← Quay lại trang sách

KHÓI

Bao nhiêu lần nhìn qua cửa sổ căn phòng nhỏ của mình là chừng ấy lần bà có thể trông thấy anh khơi bùng lên cột khói bạc như thế nào từ ống khói lớn của nhà máy. Thậm chí, nhiều khi bà cố ý dứt cặp mắt già nua của mình ra khỏi công việc để nhìn về phía anh dù chỉ một lần. Trong cái nhìn ấy có niềm khoái cảm kì lạ cùng sự vuốt ve âu yếm. Mọi người cứ đi và vội vã bước về nhiều hướng khác nhau, họa hoằn mới có ai đó nhìn lên trên, về phía ống khói, và họa hoằn lắm mới có người để ý đến luồng khói màu tím thẫm. Song đối với bà, cột khói đó có giá trị đặc biệt, nó nói với bà, bà hiểu nó, trong mắt bà nó gần như là một vật thể sống.

Khi vào lúc rạng đông, trên nền trời ngọc trai lóng lánh muôn màu sắc, cột khói bốc lên quanh ống khói tạo thành những vòng tròn, những chùm đen, phát tán mùi khét nồng cay mắt của muội than; bà biết rằng ở đó Marcys của bà đang đứng bên cạnh lò đốt của nồi hơi, đang đốt lửa, điều tiết, sắp xếp, với dáng người cao gầy lanh lợi, mặc áo blouse may bằng vải thô màu tím than, thắt chiếc thắt lưng da, đội chiếc mũ hở chỏm chụp trên mớ tóc vàng và chiếc cổ áo luôn trễ ra quanh cổ.

- Ô hô! - Lúc đó bà thì thầm và mỉm cười - Marcys “đang đốt”...

Quả thực anh “đang đốt”. Với nhiệt huyết của kẻ mới tập sự, anh xúc than cho vào lò, hết sọt này đến sọt khác, làm việc cho cả mình và cho thợ đốt lò, tự hào vì phẩm giá của người thợ đốt lò vừa mới được nhận vào làm. Và cùng với ngọn lửa cháy sáng khổng lồ ấy, trong lòng anh cũng vang lên những bài hát, giai điệu mà nồi hơi vẫn phát ra từ lúc bình minh đến tận đêm khuya.

Nhưng sau đó không lâu, những lọn khói màu đen cũng trắng dần ra, mỏng hơn, trở nên nhẹ hơn và cứ như vậy cho đến khi xuyên qua những đám mây màu da trời êm dịu bay thẳng lên cao thành cột khói thẳng tắp, nhẹ bẫng.

Quang cảnh ấy gieo vào trái tim người đàn bà góa niềm vui sướng và sự êm ái dịu dàng.

- Mọi chuyện đều tốt đẹp... - bà thầm thì - mọi chuyện đều tốt đẹp, đội ơn Chúa tối thượng!

Và bà quét dọn căn phòng nghèo nàn, trải giường cho mình và tràng kỉ cho con trai, quét rác bằng chiếc chổi bạch dương cũ và lấy củi đốt lò để chuẩn bị bữa ăn chiều.

Lúc bấy giờ ở chính diện với ống khói lớn của nhà máy, một sợi khói màu tím nhạt tuyệt vời dâng lên bầu trời, bay trên mái căn nhà tầng áp mái, nơi người đàn bà góa cư ngụ; sợi khói đó nhạt nhòa và thanh mảnh đến mức giống như hơi thở phát ra từ bộ ngực già nua, sợi khói phát sinh từ bếp lửa.

Nhưng chàng thợ đốt lò trẻ tuổi lúc nào cũng nhận ra sợi khói ấy. Và không chỉ nhận ra nó, anh còn mỉm cười với nó. Anh biết rõ rằng ở đó, bà mẹ già bên lò lửa với chiếc mũ màu cháo lòng trên đầu, với chiếc áo ngắn phủ tạp dề màu đỏ bên ngoài, dáng người nhỏ nhắn, tiều tụy, gù lưng, đang chuẩn bị cho anh món xúp củ cải đỏ rất ngon hoặc xúp lúa mạch tuyệt vời. Đôi lúc, thậm chí anh còn thấy như mình cảm nhận được rõ ràng mùi vị của các món ngon ấy.

Lúc bấy giờ với nhiệt huyết gấp đôi, anh xúc thêm xẻng than mới cho vào lò và trong lúc người thợ đốt lò đang còn gãi đầu, anh đứng một chân trên nền gạch, nhanh nhẹn và linh hoạt, đảm nhiệm công việc cho cả hai người.

Và thế là hai hơi thở đối diện với nhau cùng bay lên trời: hơi thở của nhà máy và của căn nhà trên tầng áp mái, rồi cùng mất hút trong màu xanh da trời trong vắt, có thể thậm chí còn kết nối với nhau tại đó nữa.

Gần đến trưa, khói nhà máy bớt đậm đặc hơn một chút; những lá phổi khổng lồ của các cỗ máy hãm bớt công việc của mình, hơi nước phun ra xuyên vào không khí hết lần này đến lần khác tiếng huýt chói tai, khó chịu, còn chàng trai trẻ như cơn bão lao vội về căn nhà nhỏ.

- Mẹ ơi, cho con ăn!

Ngay từ ngưỡng cửa anh đã lên tiếng và sau khi vứt chiếc mũ hở chóp xuống bàn, anh liền chạy đến chiếc lồng có con sáo đen treo ở cửa sổ. Con sáo đen vừa nhìn thấy chàng trai liền huýt sáo liên tục, giống như tiếng huýt của nhà máy, rồi nó bắt đầu điệu nhạc chuông thông thường, đúng kiểu Marcys dạy nó. Chàng trai đứng trước chiếc lồng, đút hai tay vào túi và cũng huýt sáo. Những bức tường dường như cũng rung lên vì tiếng huýt đó.

Trong lúc ấy, bà mẹ đã trải trên bàn chiếc khăn vàng rất đẹp, có thêu hình những chú hươu màu xanh da trời và đặt trên đó liễn sứ sâu lòng đựng xúp lúa mạch, xúp củ cải đỏ với mì ống hoặc xúp đậu với thịt thăn xông khói, hoặc cũng có thể là xúp mì sợi, tùy tình hình. Bên cạnh liễn xúp, trên bàn còn có ổ bánh mì lớn, món chính của bữa ăn.

Chàng trai chỉ mới nhích lại gần thì ổ bánh cũng biến mất gần một nửa. Anh cắt hết miếng này đến miếng khác, chấm vào bát muối và nói liến thoắng:

- Bánh mì ngon quá, mẹ ạ!

- Bánh ngon lắm, con trai ơi! - Mỗi lần như vậy, người đàn bà góa lại đáp - Con hãy ăn đi, Chúa phù hộ, con ăn đi! Vinh danh Chúa Jesus và Đức Mẹ tôn quý của Người...

Chàng trai không cần mời, cùng với bánh mì, cả liễn xúp cũng vơi dần.

- Xúp củ cải đỏ ngon lắm, mẹ ạ. - Anh nói.

Bà mẹ từ lúc nãy đã ăn mỗi lúc một chậm hơn. Bà khoắng thìa trong đĩa, thổi phù phù. Nhưng hình như đĩa xúp củ cải đỏ không vơi đi chút nào. Khi chàng trai đã vét sạch những gì có ở trước mặt và lấy mu bàn tay lau hàng ria mép mới nhú, bà vội vã hỏi:

- Con ơi, con có muốn ăn thêm nữa không?... Hôm nay mẹ thấy thế nào ấy...

Bà muốn anh hiểu rằng bà không thấy ngon, song bà sợ lời dối trá trước Chúa, vì món xúp củ cải đỏ đúng ra rất tuyệt vời.

- A ha, - chàng trai nói - mẹ không ăn thì...

Bà vội vã đưa đĩa của mình đến cho con và nói:

- Ăn đi, bé con, ăn đi! Vinh danh Chúa Jesus...

Chàng trai lại cầm thìa của mình lên.

- Mẹ muốn gì ở món xúp củ cải đỏ này nữa? - Anh hỏi - Đó là xúp củ cải đỏ dành cho vua!

- Có thể là như vậy, có thể, con trai ạ, - bà vừa đáp vừa nhấp nháy mắt - chỉ có điều mẹ không có lá nguyệt quế cho vào...

Cũng có khi anh ăn không hết. Lúc bấy giờ, bà đổ đồ thừa vào chậu sành rồi đặt vào lò và kín đáo làm việc đó để con trai không phát hiện ra.

Thức ăn thừa được bà coi là tài sản của riêng mình và khi chàng trai đi khỏi nhà, bà bồi bổ cho mình bằng cái đó, vừa ăn vừa gặm mẩu bánh mì cuối cùng.

Tất cả những chuyện đó diễn ra vô cùng nhanh chóng. Người phụ lò tạm thời chỉ được thế chỗ vào buổi trưa và buộc phải vội vã. Vừa ăn xong, chỉ kịp làm lễ tạ ơn Chúa, hôn bàn tay gầy guộc mệt mỏi của mẹ, cầm chiếc mũ hở chỏm lên, huýt sáo tạm biệt con sáo đen, anh vội nhảy ba bước từ căn nhà trên tầng áp mái xuống dưới. Lúc bấy giờ, người đàn bà góa đứng ở giữa căn nhà nhỏ, cầm trên tay chiếc khăn trải bàn vừa tháo xuống và chăm chú lắng nghe tiếng bước chân con trai giậm thình thịch xuống đất với nụ cười nhút nhát, đồng thời cũng đầy khoái cảm.

- Lạy Thánh Anthony! - Vừa nói bà vừa lúc lắc đầu - Cứ chạy như bay thế kia thì có lúc sẽ ngã gãy chân mất thôi... bậc cầu thang làm hại nó...

Rồi bà cứ lắng tai nghe như vậy cho đến khi cửa ra vào phía hành lang ở bên dưới kêu đánh rầm một cái và tiếng vọng điên cuồng như tiếng đại bác của những bước chân trẻ khỏe và mạnh mẽ thôi không vang đến nữa. Lúc bấy giờ, bà mới kết thúc việc cuốn khăn trải bàn lại, rửa bát đĩa nồi niêu, dùng tro dập tắt lửa, ngồi xuống cạnh cửa sổ, khâu vá quần áo và đồ lót của con trai.

Nếu vào mùa hè, sau đó khá lâu, thậm chí rất lâu bà vẫn có thể nhìn thấy khói tỏa ra từ ống khói nhà máy. Lần thứ hai bà nhìn vào đó, chăm chú đến mức việc khâu vá tuột khỏi tay...

Thật kì lạ bởi khói có cả hình dáng lẫn màu sắc. Lúc thì giống như con rắn sắt tự vươn cổ ra từ khúc xoắn của mình mỗi lúc một xa, mỗi lúc một cao; lúc lại giống tấm màn che nhẹ tâng bay phất phơ trong không trung tạo nên ở phía trước những dải mây hồng; lúc thì giống như từ bình hương bay thẳng lên cao và vừa bay vừa dập dềnh gợn sóng ở hai bên mép; lúc lại giống như chùm lông lớn trên mũ dưới ánh mặt trời bừng cháy sáng, gió cuốn khói đi từ ống khói giống như từ chiếc mũ sắt; lúc lại kéo dài ra biến thành những bóng hình kì diệu, những ảo ảnh không có trên trần thế, những hình ảnh nào đó...

Đôi khi gió thổi khói giống như những cánh buồm của con tàu khổng lồ; có lúc lại xé rách nó ra giống như những chùm sợi đay, hay xua đuổi nó giống như đám mây đen nhạt nhòa. Lúc trời mưa, đám mây nặng trĩu treo trên ống khói và những hạt mưa lớn rắc trên các mái nhà, đập vào mặt đất, không biết chảy về đâu.

Khi mùa đông đến, người đàn bà góa thắp ngọn đèn đặt cạnh lò sưởi và đan những đôi tất dày để bán.

Mặc cho gió lùa nghiệt ngã và sương muối bay vào tận căn nhà nhỏ qua khung cửa sổ đã mục ruỗng, bà vẫn thường xuyên đi gần đến đó để nhìn sang nhà máy.

Nó nung nóng căn nhà trên tầng áp mái bằng hàng loạt cửa sổ sáng đèn, nó hét to bằng công việc bên trong của những lá phổi khổng lồ của mình, nó gầm thét bằng tiếng sắt, kêu vang bằng tiếng đập của những chiếc búa, nghiến răng kèn kẹt bằng những chiếc răng cưa, kêu phì phì với những dòng kim loại nóng chảy. Làn khói, thứ giờ đây phả ra từ ống khói lên nền trời tím thẫm, đang rực cháy, phun lửa, những luồng tia lửa bung ra cháy sáng.

Ánh hồng rộng lớn từ đó bay chéo lên bầu trời và lập tức xuyên thẳng qua những vầng sáng to lớn lặng câm...

Người đàn bà góa nhìn vào đó đăm chiêu nghĩ ngợi.

Tiếng huýt của con sáo đen bứt bà ra khỏi sự đăm chiêu mơ màng ấy. Con sáo đen bị ánh sáng từ nhà máy chiếu qua cửa sổ đánh thức liền bắt đầu hót điệu nhạc chuông của mình. Căn phòng nhỏ bỗng trở nên vui tươi hơn, ngọn lửa reo lên trong bếp lò, còn con sáo đen thì hót đến chói tai. Và khi trên bầu trời, vầng trăng tròn trịa đứng yên, toàn bộ hình ảnh sáng ngời đó chìm ngập vào ánh trăng.

Anh con trai mãi tận đêm khuya mới về và ngay từ ngưỡng cửa đã gào lên:

- Mẹ ơi, cho con ăn!...

Và lao vào bậc cửa căn nhà bé nhỏ đó, cùng với bóng hình trẻ tuổi mạnh mẽ, là niềm vui, nụ cười và sự tự do. Giờ đây, chàng trai không còn ăn uống vội vã như trước nữa, anh kể chuyện này chuyện nọ khi bà mẹ hỏi về ca làm việc vừa qua, sau đó bắt đầu ngáp dài, vươn vai. Trong giây phút ấy, con sáo đen thậm chí cũng không làm anh chú ý đến nữa.

- Đi ngủ đi, con trai, đi ngủ đi! - Bà mẹ nói và xoa đầu anh - Ngày mai con lại phải dậy sớm...

- Con đi ngủ đây, mẹ ơi... - Bằng giọng buồn ngủ, anh đáp lại - Con đã mệt bã người ra rồi!

- Thế còn cầu kinh, con trai ơi, cầu kinh đi. - Bà mẹ nhắc nhở.

- Con sẽ cầu kinh, mẹ ơi.

Anh hôn tay mẹ, quỳ xuống trước tràng kỉ của mình và cúi đầu trên đôi bàn tay chắp lại, nhanh chóng lên tiếng thầm thì cầu khúc kinh “Cha của chúng con” và “Đức Mẹ Maria”. Đôi khi lời cầu kinh bị tiếng ngáp lớn làm gián đoạn. Sau đó, anh đấm thùm thụp vào ngực, làm dấu thánh giá và vội vàng cởi quần áo, lao mình xuống tấm trải giường cứng đanh.

Gần như ngay lập tức anh ngủ thiếp đi. Trong căn nhà nhỏ từ lâu đã nghe rõ tiếng thở sâu đều đặn của anh, trong khi mãi về sau, bà mẹ vẫn còn thì thầm tụng kinh trước tấm hình Đức Mẹ tối thượng màu đen thẫm, cúi nghiêng trên nền bệ màu vàng.

Cuối cùng, đèn cũng tắt, con sáo đen ngừng vỗ cánh trong lồng, mọi thứ đều im lặng, để ngày mai lại thức dậy vào lúc rạng đông.

Việc đánh thức luôn gặp trở ngại. Người đàn bà góa ngủ giấc ngủ ngắn ngủi của người già, rất dễ tỉnh giấc, như tiết kiệm những giờ phút cuối cùng của cuộc đời trước giấc ngủ vĩnh hằng trong nấm mộ.

Từ giấc ngủ ấy, bà thức dậy ngay sau tiếng gà gáy lần thứ hai, rất sớm trước tiếng còi đầu tiên của nhà máy. Sau khi chần chừ trên chăn đệm một lúc, bà chạy dọc theo căn nhà nhỏ, chuẩn bị xúp cho con trai và thầm thì lẩm bẩm hàng giờ đồng hồ. Lúc bấy giờ, ngôi sao Mai to đùng, lặng lẽ đứng trên ô cửa sổ, chiếu ánh sáng thẳng vào khuôn mặt chàng trai đang ngủ. Người mẹ thỉnh thoảng lại hướng cặp mắt nhìn vào khuôn mặt đó, muốn đánh thức đứa con một của mình, nhưng giấc ngủ sâu của chàng trai lại ngăn bà lại.

- Thôi kệ! - Bà thầm thì - Cứ để thằng bé ngủ thêm một chút...

Mãi đến khi tiếng huýt của hơi nước phả ra vang lên inh ỏi, bà mới gọi chàng trai:

- Marcys ơi! Này!... Marcys! Dậy đi, con trai ơi! Người ta đã huýt còi...

Chàng trai quay đầu về phía tường.

- Đó là con sáo đen huýt đấy, mẹ ơi... - Anh nói nửa tỉnh nửa mơ.

- Đâu phải con sáo! Ở nhà máy người ta huýt còi đấy, con trai ơi, không phải con sáo đen đâu!

Anh nấn ná, kéo chăn trùm kín đầu, cằn nhằn, nhưng người mẹ không nhượng bộ. Ca trực đêm đã kết thúc, thợ đốt lò phải là người đầu tiên đứng trên vị trí của mình, thậm chí còn đến trước cả công nhân. Điều đó cứ lặp đi lặp lại suốt cả tuần lễ, ngay cả Chủ nhật cũng không loại trừ.

Một lần, còn khá lâu nữa trời mới sáng, chàng trai đang ngủ bỗng bật dậy kêu thét lên và ngồi trên giường.

Bà mẹ đến bên cạnh anh.

- Cái gì thế? Con làm sao thế, con trai, cái gì đã xảy ra? - Bà lo lắng hỏi.

Anh không trả lời, chỉ giương to cặp mắt nhìn bà, môi run lên, trán toát mồ hôi lạnh. Chiếc áo sơ mi phanh ra trên ngực cứ phập phồng theo nhịp tim đập rất to và mạnh.

Bà mẹ dang tay ra ôm ấp anh.

- Cái gì thế? Con trai, con làm sao thế? - Bà hỏi và ôm ấp chàng trai giống như một đứa bé.

Rất lâu sau anh vẫn chưa thể trấn tĩnh lại được.

- Không sao đâu, mẹ ạ. - Cuối cùng cố gắng lắm anh mới nói nên lời - Không sao đâu... Con chỉ mơ thấy... rằng... sét đánh vào người con.

Người đàn bà góa cứng đơ lại. Nhưng bà không để lộ ra cho con trai thấy. Bà muốn lên tiếng, song tiếng nói tắc nghẽn trên ngực.

Chàng trai ngồi trên tràng kỉ không động đậy, ưỡn thẳng lưng, nhìn về phía trước bằng ánh mắt sợ hãi.

- Sét, mẹ ơi, - anh nói rất khẽ, giọng đứt quãng - đỏ rực, trông khủng khiếp như con rồng. Nó đánh vào ngực con, mẹ ơi... thật khủng khiếp, đỏ rực...

Anh nín lặng và thở rất to.

Người đàn bà góa đã trấn tĩnh lại phần nào.

- Chuyện ấy có sao đâu, con trai ơi! - Bà vừa nói vừa xoa đôi má đỏ bừng của con - Chuyện ấy có sao đâu!... Chỉ là giấc chiêm bao, hãy tin vào Chúa. Chuyện ấy có sao đâu, con trai ơi!

Khi chàng trai nghiến răng kèn kẹt, bà liền ngồi xuống bên cạnh, áp mái đầu anh vào bộ ngực gầy tong teo của mình và đung đưa nó giống như hồi anh còn là đứa trẻ mới sinh.

Chàng trai nguôi dần, cuối cùng ôm ấp mẹ, rồi ngả người xuống gối.

- Mẹ đi đi, - anh nói - mẹ hãy đi đi, nằm xuống ngủ đi... Con sẽ thiếp đi ngay đây...

Nhưng anh không ngủ được. Anh nằm ngửa, mở to hai mắt, nhìn chằm chằm vào những vì sao đang tắt dần ở phía trời đông.

Bà mẹ hết lần này đến lần khác nhìn về phía anh.

- Sao con không ngủ, con trai? - Bà hỏi.

- Con không ngủ được, mẹ ạ... - Anh đáp khẽ khàng, giọng phiền muộn.

Bà bước đến và ngồi xuống cạnh anh.

- Đừng lo lắng gì, con trai ạ! - Bà lên tiếng - Đừng lo lắng gì. Chúa nhân từ sẽ giấu lưỡi tầm sét ấy ở trên trời, sao nỡ dùng nó để giết hại đứa con trai độc nhất của người đàn bà góa nghèo hèn kia chứ? Chúa Jesus và Đức Mẹ tối thượng sẽ không làm như vậy đâu... Còn mẹ nói với con rằng tiếng sét báo hiệu đám cưới, khi chàng trai chưa vợ hoặc cô gái chưa chồng mơ thấy nó. Đấy, sét báo hiệu điều đó, con thấy không?... Mẹ cũng từng ngủ mơ, vì thế mẹ biết.

Bà nói điều đó với nụ cười trên môi, tỏ ra rất vui vẻ, bàn tay gầy gò xoa trên trán và vuốt ve mái tóc anh cho đến lúc chàng trai bắt đầu có những ý nghĩ tốt lành và bật cười.

- Mẹ nói sẽ có đám cưới ư? - Anh hỏi.

- Thế không phải như vậy à? Đám cưới, một đám cưới linh đình...

Chàng trai đăm chiêu, sau giây lát nói:

- Vậy thì con phải dậy thôi, mẹ ơi...

- Dậy đi, con trai, dậy đi... Mẹ sẽ nấu bữa ăn sáng cho con, khi con ăn xong thì mọi chuyện sẽ qua hết.

Chuyện ấy rồi cũng trôi qua. Thậm chí buổi sáng hôm ấy, trong căn nhà nhỏ còn vui vẻ hơn lúc thường, vì chàng trai có khá nhiều thời gian, thi nhau cùng con sáo đen huýt hết bài hát này đến bài hát khác, cho đến lúc con chim khản tiếng và khi đến đoạn cô Zosia muốn hái móc rừng, con chim huýt thảm hại đến mức, giống như ai đó hát bằng giọng mũi. Marcys bật cười, bà mẹ bật cười và thế là họ chia tay nhau trong bầu không khí vui tươi như vậy. Khi anh đi ra khỏi nhà, người đàn bà góa đứng cạnh cửa ra vào và lắng nghe tiếng những bước chân xa dần. Nó nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, tự do, đó là những bước chân thông thường của một người trẻ tuổi... Thậm chí, những bậc cửa xiêu vẹo và mục nát hôm nay cũng không kêu kèn kẹt giống như mọi ngày. Mãi đến khi chàng trai dập cửa phía sau mình lại, một nỗi sợ hãi mới bất chợt gieo vào tim bà, tiếng động của nó nghe xa vắng, như từ dưới mặt đất vẳng lên và tiếng vọng hãi hùng bật lại trong hiên nhà trống vắng. Bà chạy đến gần cửa sổ để nhìn theo con trai.

Anh bước nhẹ nhàng, vội vã, đầu ngẩng cao, và khi sắp bước qua cánh cổng ở tường nhà máy, anh quay người lại và nhìn lên trên. Có thể nhìn vào ô cửa sổ, cũng có thể chỉ nhìn thế thôi...

Một lúc sau, một cột khói đậm đặc, đen ngòm phả ra từ ống khói nhà máy.

Vài tiếng đồng hồ đã trôi qua. Trong căn nhà nhỏ được dọn dẹp chỉnh tề trở nên im ắng; chiếc đồng hồ cũ với bông hoa hồng thắm vẽ trên mặt tròn vàng nhạt nhả chuông chậm chạp trên tường, con sáo đen thử hót những điệu nhạc vui tươi nhất và cố giấu cái giọng khàn khàn của mình, còn người đàn bà góa có lẽ vẫn nghĩ về giấc mơ nọ của con trai với điềm báo đám cưới, đang chăm chú ngắm những bộ quần áo lễ hội của mình.

Ngay sau đó vang lên một tiếng nổ khủng khiếp. Tường nhà rung lên, những mảnh vụn từ ống khói rớt đầy xuống. Cửa sổ long ra kêu lẻng kẻng. Một cột khói khổng lồ, phát ra tia lửa bốc lên bầu trời cùng vòi phun gạch đá và những mảnh vỡ của ống khói, rồi đổ ập lên căn phòng với tiếng kêu kinh hoàng. Người đàn bà góa đứng lặng, thân hình như hóa thành cột đá. Không một tiếng kêu nào bật ra từ đôi môi chết lặng của bà. Chỉ mớ tóc bạc đung đưa phất phơ trước trán, chỉ đôi con ngươi mắt mở to trắng dã như trên một xác chết bị cơn hoảng loạn bất ngờ đổ ập xuống...

Có lẽ thậm chí bà không nghe thấy cả tiếng hét điên dại từ ngoài phố vọng vào:

- Người thợ đốt lò!... Người thợ đốt lò bị chết!

•••

Sau đó nhiều năm dài đằng đẵng, bà vẫn ngồi bên cạnh ô cửa sổ nhìn bằng ánh mắt mệt mỏi buồn rầu vào ống khói nhà máy, nơi phóng lên trời những cột khói tím thẫm.

Cột khói ấy giờ đây không còn mang những hình thù khác nhau như xưa, chỉ luôn luôn biến đổi thành hình bóng mờ nhạt của chàng trai yêu quý của bà. Lúc đó, bà đứng bật dậy khỏi bàn và dang đôi tay run rẩy, khô héo của mình ra phía trước. Nhưng cái bóng mờ nhạt ấy đã bị gió cuốn lên và thổi bay vào nơi nào đó trên bầu trời xanh thẳm...