoặc Lesniewski, mà thường xuyên bị gọi là “trẻ ranh” - khi tôi còn ở nhà, hoặc “con lừa” - khi tôi đã đi học ở trường.

Nếu ai đó muốn tìm tên họ bà chủ chúng tôi trong quyển từ điển các dòng họ quý tộc thì thật uổng công, vì thế tôi có cảm tưởng rằng ánh hào quang của tấm vương miện công tước của bà không vươn ra xa hơn danh hiệu đại diện toàn quyền của người cha đã quá cố của tôi. Thậm chí, tôi nhớ lại rằng danh hiệu công tước là cách thức để kỉ niệm, khi người cha quá cố của tôi tổ chức ăn mừng nhân dịp được tăng lương hằng năm thêm một trăm zloty. Bà chủ chúng tôi nhận danh hiệu dành tặng mình trong im lặng, còn vài ngày sau đó, cha tôi được thăng tiến từ người quản lí lên đại diện toàn quyền và thay cho văn bằng, đã nhận được một con lợn đực cực lớn, sau khi bán nó đi, cha đã mua cho tôi đôi giày đầu tiên.

Cha tôi, tôi và em gái Zosia của tôi (tôi không còn mẹ) sống cùng với nhau trong ngôi nhà ngang xây gạch, nằm cách dinh vài chục bước, sống trong dinh là bà công tước cùng cô con gái Lonia của bà - một người cùng tuổi với tôi, cô gia sư của cô bé, cùng với bà quản gia già Salusia, cũng như một số lượng lớn người làm vườn và các cô gái phục vụ. Các cô gái đó suốt ngày chỉ may vá, từ đó tôi đi đến kết luận, rằng những người chủ lớn sinh ra chỉ để làm hỏng quần áo, còn các cô gái thì được dùng vào việc sửa chữa chúng, về những phẩm giá khác của các bà lớn và các cô gái nghèo, tôi không có khái niệm, đó là ưu điểm duy nhất của tôi trong mắt cha tôi.

Bà công tước là một bà góa trẻ, mà người chồng sớm chìm đắm trong nỗi buồn khôn nguôi. Nếu như theo truyền thống mà tôi biết được thì người xấu số không hề được phong là công tước và ông ta cũng không hề phong ai làm người đại diện toàn quyền. Ngược lại, những người láng giềng với một sự nhất trí thật kì lạ ở nước ta, đã gọi ông là người ngớ ngẩn. Ít nhất thì ông cũng là kẻ không bình thường. Ông thường cưỡi ngựa giẫm lên những hạt giống của nông dân khi đi săn, còn với láng giềng thì ông thách đấu vì lũ chó và những con thỏ. Trong nhà ông hành hạ vợ vì ghen tuông, còn khi đi làm thì ông hủy hoại cuộc sống bằng việc thường xuyên ngậm tẩu thuốc. Sau khi chết, những con ngựa độc đáo của ông đã được đưa đi chở phân, còn lũ chó thì phát tán cho mọi người. Thế gian còn nhận lại sau khi ông mất một cô con gái nhỏ và người vợ góa trẻ tuổi. Ôi! Tôi xin lỗi, bởi còn có thêm một bức tranh sơn dầu vẽ chân dung người quá cố với cái nhẫn khắc gia huy trên ngón tay và - cái tẩu thuốc nọ, mà vì sử dụng không đúng mức, nó đã bị cong lại giống như một thanh kiếm Thổ Nhĩ Kì.

Dinh thì hầu như tôi không được biết. Thứ nhất là vì tôi thích chạy nhảy trên cánh đồng hơn là ngã trên tấm lát sàn trơn tuột, thứ hai, là vì đám người hầu không cho tôi vào đó, do lần đầu tới thăm, tôi đã không may làm vỡ một chiếc bình hoa Saxon lớn.

Với cô con gái công tước, trước khi đến trường, chúng tôi chỉ cùng chơi đùa với nhau có một lần, lúc đó cả hai mới chưa đầy mười tuổi. Hôm đó, tôi muốn dạy cô nghệ thuật trèo cây và tôi đã đặt cô ngồi trên hàng rào cây cao đến mức cô bé bắt đầu sợ hãi hét váng trời, khiến gia sư của cô nện cho tôi một trận bằng chiếc ô che nắng và nói tôi có thể làm cho Lonia suốt đời trở thành cô bé bất hạnh.

Kể từ lúc đó, tôi cảm thấy ghê tởm bọn con gái nhỏ, không một đứa nào trong số đó có khả năng kể từ trèo cây, đến tắm ao với tôi, kể từ cưỡi ngựa, đến bắn cung hoặc bắn súng cao su. Còn trong trận đánh - mà thiếu chúng thì trò chơi còn ý nghĩa gì nữa! - gần như đứa con gái nào cũng khóc ầm ĩ và chạy đến ai đó để mách.

Với những đứa con trai trại ấp, cha tôi lại không cho phép tiếp xúc, còn em gái tôi thì hầu như suốt ngày chỉ tha thẩn chơi ở trong dinh, vì vậy tôi lớn lên và tự nuôi sống mình như một con chim non hoang dã mà bố mẹ nó vứt bỏ. Tôi tắm ngay dưới cối xay hoặc bơi trên chiếc thuyền thủng dọc ao. Trong công viên, với sự nhanh nhẹn của mèo, tôi đuổi theo những con sóc trên cành. Một lần, thuyền của tôi bị lật và suốt nửa ngày tôi phải ngồi trên cồn đất di động chỉ nhỏ bằng chiếc chậu gỗ. Một lần, qua ống khói tôi lần mò vào mái dinh, nhưng không may đến mức người ta phải buộc hai cây thang vào để đưa tôi từ đó xuống dưới. Hôm khác, suốt một ngày đêm tôi lạc trong rừng, còn lần khác nữa, con ngựa già của ông chủ quá cố, nhớ lại thời vàng son xưa kia, trong một giờ liền đã mang tôi qua cánh đồng và cuối cùng - chắc là không chủ ý - làm tôi ngã gãy chân, cũng may là cái chân đó đã nhanh chóng lành trở lại.

Không biết sống cùng ai, tôi sống với thiên nhiên. Trong công viên, tôi biết từng tổ kiến; trên cánh đồng, tôi biết từng hang chuột; trong vườn cây, tôi biết từng lối mòn của chuột chũi. Tôi biết về các tổ chim và bọng cây, nơi những chú sóc con được nuôi lớn. Tôi phân biệt được tiếng rì rào của từng cây bồ đề mọc cạnh nhà và biết hát theo tiếng gió ngân trên cành cây. Nhiều lần tôi nghe được tiếng động gì đó lạo xạo ở trong rừng, mặc dù tôi không biết đó là tiếng của cái gì. Tôi ngắm nhìn những ngôi sao nhấp nháy; tôi nói chuyện với màn đêm tĩnh mịch, và vì không có ai để hôn, tôi hôn lũ chó trên sân. Mẹ tôi đã yên nghỉ từ lâu dưới đất. Thậm chí trên tảng đá đè bà đã hình thành một lỗ hổng ăn sâu xuống gần tới giữa mồ. Một lần, khi tôi bị điều gì đó hành hạ, tôi đã đi đến đó gọi bà, tôi đặt tai lên nghe xem liệu bà có đáp lại hay không... Nhưng bà không trả lời. Rõ ràng là bà đã chết thật rồi.

Trong thời gian ấy, tôi có những khái niệm đầu tiên về con người và về quan hệ của họ. Thí dụ trong tưởng tượng của tôi, người đại diện toàn quyền chắc chắn phải là người tương đối béo, có khuôn mặt đỏ au, ria mép quăn, lông mày to trên cặp mắt màu bạc, giọng trầm và ít nhất cũng có khả năng quát to như cha tôi. Những người gọi là nữ công tước tôi không thể tưởng tượng ra người nào khác ngoài một phu nhân cao, khuôn mặt đẹp và đôi mắt buồn, lặng lẽ đi lại dọc công viên trong bộ váy trắng dài quét đất.

Nhưng về người mang danh hiệu công tước thì tôi không có khái niệm nào. Giả sử có một người giống như thế tồn tại thì tôi vẫn có cảm giác rằng người này chẳng có ý nghĩa gì so với bà công tước, thậm chí hoàn toàn vô tích sự và không lịch sự. Theo quan điểm của tôi, chỉ có trong bộ váy rộng rãi với đuôi váy dài thì mới đủ chứa một thân thể oai phong quyền quý; còn mọi loại quần áo ngắn, bó sát người, đặc biệt là bao gồm hai phần, thì chỉ dùng cho những người thư kí kế toán, người nấu rượu và cùng lắm là người đại diện toàn quyền.

Đó là chủ nghĩa chính thống của tôi dựa trên những lời giáo huấn của cha tôi, người không ngừng bảo tôi phải yêu và tôn kính bà công tước. Hơn nữa, giá như tôi có quên những quy định ấy thì chỉ cần nhìn lên chiếc tủ màu đỏ trong văn phòng cha tôi, nơi bên cạnh những hóa đơn và sổ sách ghi chép có treo trên đầu đinh bản khuôn phép năm điều, thể hiện các nguyên tắc của trật tự xã hội. Đối với tôi, văn bản ấy trở thành một loại bách khoa từ điển, khi nhìn vào đó tôi lại nhớ đến việc không nên làm rách giày, kéo ngựa con thì cần nắm đuôi, rằng mọi quyền hành đều phát sinh từ Chúa v.v...

Cha tôi là người làm việc không biết mệt mỏi, hết mực lương thiện, thậm chí vô cùng dịu dàng. Với nông dân và những người phục vụ, ông không bao giờ động chạm tới dù chỉ bằng một ngón tay, chỉ có điều ông quát tháo rất kinh khủng. Nếu như có nghiêm khắc đôi chút đối với tôi, thì chắc chắn không phải không có lí do xác đáng. Người chơi đại phong cầm của chúng tôi (mà một lần tôi đã rắc vào thuốc lá của ông một chút bột đen gây ho, hậu quả là suốt buổi lễ Misa, thay cho việc hát ông đã ho liên tục và luôn nhầm lẫn khi chơi đàn) vẫn thường nói nếu như có một đứa con trai giống như tôi thì ông sẵn sàng bắn vỡ sọ nó.

Tôi nhớ rõ câu nói đó.

Cha tôi gọi bà công tước là thiên thần của lòng tốt. Đúng là như vậy, trong làng của bà không có người đói, người rách và người bị xúc phạm. Ai bị đối xử tồi tệ đều đi đến chỗ bà để tố cáo; ai bị ốm đau đều lấy thuốc ở dinh; ai sinh con đều đề nghị bà làm mẹ đỡ đầu. Em gái tôi cùng học với con gái bà công tước, bản thân tôi, mặc dù né tránh các mối quan hệ với nhà quý tộc, song vẫn có dịp để củng cố lòng tin vào sự dịu dàng vô cùng tận của bà công tước.

Cha tôi sở hữu vài loại vũ khí, mỗi loại dành cho một mục tiêu khác nhau. Khẩu súng hai nòng lớn dùng để giết chó sói, những con thú làm hại lũ bê của bà chủ chúng tôi; khẩu súng lục dùng để bảo vệ những tài sản khác của bà công tước, còn cây gươm quân sự dùng để bảo vệ thanh danh của bà. Tài sản và thanh danh của mình cha tôi chắc là sẽ bảo vệ bằng cây gậy cá nhân, bởi toàn bộ số đồ quân dụng nọ cứ vài tháng lại được bôi mỡ và đặt ở chỗ nào đó trong một góc trên mái nhà kín đến nỗi thậm chí tôi cũng không thể tìm được.

Bằng cách của mình, tôi vẫn biết về số vũ khí đó và tôi rất thèm khát chúng. Nhiều lần tôi mơ thấy rằng mình sẽ thực hiện một sứ mạng cao cả và vì thế cha tôi cho phép bắn bằng khẩu súng lục lớn, còn thực ra lúc đó - tôi lẩn trốn vào nhà người coi rừng và học cách “phun ra” các cuộc quyết đấu kéo dài, các cuộc ấy có đặc tính là khi bắn chỉ gây thiệt hại trực tiếp cho hàm răng của tôi mà không động chạm đến bất kì một sinh linh nào.

Một hôm, khi lau dầu khẩu súng hai nòng dùng để bắn chó sói, khẩu súng lục bảo vệ tài sản và thanh gươm bảo vệ thanh danh của bà công tước, tôi đã đánh cắp được của cha tôi một ít thuốc súng, loại mà theo tôi biết thì vẫn chưa định dùng làm gì. Khi cha tôi đi vào cánh đồng, tôi lấy được chùm chìa khóa lớn của kho chứa lương thực, chiếc chìa khóa có rãnh giống như nòng súng và cũng có một lỗ nhỏ ở bên cạnh, và thế là tôi đi săn.

Chìa khóa lớn dùng để đi săn được tôi nhồi thuốc súng, đổ một dúm cúc áo bị gãy vụn lấy ra từ những bộ quần áo không dùng nữa vào, nhồi thật chặt bằng xơ đay như cần thiết, còn để gây tiếng nổ tôi cầm sẵn một hộp diêm.

Tôi vừa mới đi khỏi nhà đã nhìn thấy mấy con quạ khoang đang săn lùng lũ vịt con của lâu đài. Gần như ngay trước mắt tôi, một con thú gây hại đã quắp được chú vịt con, nhưng vì không thể dễ dàng nâng nó lên, liền đậu xuống chuồng bò. Nhìn thấy cảnh tượng đó, dòng máu ông cha từ thời ở thành Vienna sôi sục. Tôi nhảy đến sát chuồng bò, quẹt diêm, ngắm bằng mắt trái vào chiếc chìa khóa, nín thở, châm ngòi... Một tiếng nổ như sét đánh vang lên. Từ trên nóc chuồng bò, con vịt tắt thở lăn đùng xuống đất, con quạ khoang hoảng sợ thoát chết lẩn trốn lên cây bồ đề cao nhất, còn tôi thì ngạc nhiên nhận thấy rằng trong tay tôi chiếc chìa khóa lớn chỉ còn lại có một mẩu sắt,thay vào đó, từ mái rạ của chuồng bò bốc lên một làn khói không lớn lắm, giống như ai đó hút tẩu thuốc.

Mấy phút sau, chuồng bò trị giá khoảng năm mươi zloty chìm trong lửa.

Mọi người chạy đến, cha tôi cưỡi ngựa phi nước đại đến, sau đó với sự trợ giúp của tất cả đám người dũng cảm và lương thiện, bất động sản “đã cháy đến tận lòng đất” - nói như ông thợ nấu rượu.

Trong thời gian đó, với tôi đã xảy ra những điều không thể diễn tả nổi. Trước tiên, tôi chạy về nhà và treo mẩu chìa khóa còn lại đúng vào chỗ cũ. Sau đó, tôi chạy đến công viên với ý định dìm mình trong ao cá. Một giây sau, tôi thay đổi dự định, quyết định nói dối như gã thư kí kế toán, chối phăng chuyện bắn vào chuồng bò. Nhưng khi người ta tóm được tôi - thì tôi lập tức nhận tất cả mọi chuyện.

Người ta dẫn tôi đến dinh. Trên hàng hiên, tôi nhìn thấy cha tôi, bà công tước trong chiếc váy quét đất, cô công tước nhỏ mặc váy hơi ngắn và em gái tôi, cả hai đang khóc; sau đó - bà quản gia Salusia, người coi phòng, người hầu, cậu bé bê đồ ăn, ông đầu bếp, nữ phụ bếp và toàn bộ bọn hầu phòng; bọn làm vườn và các cô gái. Giá như tôi quay mặt lại phía sau lưng, tôi đã nhìn thấy ở sau nhà những chóp xanh của đám bồ đề, và xa hơn một chút, cột khói màu vàng thẫm, như cố tình dâng lên trên chỗ cháy.

Lúc đó, tôi nhớ lại lời của người chơi đại phong câm, kẻ nói về sự cần thiết phải bắn vỡ sọ tôi, và tôi đi đến kết luận, rằng nếu chuyện đó xảy ra thì chính ngày hôm nay cái chết dữ dội sẽ đến với tôi. Tôi đã làm cháy chuồng bò, làm hỏng chìa khóa kho lương thực; em gái tôi đang khóc, toàn bộ đám người hầu đứng đầy đủ trước dinh, điều đó có nghĩa là gì đây?... Tôi chỉ nhìn xem liệu ông đầu bếp có cầm khẩu súng săn của mình hay không - bởi vì nhiệm vụ của ông ta là bắn những con thỏ cũng như những gia súc bị bệnh sắp chết.

Người ta dẫn tôi đến trước mặt bà công tước. Bà nhìn tôi với cặp mắt buồn rầu, còn tôi, sau khi đặt hai tay ra phía sau (tôi thường làm việc đó theo thói quen khi đứng trước mặt cha tôi), liền ngước đầu lên, vì bà rất cao.

Trong vài giây, chúng tôi đã nhìn nhau như vậy. Đám người hầu im lặng, trong không trung cảm thấy như có cái gì sắp cháy.

- Thưa ông Lesniewski, tôi thấy rằng cậu bé này vô cùng thích hoạt động, đúng không? - Bằng giọng du dương, bà công tước hướng về phía cha tôi lên tiếng.

- Thằng khốn nạn!... Thằng đốt nhà!... Nó đã làm hỏng của tôi chìa khóa kho lương thực! - Cha tôi trả lời, sau đó nói thêm rất nhanh - Quỳ xuống dưới chân bà công tước, thằng đểu!...

Và ông đẩy nhẹ tôi lên phía trước.

- Các người phải giết con thì giết đi, song con sẽ không quỳ gối trước bất cứ một ai! - Tôi trả lời, không rời mắt khỏi bà, người đã đưa đến cho tôi một cảm tưởng rất kì lạ.

- Ôi!... Jesus ơi!... - Bà Salusia sợ hãi vừa rên rỉ vừa khép tay lại.

- Hãy bình tĩnh lại, cậu bé của tôi, ở đây không ai làm gì tổn thương đến cậu đâu - Bà chủ lên tiếng.

- A ha! Không ai... Cứ làm như con không biết rằng các người sẽ bắn vỡ sọ con... Rõ ràng là người chơi đại phong cầm đã nói với con như vậy mà! - Tôi đáp.

- Ôi!... Jesus ơi!... - Người quản gia lần thứ hai lại kêu lớn.

- Thật nhục nhã cho tuổi già của tôi! - Cha tôi lên tiếng - Tôi sẵn sàng lột xác thằng đê tiện này ra đem ướp muối, xin bà công tước đừng đứng ra che chở nó.

Ở góc hàng hiên, ông đầu bếp lấy tay che miệng và cười to đến nỗi mặt tím bầm lại. Tôi không thể nhịn được và thè lưỡi ra với ông ta.

Đám người hầu ồn ào hẳn lên vì ngạc nhiên, còn cha tôi, vừa nắm lấy vai tôi vừa thét:

- Mày lại làm cái gì thế?... Trước mặt bà công tước mày thè lưỡi ra như vậy à?...

- Con thè lưỡi ra với ông đầu bếp, bởi vì ông ấy nghĩ rằng sẽ bắn chết con giống như bắn con ngựa già...

Bà công tước lại tỏ ra buồn rầu hơn. Bà vuốt mớ tóc xõa xuống trước trán tôi, nhìn sâu vào mắt và nói với cha tôi:

- Ông Lesniewski ơi, ai biết được cái gì sẽ đến với thằng bé này?...

- Giá treo cổ! - Cha tôi lo lắng đáp lại gọn lỏn.

- Không biết thế nào đâu. - Bà chủ vừa trả lời vừa lấy tay xoa mớ tóc lông nhím của tôi.

- Phải gửi nó đến trường học, ở đây nó sẽ biến thành kẻ hoang dã mất.

Và sau đó, khi đã về đến phòng khách, bằng giọng nhỏ nhẹ bà nói:

- Nó có phẩm chất một con người, ông Lesniewski ạ... Chỉ cần dạy dỗ nó.

. Sẽ thực hiện theo ý nguyện của bà công tước! - Cha tôi vừa trả lời vừa nện nắm đấm vào gáy tôi.

Từ hành lang mọi người đều tản đi, nhưng tôi còn ở lại, đứng bất động như hòn đá, nhìn chằm chằm vào cửa ra vào, nơi bà chủ của chúng tôi khuất bóng. Bây giờ tôi mới tiếc nuối nghĩ rằng tại sao mình không quỳ gối trước mặt bà - và tôi cảm thấy có cái gì đó dâng lên làm tức ngực. Giá như bà ra lệnh, tôi sẵn sàng đặt mình nằm xuống nền chuồng bò và nướng xác mình trên đó. Không phải bởi vì bà ra lệnh cho đầu bếp bắn hoặc giết chết, mà vì bà có giọng nói ngọt ngào và cái nhìn buồn rầu đến như vậy.

Kể từ hôm đó, tôi ít tự do hơn. Bà công tước không muốn mất thêm trong ngọn lửa phần nhà cửa của mình, cha tôi thì tiếc nuối đã không thể tính toán giải quyết với tôi vụ chuồng bò bị cháy, còn tôi phải tự mình chuẩn bị đến trường. Người chơi đại phong cầm và ông thợ nấu rượu thay nhau dạy tôi học. Thậm chí người ta còn nói, một môn nào đó sẽ do cô gia sư của dinh trực tiếp dạy. Cô gia sư đó, sau khi làm quen với tôi, phát hiện ra rằng trong túi tôi đầy rẫy các loại dao, đá sỏi, đạn chì và ngòi thuốc nổ thì đã sợ hãi đến mức không muốn nhìn thấy tôi lần thứ hai nữa.

- Bọn kẻ cướp như vậy tôi không dạy đâu. - Cô nói với em gái tôi.

Nhưng trong thời gian đó, tôi đã đĩnh đạc lên rất nhiều. Chỉ một lần tôi muốn thử treo cổ. Thế nhưng sau đó phải làm việc gì đó khác, vì vậy tôi không gây ra điều gì tồi tệ cả.

Cuối cùng thì vào đầu tháng Tám, người ta dẫn tôi đến trường học.

Tôi đã thi đậu nhờ những bức thư của bà công tước, sau đó cha tôi bố trí cho tôi ở trọ có phụ đạo thêm, có sự thăm nom của cha mẹ và mọi tiện lợi khác với giá hai trăm zloty và năm thúng lúa mì mỗi năm, đồng thời - cấp cho tôi bộ đồng phục của trường.

Bộ quần áo mới khiến tôi quan tâm đến mức vì không thể mặc nó vào ban ngày để làm đỏm, tôi lặng lẽ thức dậy vào ban đêm, trong bóng tối mặc vào người chiếc áo sơ mi cổ đỏ, đội lên đầu chiếc mũ sọc đỏ và dự tính sẽ ngồi như vậy vài phút. Nhưng vì đêm đó nhiều mưa, từ cửa ra vào có chút gió, còn tôi ngoài bộ đồng phục và mũ ra lại mặc cả quần áo trong nhà, vì vậy tôi đã nhắm mắt thiu thiu một chút và đã ngủ quên trong bộ đồng phục cho đến sáng.

Phương pháp ngủ đêm như vậy đã làm cho bọn bạn tôi bật cười thú vị, nhưng ông chủ nhà trọ lại nảy ra sự nghi ngờ, rằng trong nhà đang có một đứa nhãi ranh không bình thường. Ông chạy thật nhanh đến khách sạn, nơi xe của cha tôi vẫn còn đang đỗ và nói rằng bằng bất cứ giá nào cũng không muốn cho tôi ở trọ, nếu như cha tôi không trả thêm năm thúng khoai tây mỗi năm. Mặc cả khá lâu ngã giá ở ba thúng, song về phía cha tôi, ông đã tạm biệt tôi và biểu lộ thái độ khó chịu đến mức tôi không tỏ ý luyến tiếc khi ông rời xa, và không nhớ nhung căn nhà, nơi tôi có thể gặp sự đón tiếp tương tự như vậy nhiều hơn.

Quá trình giáo dục tôi ở lớp Một không gặp phải bất cứ tình huống đặc biệt nào đáng kể. Hôm nay, nhìn lại thời quá khứ xa vời đó, với khoảng cách đủ lớn, như mọi người biết, để đưa ra nhận định khách quan, tôi thừa nhận rằng, nhìn tổng quát cuộc sống của tôi thay đổi không nhiều. Ở trường, tôi thường ngồi lại trong phòng kín lâu hơn, về nhà - chạy nhảy nhiều hơn ở ngoài trời thoáng đãng. Tôi đã thay bộ quần áo thông thường bằng bộ đồng phục, còn những người làm phận sự chăm lo cho sự phát triển thể lực và tinh thần của tôi, thay cho các bản quy định ki luật, đã dùng đến roi vọt.

Và mọi chuyện chỉ có vậy.

Trường học, như mọi người đều biết, nhờ đặc tính tập thể của mình, đã chuẩn bị cho các cậu bé cuộc sống trong xã hội và cung cấp cho họ những khả năng mà họ không có được khi sống tách biệt từng cá thể. Về sự thật đó, tôi được thuyết phục một tuần sau khi có mặt tại trường, nơi tôi học cách phân phát pho mát,việc làm đòi hỏi sự tham gia của ít nhất ba người, có nghĩa là không thể tồn tại ngoài phạm vi xã hội.

Bây giờ, tôi mới phát hiện ra tài năng đích thực này của mình, thứ mà thiên nhiên đã bảo vệ tôi trước những nghiên cứu lí thuyết và đẩy tôi về hướng các hoạt động tập thể. Tôi là người chơi bóng gậy gỗ hàng đầu, là bậc thầy trong các cuộc đánh trận giả, là người tổ chức các cuộc tham quan dã ngoại bên ngoài trường lớp, thường được gọi là trò lột xác, tôi điều khiển việc giậm chân tập thể hoặc trò kêu be be hàng sáu chục người trong lớp, thứ trò tiêu khiển mà chúng tôi thỉnh thoảng lại tổ chức để giải lao. Ngược lại, tôi là kẻ đơn độc trước các bài học về quy tắc ngữ pháp, các ngoại lệ, sự biến cách và cách chia động từ, những môn cơ bản tạo thành cơ sở của tư duy triết học, ngay tức khắc, tôi cảm thấy trong lòng một sự trống rỗng, mà từ sâu thẳm của sự trống rỗng ấy nổi lên - sự buồn ngủ.

Do đó, nếu tôi trả lời được tương đối lưu loát các bài học, thì chỉ bởi vì tôi có thị giác rất mạnh, cho phép đọc sách từ khoảng cách xa tới hai hoặc ba hàng ghế. Đôi khi xảy ra trường hợp tôi nghĩ hoàn toàn khác so với bài bị hỏi, lúc đó tôi lẩn trốn tới cách thức biện minh quen thuộc thường dùng trong trường hợp như vậy. Thí dụ như tôi nói rằng tôi không nghe thấy câu hỏi hoặc rằng “run quá”.

Nói chung, tôi là học trò của tương lai, không chỉ vì tôi gây ra sự bất mãn ở những học sinh từng trải và thiện cảm ở những học trò trẻ tuổi, mà còn là bởi vì những điểm số tốt từ các môn học và đồng thời với chúng là hi vọng được lên lớp, tôi chỉ thấy trong giấc mơ, khác xa so với hiện thực.

Quan hệ của tôi với các giáo viên cũng khác nhau.

Giáo sư môn tiếng Latinh cho tôi điểm không quá tồi vì tôi chăm học ngữ pháp, môn học cũng do ông dạy. Cha đạo hầu như không cho điểm tôi, vì tôi đã đưa đến cho cha những câu hỏi khó chịu, để đáp lại, câu trả lời duy nhất của cha là: “Lesniewski, hãy quỳ xuống!” Thầy giáo dạy vẽ và viết chữ đẹp thì khen ngợi tôi là một người biết vẽ, song lại chê tôi với tư cách người viết chữ đẹp; nhưng vì trong suy nghĩ của ông, nghệ thuật viết là môn học quan trọng nhất trong trường học, nên khi đánh giá về tôi thì vấn đề viết chữ đẹp vượt lên trên và cho tôi điểm 1, thỉnh thoảng là điểm 2.

Môn Số học tôi hiểu rất tốt, vì bài giảng dựa trên phương pháp tổng quan, tức là “đánh vào tay” nếu không chú ý. Thầy giáo môn tiếng Ba Lan tiên đoán ở tôi một tương lai xán lạn, do một lần nhân ngày sinh

của ông, tôi đã làm một bài thơ ca ngợi sự nghiêm khắc của ông. Cuối cùng, điểm các môn học khác của tôi phụ thuộc vào việc liệu các láng giềng của tôi có nhắc tốt cho tôi, hoặc quyển sách nằm ở ghế phía trước tôi có được mở đúng chỗ hay không.

Tuy nhiên, quan hệ gần gũi nhất là quan hệ giữa tôi và viên thanh tra. Người này quen với việc đuổi tôi ra khỏi lớp trong giờ học và gặp tôi sau giờ đến nỗi cảm thấy lo lắng, khi trong tuần nào đó tôi không gợi cho ông nhớ đến mình.

- Lesniewski! - Một ngày nọ, ông gọi sau khi phát hiện ra rằng tôi đang đi từ lớp học về nhà - Lesniewski!... Tại sao cậu không ở lại?...

- Nhưng mà con có làm gì đâu. - Tôi đáp lại ông.

- Sao lại thế, cậu không bị ghi tên trong sổ hằng ngày à?...

- Có cha con chứng giám, đúng là như vậy!

- Thế cậu có thuộc bài không?...

- Nhưng hôm nay hoàn toàn không ai bắt con lên bảng cả!...

Viên thanh tra đắn đo.

- Có chuyện gì đó ở đây! - Ông thầm thì- Cậu biết không, Lesniewski, cậu ở lại đây một chút đã.

- Thưa ông thanh tra vàng bạc của con, con hoàn toàn không phạm tội gì! Thề có cha con!... Thề có Chúa!...

- A ha... Cậu thề à, con lừa?... Đến đây ngay bây giờ cho tôi!... Nếu thực sự cậu không bịa đặt thì - tính cho cậu lần sau!...

Nói chung, tôi có ở viên thanh tra mối nợ công khai, điều đã làm tôi trở nên khá nổi tiếng ở trong trường, đặc biệt ở chỗ là không ai cạnh tranh nổi.

Giữa đám mấy chục học sinh lớp Một, có đứa đã cạo râu bằng dao cạo thứ thiệt, ba đứa suốt ngày chỉ đánh bài dưới gầm ghế, còn những đứa khác đều khỏe như lính tráng, có một đứa tàn tật - Jozio. Đó là cậu bé gù, lùn so với tuổi, tiều tụy, với cái mũi nhỏ xíu màu tím, đôi mắt nhợt nhạt và mái tóc phẳng lì. Cậu ta yếu ớt đến mức đi từ nhà đến trường phải ngồi nghỉ giữa đường, và nhát gan đến nỗi khi người ta gọi lên trong giờ học, cậu sợ đến mất tiếng không nói được câu nào. Không bao giờ cậu đánh nhau với ai, chỉ xin với những đứa khác đừng đánh cậu. Một lần, người ta đưa cho cậu một con cá măng với bàn tay khô như que củi - cậu ngất xỉu, song khi tỉnh lại, cậu không tố cáo ai.

Cậu có cả bố lẫn mẹ, ông bố đã đuổi bà mẹ ra khỏi nhà, giữ Jozio bên cạnh với ý muốn tự mình chăm lo giáo dục cho con. Ông muốn tự mình đưa con đến trường, cùng con đi dạo, dạy thêm cho con, nhưng không làm điều đó vì không có thời gian, thứ mà ông để mất nhanh chóng một cách kì lạ trong việc buôn bán rượu và bia kiều mạch của hãng Moszek Lipa.

Như vậy là Jozio không có bất kì sự bảo trợ nào, còn tôi đôi khi có cảm giác rằng đối với thằng bé như vậy, thậm chí Chúa cũng không muốn từ trên trời nhìn xuống.

Tuy vậy, Jozio vẫn có tiền, mỗi ngày được sáu hoặc mười xu. Với số tiền đó, nó mua hai bánh mì tròn và một khúc dồi nhân thịt trong giờ giải lao. Mọi người để ý theo dõi nó, do vậy, muốn được an toàn, nó mua năm bánh mì tròn và mang chia cho những đứa khỏe nhất, mong chúng tỏ lòng độ lượng với nó.

Món thuế đó không giúp nó được bao lâu, vì ngoài năm đứa được ăn, còn có gấp ba số đứa như vậy không được ăn. Chúng không ngừng gây sự với nó. Đứa này véo nó, đứa khác nắm tóc nó kéo, đứa nữa chọc vào người, đứa thứ tư đấm vào tai, còn đứa ít can đảm nhất thì ít nhất cũng gọi nó là thằng gù.

Jozio chỉ cười trước những trò đùa bạn bè kiểu ấy, đôi lúc nó nói:

- Xin các cậu để yên cho mình!... - Và đôi khi, nó chẳng nói gì, chỉ tựa người trên đôi tay gầy còm và ho.

Lúc đó bọn bạn lại kêu:

- Hãy nhìn kìa! Cái lưng gù của nó rung lên kìa!... - Và bọn chúng lại càng chọc ghẹo nó hăng hái hơn.

Lúc đầu, tôi cũng không chú ý nhiều tới cậu gù, tôi cho rằng nó là đứa buồn chán. Nhưng một lần, đứa bạn to lớn, cạo râu bằng dao cạo, ngồi sau lưng Jozio và bắt đầu búng vào hai tai cậu. Cậu gù sắp khóc, còn lớp học thì rung lên vì cười. Lúc bấy giờ, một cái gì đó nhói lên trong tim tôi. Tôi vơ lấy con dao nhíp đã mở sẵn và đâm vào tay thằng cao lớn đã búng vào tai cậu gù, vừa đâm vừa hét to, rằng tôi sẽ làm như vậy với bất cứ đứa nào động đến Jozio dù chỉ bằng một ngón tay!...

Máu tuôn ra từ thằng cao lớn, mặt nó trắng nhợt như bức tường và có cảm giác rằng nó sẽ ngất xỉu. Cả lớp bỗng nhiên ngừng cười, và sau đó bắt đầu kêu to: “Nó xứng đáng bị như vậy, đừng có bắt nạt người tàn tật!...” Đúng lúc đó, giáo sư bước vào, sau khi biết chuyện tôi đánh bạn bị thương, muốn gọi viên thanh tra mang cây gậy và roi đến. Nhưng tất cả đều cầu xin cho tôi, thậm chí bản thân thằng cao lớn bị thương cũng xin; vì vậy đầu tiên là tôi và thằng cao lớn ôm hôn nhau, sau đó là nó và Jozio, sau đó Jozio và tôi - và thế là chúng tôi đã thoát khỏi hiểm họa.

Tôi để ý thấy cả giờ học, thằng gù cứ quay đầu về phía tôi và mỉm cười, chắc chắn là vì trong thời gian đó nó không bị thêm một cái búng nào. Giờ giải lao cũng không ai gây sự với nó, vài đứa còn tuyên bố sẽ bảo vệ nó. Cậu ta cảm ơn bọn họ, rồi chạy đến chỗ tôi và muốn cho tôi một chiếc bánh mì tròn phết bơ. Tôi không nhận, vì vậy cậu hơi ngượng, sau đó nói khẽ:

- Lesniewski, cậu biết không, tớ sẽ kể cho nghe một bí mật.

- Nói đi! - Tôi đáp - Nhưng nói nhanh lên...

Thằng gù tỏ ra bồn chồn, sau đó lên tiếng hỏi:

- Cậu có bạn thân chưa?...

- Điều đó mang lại cái gì cho tớ?...

- Cậu thấy đấy, nếu cậu muốn tớ sẽ trở thành bạn thân của cậu.

Tôi nhìn nó từ trên cao. Nó càng tỏ ra bối rối hơn và một lần nữa lại hỏi bằng giọng thật nhỏ nhẹ và bị dồn nén:

- Tại sao cậu lại không muốn làm bạn với tớ?

- Vì tớ không chơi với loại người ăn bám như cậu!...- Tôi trả lời.

Cái mũi thằng gù lại tím hơn thường ngày. Nó đã muốn bỏ đi, nhưng một lần nữa quay đầu về phía tôi nói:

- Thế cậu có muốn tớ ngồi cạnh cậu không?... Cậu thấy đấy, tớ cho rằng, điều mà giáo viên hỏi, tớ có thể đưa ra lời giải cho cậu... Tớ biết cách nhắc bài tốt...

Lập luận này đối với tôi thật là quan trọng. Sau giây phút suy nghĩ, tôi nhận thằng gù vào cùng ghế, và cậu láng giềng của tôi cũng chấp thuận nhường chỗ của mình cho nó với giá năm chiếc bánh mì tròn.

Ngay buổi chiều, Jozio đã chuyển đến chỗ tôi. Đó là đứa trợ giúp thành thật nhất của tôi; người đáng tin cậy và cũng là kẻ khen ngợi tôi nhiều nhất. Cậu ta chọn từ và làm bài dịch, cậu ghi chép các ví dụ đưa ra, mang lọ mực, bút và bút chì cho cả hai chúng tôi. Cậu nhắc bài mới tuyệt làm sao!... Trong thời gian tôi học ở trường, nhiều đứa đã nhắc bài cho tôi, thậm chí một số đứa còn phải quỳ vì chuyện đó, nhưng trong nghệ thuật đó không đứa nào sánh bằng Jozio. Trong việc nhắc bài thằng gù là bậc thầy, nó biết nói với hàm răng mím chặt và khi làm điều đó nó vẫn giữ vẻ mặt hồn nhiên đến mức không một giáo sư nào tỏ ý nghi ngờ...

Mỗi lần tôi bị nhốt giam thằng gù đều lẻn mang bánh mì và thịt từ bữa trưa của mình cho tôi. Còn khi tôi gặp chuyện không hay gì đó lớn hơn thì với nước mắt đầm đìa nó cam đoan với các bạn rằng tôi sẽ không để mình bị tổn thương.

- Hô! Hô! - Nó nói - Kazio rất khỏe. Nếu túm được cây gậy ở sau lưng thì sẽ ấn nó xuống đất như túm lông. Đừng có sợ!...

Đương nhiên là các bạn tôi không sợ, chỉ có nó, thằng bạn khốn khổ, sợ hãi thay cho cả hai đứa chúng tôi.

Nếu trong giờ học nào đó thằng gù không phải chú ý canh chừng thì lúc bấy giờ nó ra sức tán dương tôi:

- Chúa ơi!... Giá như tớ mạnh mẽ được như cậu!... Chúa ơi!... Giá như tớ có năng lực như cậu... Cậu biết không, nếu như cậu muốn thì chỉ một tháng nữa cậu sẽ trở thành học trò đứng đầu lớp...

Một hôm, hoàn toàn bất ngờ, thầy giáo môn tiếng Đức bắt tôi đứng ra giữa lớp. Jozio kinh hãi chỉ kịp nhắc tôi rằng tất cả các danh từ giống cái đều thuộc về biến cách thứ tư, thí dụ như từ: die Frau - bà...

Tôi hăng hái bước ra và với sự chắc chắn lớn lao, tôi tuyên bố với giáo viên rằng tất cả các danh từ giống cái đều thuộc về biến cách thứ tư, thí dụ như: die Frau - bà... Nhưng đến đó kết thúc vốn hiểu biết của tôi.

Giáo sư nhìn vào mắt tôi, lắc đầu và ra lệnh dịch. Tôi đọc trôi chảy và rất to bài tiếng Đức một lần, sau đó thêm lần nữa đọc còn trôi chảy hơn, song khi bắt đầu đọc lần thứ ba cũng vẫn đoạn đó thì thầy giáo ra lệnh tôi về chỗ.

Trên đường về ghế, tôi để ý thấy rằng Jozio rất chăm chú theo dõi nét bút chì của giáo sư và nó có vẻ mặt buồn rầu.

Tôi hỏi thằng gù một cách vô tư:

- Cậu có biết thầy cho tớ điểm gì không?

- Tớ biết nói thế nào?... -Jozio nín thở.

- Nhưng cậu cảm thấy thế nào?

- Tớ, - thằng gù nói- tớ sẵn sàng cho cậu điểm 5, mà thôi, điểm 4, nhưng ông ấy...

- Ông ấy cho tớ điểm mấy?- Tôi hỏi.

- Hình như cho - cây gậy... Nhưng đó là con lừa, ông ta thì biết gì!...- Jozio đáp với giọng tin tưởng một cách sâu sắc.

Mặc dù yếu ớt, cậu bé đó rất chăm chỉ và nhanh nhẹn. Trong lớp, tôi thường đọc tiểu thuyết, còn nó thì nghe giảng và sau đó nhắc lại cho tôi.

Một lần, tôi hỏi nó:

- Thầy giáo môn Động vật học của chúng ta nói về cái gì?

- Cậu biết không, nói về điều,- thằng gù đáp với vẻ mặt bí hiểm- rằng cây cối cũng giống như các con vật.

- Ông ấy là đồ ngu ngốc. - Tôi trả lời.

- Thế nhưng... - thằng gù nói - ông ta có lí. Tớ cũng đã hiểu ông ấy đôi chút.

Tôi bắt đầu cười và nói:

- Nào, nếu như cậu thông minh như vậy, thì hãy nói cho tớ nghe: cái gì ở cây liễu giống với con bò?

Thằng bé nghĩ ngợi một chút rồi từ tốn lên tiếng:

- Cậu thấy đấy... con bò lớn lên, còn cây liễu cũng lớn lên...

- Còn cái gì tiếp theo?

- Cậu thấy đấy... con bò ăn cỏ và cây liễu cũng hút nước từ đất...

- Tiếp nữa?...

- Con bò thuộc giống cái, còn cây liễu cũng thuộc giống cái. -Jozio giảng giải.

- Nhưng con bò vẫy đuôi! - Tôi nói với nó.

- Thì cây liễu vẫy cành! - Nó đáp.

Tổng thể các biện minh ấy làm ảnh hưởng đến niềm tin của tôi vào sự khác nhau giữa các con vật và cây cối. Bản thân quan điểm ấy làm tôi thích thú, và từ lúc đó trong tôi được đánh thức tình yêu đối với môn Động vật học được viết tóm tắt trong quyển sách của Pisulewski. Nhờ những bằng chứng của thằng gù, tôi bắt đầu đạt được những điểm 5 từ môn học đó.

Một hôm, Jozio không đến trường, trước giờ trưa ngày hôm sau, mọi người nói rằng có ai đó gọi tôi ra ngoài. Tôi chạy ra hành lang với tâm trạng tương đối bất an, giống như trong những trường hợp tương tự, nhưng thay vì viên thanh tra, tôi nhìn thấy một người đàn ông to béo, khuôn mặt đỏ tía, cái mũi màu tím và đôi mắt đỏ ngầu.

Người lạ lên tiếng bằng giọng khàn khàn:

- Có phải cậu là Lesniewski hay không?

- Vâng.

Ông ta giẫm chân nọ lên chân kia, giống như đang lảo đảo và nói tiếp:

- Cậu hãy ghé thăm thằng Jozio con trai tôi, cái thằng gù ấy, cậu biết không? Nó bị ốm, vì ngày hôm kia người ta cán xe vào nó...

Ông ta lại lảo đảo, nhìn tôi bằng cặp mắt đờ đẫn và đi ra, vừa đi vừa giậm mạnh lên nền nhà. Tôi như bị ai đó giội nước nóng vào người. Tôi có cảm giác rằng kẻ bị xe cán phải là tôi mới đúng, chứ không phải là thằng gù khốn khổ, nó là đứa tốt bụng và yếu ớt như thế...

Buổi chiều được nghỉ học. Tôi không về nhà ăn trưa mà chạy đến chỗ Jozio.

Hai bố con họ sống ở cuối thành phố, trong căn hộ hai buồng của một nhà tầng. Khi bước vào nhà, tôi nhìn thấy thằng gù đang nằm trên chiếc giường ngắn. Nó ở một mình, chỉ có một mình. Nó thở nặng nhọc và run rẩy vì lạnh, bởi lò sưởi không đốt. Con ngươi mắt nó mở rộng đến nỗi lộ ra cặp mắt gần như đen ngòm. Trong căn phòng nhỏ cảm thấy rất ẩm ướt, còn từ trên mái những giọt tuyết tan chảy rơi xuống.

Tôi cúi xuống giường và hỏi:

- Cậu làm sao thế, Jozio ơi?...

Nó tươi tỉnh hẳn lên, mở miệng như muốn cười, nhưng lại chỉ lắp bắp. Nó cầm tay tôi bằng đôi tay gầy còm của mình và bắt đầu nói:

- Chắc là tớ sẽ chết... Nhưng tớ sợ... một mình như vậy... vì vậy tớ muốn cậu đến... Điều đó... cậu thấy đấy... sẽ đến nhanh thôi, lúc đó tớ sẽ vui hơn một chút...

Chưa bao giờ Jozio trở nên như vậy đối với tôi giống hôm nay. Tôi có cảm giác rằng từ một đứa tàn tật, cậu ta bỗng lớn lên thành gã khổng lồ.

Cậu bắt đầu rên rỉ to và ho vật vã, đến nỗi miệng cậu sùi bọt mép đỏ lòm. Sau đó, cậu nhắm mắt và thở nặng nề, đôi khi hoàn toàn ngừng thở. Nếu như không cảm nhận được hơi ấm từ cái xiết của đôi bàn tay nóng bỏng của cậu, chắc tôi nghĩ rằng cậu đã chết.

Chúng tôi ngồi như vậy một tiếng, hai tiếng, ba tiếng - ngồi lặng lẽ. Tôi gần như mất khả năng suy nghĩ. Jozio thỉnh thoảng lắm mới lên tiếng và lên tiếng với sự cố gắng lớn lao. Nó nói với tôi rằng từ phía sau có một chiếc xe đi tới, khiến nó vô cùng đau đớn ở sống lưng, nhưng đã hết đau, rằng hôm qua cha nó đuổi người hầu, còn hôm nay đi tìm người khác...

Sau đó vẫn nắm chặt lấy tay tôi, nó đề nghị tôi cầu nguyện cho nó. Tôi đọc kinh, còn khi bắt đầu câu: “Khi vầng đông thức dậy”, nó ngắt lời tôi:

- Hãy tiếp đi- nó bảo: - “Tất cả mọi việc làm hằng ngày của chúng ta...”. Ngày mai chắc tớ sẽ không thức dậy nữa...

Mặt trời đã tắt, màn đêm xám xịt kéo đến, sau lớp mây, ánh trăng chiếu sáng. Trong nhà không có nến, hơn nữa - thậm chí tôi không nghĩ đến việc thắp nó. Jozio càng lúc càng bình thản hơn, thường mê sảng và chỉ tỉnh lại chốc lát.

Đã muộn rồi, ngoài phố xe ngựa lăn bánh kêu ầm ĩ. Qua sân ai đó đi vào và vừa huýt sáo vừa mở cửa ra vào phòng chúng tôi.

- Bố đấy à? - Thằng gù lắp bắp.

- Bố đây, con trai của bố! - Người mới tới đáp lại bằng giọng khò khè - Con thấy thế nào rồi? Chắc khá hơn chứ!... Phải như vậy thôi!... Luôn luôn vểnh tai cao lên, con trai của bố...

- Bố ơi, không có ánh sáng... - Jozio nói.

- Ngu ngốc, ánh sáng làm gì!... Còn ai đây hả?... - Ông kêu lên khi chạm vào tôi.

- Cháu đây mà... -Tôi đáp.

- A ha! Lukaszowa ư? Tốt rồi!... Hôm nay hãy ngủ đi, ngày mai tôi sẽ cho cô biết mưu mẹo... Tôi là thống đốc!... Rum-Jamaica! ...

- Chúc bố ngủ ngon, bố ạ!... Chúc bố ngủ ngon!... - Jozio thì thầm.

- Chúc ngủ ngon, chúc ngủ ngon, con của bố!... - Người mới đến đáp và sau khi nghiêng người xuống giường, hôn vào đầu tôi.

Tôi biết rằng dưới nách ông có một chai rượu.

- Hãy ngủ đi, - ông nói thêm - ngày mai mày phải đến trường!... Hãy đều bước!... Rum-Jamaica! ... - Ông đóng cửa đánh rầm và bỏ sang phòng thứ hai.

Ở đó ông ngồi xuống một cách nặng nề, rõ ràng là ngồi lên hòm, đập đầu vào tường, còn giây lát sau - vang lên tiếng sủi bọt nhịp nhàng, như ai đó đang uống.

- Kazio ơi!... - Thằng gù thì thầm - Nếu như đến nơi đó... thì cậu thỉnh thoảng ghé thăm tớ nhé. Cậu hãy nói cho tớ biết ở lớp học người ta dạy bài gì...

Trong phòng thứ hai, người mới tới thét to:

- Chúng ta chúc sức khỏe ngài thống đốc!... Hoan hô!... Tôi là thống đốc!... Rum-Jamaica! ...

Jozio bắt đầu cảm thấy run rẩy và nói càng lúc càng bất an hơn:

- Có cái gì đó đập vào tớ!... Có phải cậu ngồi lên người tớ hay không, Kazio ơi? Kazio ơi!... Ôi, đừng đánh tớ nữa!...

- Rum!... Rum-Jamaica! - Người ở phòng thứ hai lại hét lên. Lại có cái gì đó sủi bọt, và sau đó - chai rượu đập xuống nền nhà kêu to khủng khiếp.

Jozio kéo tay tôi đưa lên miệng, dùng răng ngậm vào các ngón tay và - bỗng nhiên buông ra. Nó đã ngừng thở.

- Ông ơi! - Tôi lên tiếng gọi - Ông ơi! Jozio chết rồi!...

- Mày lảm nhảm cái gì thế? - Giọng gầm gừ vẳng đến từ phòng thứ hai.

Tôi bật dậy khỏi giường và đứng ở cửa ra vào, vừa đứng vừa nhìn vào bóng tối.

- Jozio chết rồi!...- Cả người run rẩy tôi nhắc lại.

Người đó lao xuống chiếc hòm và hét to:

- Cút khỏi đây ngay, thằng khốn!... Tao, bố nó, tao biết rõ hơn việc nó có chết hay không!... Hoan hô ngài thống đốc!... Rum-Jamaica! ...

Tôi cảm thấy lo ngại và chạy khỏi đó.

Suốt cả đêm tôi không thể ngủ được, tôi run lên bần bật, những cơn mơ khủng khiếp kéo đến hành hạ tôi. Sáng hôm sau, chủ nhà trọ của chúng tôi nhìn tôi, nói rằng tôi bị sốt và rằng chắc tôi bị lây từ thằng Jozio bị xe chẹt, và ra lệnh cho tôi phải đặt mười hai ống giác dọc lưng. Sau khi dùng thuốc đó, như chủ nhà nói, đã xảy ra tình trạng khủng khiếp đến nỗi tôi phải nằm một tuần liền trên giường.

Tôi không có mặt trong đám tang Jozio. Cả lớp tôi cùng với các giáo viên và cha xứ đứng đầu đưa tiễn nó. Người ta nói với tôi rằng nó có cỗ quan tài đen bọc nhung, nhỏ như cái hộp đựng đàn violon.

Bố nó khóc rất khủng khiếp, còn trên nghĩa trang ông đã vồ lấy quan tài và muốn mang nó chạy trốn. Nhưng người ta vẫn chôn cất Jozio, còn bố nó được viên chỉ huy cùng một cảnh sát dẫn ra khỏi nghĩa trang.

Khi tôi trở lại trường học, người ta nói cho tôi biết rằng có ai đó hằng ngày đều đến hỏi về tôi. Khoảng mười một giờ hôm ấy người ta tìm tôi.

Tôi bước ra ngoài - sau cánh cửa, bố của Jozio vừa chết đang đứng. Ông có khuôn mặt tím tái và chiếc mũi màu tro. Ông hoàn toàn tỉnh táo, chỉ có cái đầu và đôi tay là run rẩy.

Người ấy ôm tôi vào ngực và nhìn rất sâu vào mắt tôi, sau đó bỗng nhiên lên tiếng:

- Mày đã bảo vệ thằng Jozio, khi mọi người trong lớp bắt nạt nó phải không?...

- Liệu ông già này có điên hay không nhỉ?- Tôi nghĩ, nhưng không nói gì với ông.

Ông ôm cổ tôi bằng cả hai tay và hôn mấy lần lên đầu tôi, vừa hôn vừa thì thầm:

- Chúa hãy ban ơn cho mày... Chúa hãy ban ơn cho mày!...

Ông buông tôi ra và lại hỏi:

- Mày có mặt lúc nó chết phải không?... Hãy nói thật cho tao biết, nó có mệt lắm không?...

Ngay sau đó, ông ta lùi lại và nói nhanh:

- Nhưng thôi, đừng nói gì cả!... Ôi, không ai biết, tôi bất hạnh đến thế nào!...

Từ đôi mắt, những giọt nước mắt ông bắt đầu chảy. Ông đưa hai tay lên ôm đầu, quay lại phía tôi và vừa chạy đến bậc cầu thang vừa hét:

- Tôi thật khốn khổ!... Khốn khổ... Khốn khổ...

Ông hét to đến mức các giáo sư bước cả ra hành lang. Họ nhìn theo ông, lắc đầu và ra lệnh cho tôi quay vào lớp.

Gần tối, một người trung gian mang đến nhà trọ cho tôi một cái hòm khá to và tờ giấy với dòng chữ: “Của Jozio khốn khổ - kỉ niệm”.

Trong hòm có rất nhiều sách đẹp của Jozio quá cố, trong đó có: Sách về thế giới, Lịch sử Hoàng đế Canto, Don Quixote, Phòng triển lãm ở Drezden và nhiều sách khác. Những quyển sách đó đánh thức trong tôi niềm ham muốn say mê đọc một cách nghiêm chỉnh.

Cũng may là mùa xuân tôi đã đến mộ Jozio lần đầu tiên. Đó là một ngôi mộ nhỏ và võng xuống, giống như bản thân cậu ta. Tôi để ý thấy rằng ai đó đã cắm những cành lá xanh xung quanh đó. Cách đó vài bước, giữa vạt cỏ, tôi tìm thấy mấy cái chai với dòng chữ: Rum-Jamaica . Tôi ngồi khoảng một tiếng đồng hồ, nhưng tôi không nói cho Jozio nghe cái gì đã được giảng ở trong lớp, bởi vì bản thân tôi cũng không biết và cậu ta cũng không hỏi.

Một tuần sau, tôi lại đi đến nghĩa trang. Tôi lại nhìn thấy các cành cây xanh mới cắm vào mộ Jozio, và giữa vạt cỏ - tôi lại tìm thấy vài cái chai còn nguyên vẹn và một số đã bị đập vỡ.

Đầu tháng Năm, có một tin đặc biệt được lan truyền trong thành phố. Đó là ngay sáng sớm, bên cạnh mộ của Jozio người ta tìm thấy xác chết của bố cậu ta. Bên cạnh đó nằm chỏng gọng một chai đã vơi nửa với dòng chữ: Rum-Jamaica .

Các bác sĩ nói rằng người ấy chết vì chứng phình mạch máu.

Biến cố ấy tác động đến tôi hết sức đặc biệt. Kể từ đó, mối quan hệ với bạn bè đối với tôi trở thành gánh nặng và những trò đùa ồn ã của họ làm tôi chán ngấy. Lúc đó, tôi chìm đắm vào việc đọc sách, những cuốn mà Jozio để lại cho tôi, hoặc tôi trốn ra khỏi thành phố, chui vào các bụi rậm và vừa luồn lách trong đó vừa nghĩ ngợi lung tung, chỉ có Chúa biết tôi nghĩ gì. Nhiều lúc tôi tự hỏi, tại sao Jozio lại chết một cách nhạt nhẽo như vậy và tại sao cha nó lại cô đơn đến nỗi phải ôm ấp nấm mộ con trai. Tôi cảm thấy rằng nỗi bất hạnh lớn nhất là sự bị bỏ rơi và tôi hiểu tại sao thằng gù lại tìm kiếm bạn thân.

Tôi cũng cần có bạn thân bây giờ. Nhưng trong số các bạn học không một ai khiến tôi vừa ý. Tôi nhớ đến em gái. Không!... Em gái không thể thay thế bạn thân được.

Các bạn nói về tôi, rằng tôi đã trở thành hoang dã, còn ông chủ nhà trọ của chúng tôi thì tin chắc rằng tôi sẽ trở thành một tên tội phạm cỡ lớn.

Đã đến thời điểm trọng đại, khi viên thanh tra thông báo cho toàn thế giới rằng tôi nhận được chứng chỉ lên lớp Hai. Trường hợp này làm tôi ngạc nhiên vui sướng. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy rằng dù trường có những lớp học cao hơn, song không lớp nào tuyệt vời hơn lớp Hai. Tôi cam đoan với các bạn học rằng học trò các lớp còn lại, kể từ lớp Ba đến lớp Bảy, chỉ học lại những điều mà họ đã học được ở lớp Hai, còn trong thâm tâm, tôi lo sợ rằng sau kì nghỉ hè, các giáo sư phát hiện ra rằng cho tôi lên lớp Hai là một sự nhầm lẫn và lại rút tôi xuống lớp Một.

Ngày hôm sau, tôi đã làm quen trong chừng mực nhất định với niềm hạnh phúc của mình, còn khi về nhà nghỉ hè thì suốt dọc đường tôi chỉ giải thích cho người đánh xe rằng tôi là đứa duy nhất trong lớp có được chứng chỉ lên lớp xứng đáng và rằng bản đánh giá học lực của tôi là tốt nhất. Tôi đưa ra cho ông ta những biện minh không thể phủ nhận được, khiến ông thậm chí phải ngáp dài. Khi tôi im lặng, tôi sợ hãi nhận thấy rằng chính bản thân mình lại đầy nghi vấn.

Ngày hôm sau, khi về đến nhà, trên đường về tôi gặp em gái Zosia chạy ra đón tôi. Ngay lúc đó, tôi báo cho nó biết rằng tôi đã lên lớp Hai và bạn thân Jozio của tôi đã chết, do người ta cán xe vào nó. Còn em tôi thì nói rằng rất nhớ tôi, rằng con gà mái đẻ mười gà con, rằng một ông nào đó đến thăm bà công tước mỗi tuần hai lần, rằng họ có cô gia sư yêu ông thư kí và rằng Jozio quá cố chẳng khiến cho nó - tức là Zosia - quan tâm gì, vì nó là một đứa gù. Nhưng dù sao nó cũng tỏ ra thương tiếc cậu ta.

Khi nói điều đó, nó làm ra vẻ một cô gái lớn.

Buổi chiều tôi mới gặp cha tôi. Ông đón tôi rất nhiệt tình và nói rằng suốt kì nghỉ hè sẽ cho tôi cưỡi ngựa và cho phép tôi bắn súng lục. Sau đó, ông nói thêm:

- Ngay sau đây con hãy đến dinh chào bà công tước, mặc dù...

Đến đây ông phẩy tay.

- Chuyện gì đã xảy ra thế, thưa cha?... - Tôi lên tiếng hỏi như một người lớn đến mức đã tỏ ra lúng túng trước sự mạnh dạn của mình.

Không ngờ cha tôi đáp lại không hề giận dữ, chỉ với một chút cay đắng:

- Bà ta bây giờ không còn cần người đại diện già này nữa. Không lâu nữa ở đây sẽ có ông chủ mới và ông ấy tự mình cũng có khả năng...

Ông ngừng nói và quay lưng lại lầm bầm qua kẽ răng:

- Thua bạc mất cả gia tài...

Tôi bắt đầu đoán ra rằng trong lúc tôi không có mặt đã xảy ra những thay đổi lớn lao. Mặc dầu vậy, tôi vẫn đến chào bà công tước. Bà đón tiếp tôi một cách nhã nhặn, còn tôi để ý thấy rằng cặp mắt đượm buồn của bà hôm nay đã có biểu hiện hoàn toàn khác.

Khi ra về, tôi gặp cha tôi ở sân trong và nói rằng bà công tước tỏ ra vui vẻ như chưa từng thấy bao giờ. Ông xoay người, vỗ hai tay vào nhau, hoàn toàn giống như các cô hầu phòng của bà.

- Chà chà! Mỗi người đàn bà trước đám cưới đều vui vẻ cả... - Cha tôi đáp như nói với chính mình.

Trong giây phút đó, cỗ xe nhỏ đi đến trước dinh, từ trong xe bước ra người đàn ông cao lớn với bộ râu cằm đen và đôi mắt như ngọn lửa. Hình như bà công tước chạy ra sân, vì tôi nhìn thấy qua cửa ra vào đôi tay chìa ra phía ông kia.

Cha tôi đi trước tôi, cười nhỏ và lầm bầm:

- Ha ha!... Tất cả đàn bà đều điên rồ!... Bà chủ bị một kẻ lịch sự quyến rũ, còn gia sư thì bị gã thư kí làm mê mệt... Đối với Salusia chỉ còn mình và cha xứ quản hạt... Ha ha!...

Tôi đã mười hai tuổi và đã nghe nói nhiều về tình yêu. Đứa bạn học, kẻ cạo râu và học đúp ba năm ở lớp Một, nhiều lần nói với chúng tôi về tình cảm của nó dành cho một cô gái mà nó nhìn thấy mỗi ngày vài lần trên đường phố hoặc qua cánh cửa sổ. Hơn nữa,

chính tôi cũng đọc vài tiểu thuyết rất hay và còn nhớ kĩ những nhân vật chính đã làm tôi đau đớn đến thế nào.

Chính vì lí do đó, những lời buột miệng của cha tôi đã gây ra cho tôi những cảm giác đáng buồn. Tôi cảm thấy có thiện cảm với bà chủ đất của chúng tôi, thậm chí với cả cô gia sư mặc dù không thích ông có râu và viên thư kí. Không bao giờ tôi lớn tiếng nói về điều đó (thậm chí còn không dám nghĩ về nó một cách rõ ràng), nhưng tôi cảm thấy rằng cả bà chủ của chúng tôi, cả cô gia sư nữa sẽ hành động đúng đắn hơn nhiều nếu như tỏ ra mong muốn tôi.

Trong vài ngày tiếp theo, tôi đi vòng quanh làng, công viên, các chuồng trại, tôi cưỡi ngựa, bơi thuyền, nhưng - ngay sau đó, tôi phát hiện ra rằng mình bắt đầu cảm thấy buồn chán. Đúng ra thì cha tôi càng lúc càng hay nói chuyện nhiều hơn với tôi như với một người lớn, ông nấu rượu mời tôi đến uống rượu lúa mạch đen, còn ông thư kí kế toán đưa ra đề nghị làm bạn và thậm chí còn hứa sẽ kể về những nỗi đau đớn mà ông gánh chịu vì cô gia sư, nhưng - tôi không thấy vui về điều đó. Cả rượu lúa mạch đen của ông nấu rượu, lẫn những lời thổ lộ của ông thư kí tôi sẵn sàng xin đổi lấy một người bạn tốt. Thế nhưng khi suy nghĩ phải chọn lựa giữa những đứa bạn cùng kết thúc

lớp Một với mình, thì tôi tin chắc rằng không đứa nào thỏa mãn những ham muốn hiện nay của tôi.

Đôi khi từ trong sâu thẳm tâm hồn tôi, bỗng nổi lên bóng dáng buồn bã của Jozio quá cố và nó đã kể cho tôi nghe về những điều lạ lùng bằng giọng nhỏ hơn tiếng xào xạc của cơn gió mùa hè. Lúc bấy giờ, một sự ngọt ngào khó tả chiếm lĩnh tôi và tôi bỗng nhớ, nhưng bản thân mình không biết nhớ cái gì... Một lần, do ảnh hưởng của những ý nghĩ trừu tượng như vậy, tôi đi lang thang dọc theo những con đường cỏ mọc um tùm trong công viên, bỗng nhiên em gái tôi Zosia chạy ngáng đường tôi và hỏi:

- Tại sao anh không chơi với chúng em?

Tôi cảm thấy nóng người.

- Chơi với ai?...

- Thì với em và Lonia.

Sẽ là một câu hỏi không thể giải đáp được, tại sao trong giây phút ấy cái tên Lonia lại khiến tôi liên tưởng đến hình bóng Jozio và tại sao tôi lại ngượng đến mức mặt đỏ gay và mồ hôi xuất hiện đầy trên trán.

- Cái gì thế?... Anh không muốn chơi cùng chúng em à? - Em gái tôi ngạc nhiên hỏi- Hôm lễ Phục sinh, một học sinh lớp Ba đến đây và hoàn toàn không lên mặt như anh. Suốt ngày anh ta đi theo chúng em.

Và cũng lại không biết tại sao tôi cảm thấy căm thù đứa học trò lớp Ba nọ, đứa mà chưa bao giờ tôi nhìn thấy. Cuối cùng, tôi đáp lại Zosia bằng giọng khàn khàn, mặc dù trong tim không hề có ác cảm đối với cô gái ấy:

- Anh không biết cô Lonia ấy.

- Sao lại không biết cơ chứ? Anh không nhớ là vì nó mà cô gia sư đã đánh anh à? Thế anh có nhớ Lonia đã khóc như thế nào vì anh và xin mọi người đừng làm gì hại anh khi... cái chuồng bò nọ bị cháy hay sao?

Dĩ nhiên là mọi chuyện tôi đều nhớ, và đặc biệt là bản thân Lonia; nhưng tôi phải thú nhận rằng khả năng làm hồi phục trí nhớ của em gái tôi khiến tôi bực mình. Tôi cảm thấy là câu chuyện không hợp với giá trị bộ đồng phục của tôi, rằng người ở thôn quê và đặc biệt là các cô gái mới lớn có trí nhớ tốt như vậy.

Do ảnh hưởng của những cảm giác như vậy, tôi đáp lại như một kẻ vũ phu:

- Ê hê, hãy để cho anh yên cả với em, cả với cái cô Lonia của em nữa...

Và tôi đi sâu vào trong công viên, tỏ ra không hài lòng vì những lời n