← Quay lại trang sách

ÔNG MƯỜI LĂM GDANSK

BỨC HÌNH CHÚA

Từ ngày hôm qua có một sự bất an nào đó ngự trị trên con phố nhỏ. Ông Mười Lăm ngạc nhiên và khác với mọi khi, ông liên tục đưa tẩu thuốc lên miệng, vừa hút vừa nhìn ra cửa sổ. Những người đó ông chưa nhìn thấy ở đây bao giờ. Họ đi đâu? Họ đứng lại làm gì với đám công nhân đang khẩn trương đắp nền móng để dựng nhà mới cho gã thợ ghép đinh Greulich? Những thằng nhãi ranh quần áo tả tơi ấy từ đâu xuất hiện ở đây? Tại sao chúng lại nhìn như vậy vào các hiên nhà? Chúng lấy tiền ở đâu ra để từng tốp năm đứa đi vào quán rượu?

Ông già Mười Lăm lắc đầu rồi bập mạnh môi vào chiếc tẩu thuốc nhỏ nhắn, uốn cong, màu anh đào. Ông biết rất tường tận con phố nhỏ yên tĩnh này, biết bộ mặt của nó, chuyển động của nó, giọng nói của nó, nhịp thở của nó.

Ông biết từ lúc nào góc phố hiện ra vầng thái dương trong ngày đẹp trời; bao nhiêu trẻ con buổi sớm chạy lon ton đến nhà trẻ, trường học; bao nhiêu cô gái tàn tạ trong những tấm khăn đen với chiếc cặp lồng sắt tây nhỏ trên tay, đi thành từng tốp ba bốn người đến nhà máy xì gà làm việc; bao nhiêu người đàn bà với những chiếc sọt dừng lại trên tấm thảm cũ rích rách bươm, khoe với nhau mớ rau mới mua, than phiền về sự đắt đỏ của những quả trứng, miếng thịt và cục bơ; bao nhiêu thợ làm công nhật đứng lại giữa mặt đường đá lát, bước chân nặng nề với những đôi giày rách bươm, kẹp dưới nách những cuốn dây, còn trong tay là chiếc xô, cái bay, sợi cáp, chiếc rìu, chiếc cưa. Thậm chí, có thể ông còn biết cả điều này nữa: có bao nhiêu chim sẻ làm tổ dưới mái đua của nhà máy bia cũ, ngôi nhà ngạo nghễ phô ra trên con phố nhỏ cái ống khói cao lênh khênh đen nhẻm đứng khuất sau các cành cây của rặng dương ốm yếu mọc bên cạnh. Hàng dương không còn chút sinh khí, nhưng không chịu chết mà cứ đứng đen ngòm, nửa khô héo như vậy với thân cây bị tàn phá, trên đó cứ vào mùa xuân lại nảy vài mầm xanh nhợt nhạt. Thậm chí không cần nhìn qua cửa sổ, chỉ bằng một tai ông cũng nhận biết được rằng gã Pawel, người gác cổng, đang quét đường phố bằng chiếc chổi mới hay cũ của mình.

Và tại sao ông Mười Lăm Gdansk lại không biết mọi thứ đó cơ chứ, khi đã từ hai mươi bảy năm nay, trong chính căn phòng này, dưới chính ô cửa sổ này, ông có xưởng đóng sách của mình và đã hơn một phần tư thế kỉ, đứng bên cạnh nó trong chiếc tạp dề bằng da, khi mà bàn tay khô khốc, nổi đầy mạch máu, còn giờ đây đã hơi run rẩy, ép xuống chiếc đinh vít bằng gỗ kẹp báo chí, thì đôi mắt dưới hàng mi rậm rạp, nhô ra bạc trắng, vẫn nhìn vào con phố nhỏ ấy, con phố nằm lọt thỏm trong thành phố lớn, có đời sống riêng giống như một thế giới biệt lập, khép kín.

Những điều bí mật nhỏ nhoi của cái thế giới ấy ông Mười Lăm biết kĩ càng. Ông biết, khi nào tăng, khi nào giảm chứng ho của viên công chức già phòng lưu trữ hồ sơ, kẻ thường mang những tập sách dày cộm bám đầy bụi bặm và hôi hám đến đóng bìa cứng; biết thỏi son môi của gã luật sư có mùi gì khi hắn mang hồ sơ của ông trạng sư đến đóng thành tập; biết khi nào cô Joasia từ chỗ bà cố vấn sẽ đến với yêu cầu lắp vào sau tấm kính tấm bằng có hình thiên thần vàng óng và chàng trai với bó hoa hồng trên tay sao cho thật đẹp mắt; biết khi nào anh sinh viên sống trên tầng áp mái không ăn bữa trưa; biết cô gái ở kí túc xá sẽ thở hổn hển chạy đến yêu cầu bọc cho cô những bài thơ của Czeslaw Gawalewicz bằng giấy viết thư “màu xanh da trời với những sợi dây vàng”.

Ông biết mọi thứ. Mọi thứ, những cái có thể nhìn thấy ở bên trái và bên phải bằng con mắt xám đục, linh lợi, những cái có thể nghe thấy ở bên trái và bên phải bằng một tai và những cái có thể vừa ngẫm nghĩ hàng giờ đồng hồ, vừa gõ giống như con chim gõ kiến bằng chiếc búa của thợ đóng sách, vừa làm bằng và cắt xén những tấm giấy, vừa dán keo và khuấy bột màu.

Và ở đây tất cả mọi người cũng đều biết ông. Người lạ họa hoằn mới qua đây; mỗi người đều như người của mình, người nhà vậy.

Vào mùa hè, gã thợ đồng hồ già hói trán ở phía đối diện hét to “chào buổi sáng” với ông qua cửa sổ mở toang và hỏi về Bismarcek; ông thợ bện dây thừng bị lao phổi mắc vào nắm đấm cửa những sợi dây đay dài của mình và vừa thở hổn hển vừa cuốn chúng lại trong hiên nhà nhỏ hẹp nửa sáng nửa tối của căn hộ chung cư; chàng sinh viên gầy từ căn nhà trên tầng áp mái với đôi chân nhanh như cái kéo của rạp xiếc lúc hoàng hôn thò mái đầu với cái cổ dài ngoẵng mảnh khảnh của mình vào cửa nhà ông và hỏi mượn cây nến, hứa “sẽ trả lại ngay sau đó, chỉ có điều một tiếng đồng hồ sau vẫn mải viết lách”... Bà bán hàng ở quán chợ thỉnh thoảng lại đưa qua cửa sổ cho ông mớ củ cải đen để đổi lấy mẩu giấy màu mà cậu con trai nổi tiếng toàn con phố của bà dùng để dán thành những chiếc diều; cậu con trai nhỏ của chủ nhà ngồi suốt hàng tiếng đồng hồ ở chỗ ông chờ phút rảnh rỗi để Mười Lăm đưa cho nó những tấm bìa cứng dán hình các chú lính, trong khi nó tỏ ra ngạc nhiên trước cái tay cầm to đùng của cây kéo, rồi cầm búa lên cân thử nặng nhẹ và gí sát mũi vào nồi hồ dán, gần như định nếm thử. Tất cả những điều đó tạo nên bầu không khí ấm áp, không khí tin cậy của lòng tốt giữa mọi người với nhau. Ông Mười Lăm hẳn phải cảm thấy rất thoải mái trong bầu không khí ấy. Dù đã ở tuổi sáu mươi bảy, ông vẫn thấy mình còn lanh lợi. Sự bình yên và uy thế hiện rõ trên khuôn mặt đặc trưng, héo tàn qua lao động vất vả của ông.

Mái tóc ông trắng như cước, còn chòm râu dài cũng bạc hết cả. Bộ ngực hõm sâu của ông dưới lớp áo bông nâng lên hạ xuống nhịp nhàng, còn cột xương sống gù gù của ông có lẽ không bao giờ giãn thẳng ra được, song điều đó chẳng có gì phải lo sợ, khi hai chân và đôi mắt vẫn đảm đương mọi việc, khi sức lực vẫn còn tiềm ẩn trong bàn tay. Mỗi khi cảm thấy khó thở, cột sống lúc cúi xuống thấy hơi đau, ông Mười Lăm lại nhúm chút thuốc lá từ túi thuốc thẫm màu được nút lại bằng một sợi dây cho vào tẩu và hút, nhả ra làn khói trắng đẹp và thế là ông Mười Lăm thấy ngon. Làn khói bạc ấy còn có giá trị đặc biệt khác nữa, có thể nhìn thấy trong đó các sự việc đã cách xa và cả chuyện đã trôi vào dĩ vãng từ rất lâu rồi.

Có thể nhìn thấy trong đó cả bà Resia, vợ ông, người đã sống hạnh phúc với ông suốt ba mươi năm trời, và các con trai ông, những người vì miếng bánh mì đã phải tản mát khắp nơi như những chiếc lá bị gió cuốn đi, và những đứa con của các con ông, và những nỗi buồn khác nhau, và những niềm vui, và những lo toan. Trong đó, nhìn thấy lâu nhất là đứa con gái út của ông, Liya, gả chồng sớm và cũng mất sớm, để lại cho ông đứa cháu trai duy nhất. Khi ông Mười Lăm rít tẩu thuốc của mình, từ miệng ông phát ra những tiếng lép bép nho nhỏ. Ông càng hút lâu và khi khói thuốc tím thẫm mang đến cho ông những hình ảnh xa vời, những hình ảnh không bao giờ còn quay trở lại nữa, thì tiếng lép bép lại bật ra to hơn, mạnh hơn, gần như trở thành tiếng rên rỉ. Tấm lòng con người, tấm lòng một ông già Do Thái cũng có những nỗi buồn và niềm nhung nhớ của mình, những thứ bị công việc làm át đi.

Trong lúc đó, bà láng giềng mang đến nồi xúp gà bằng một tay, trong nồi nổi lên những miếng bánh mì tròn đã mềm, còn tay kia là đĩa đựng thịt và rau đã được bọc kín bên trên. Ông già Mười Lăm nhận từ tay bà suất ăn trưa khiêm tốn ấy; ông không ăn ngay mà đặt nó trên chiếc bếp lò bằng sắt nhỏ và chờ đợi. Việc chờ đợi diễn ra không lâu. Đúng hai giờ chiều, cửa ra vào căn phòng nhỏ bật mở kêu ầm ĩ, và một cậu bé người nhỏ nhắn, học trò trường trung học xuất hiện trong chiếc áo ca-pốt dài may đề phòng lúc lớn, đội chiếc mũ to đùng hất ngược ra phía sau, với chiếc cặp sách đeo sau lưng. Cậu bé khoảng mười tuổi, thừa hưởng từ người mẹ, con gái út của ông Mười Lăm đôi mắt màu hạt dẻ, ánh mắt vàng lóng lánh, hàng mi dài đen lánh và chiếc miệng nhỏ nhắn, và thừa hưởng ở người ông chiếc mũi đại bàng cùng cái trán hẹp và cao. Cậu bé mảnh khảnh và nhỏ nhắn trông có vẻ còn nhỏ hơn và gầy gò hơn khi cởi chiếc áo ca-pốt ra và chỉ mặc áo sơ mi thắt chiếc thắt lưng to bản của nhà trường quanh người. Ông già Mười Lăm vẫn luôn lo ngại cho cậu. Làn da trong suốt, chứng ho thường xuyên, bộ ngực lép kẹp và bả vai còng xuống của cậu gây ra mối lo ngại thường trực ở người ông. Ông chọn ra cho cậu bé những miếng thịt ngon nhất, đổ thêm xúp cho cậu và tiếp thêm thức ăn vào đĩa cậu, còn khi cậu bé đã ăn no thì ông vỗ vào vai cậu và khuyến khích đi ra chơi đùa cùng bọn trẻ con ở ngoài sân.

Thằng bé hiếm khi nghe theo lời khuyến dụ. Nó mệt mỏi vì những bài học, vì chiếc áo ca-pốt nặng, vì ngồi ở trường, vì đường đi, vì phải khoác chiếc cặp; nó còn có nhiều bài tập của ngày mai. Nó kéo lê chân bước đi, thậm chí cả lúc cười, đôi mắt màu hạt dẻ của nó vẫn nhìn với một nỗi buồn vu vơ.

Vài giây sau bữa trưa, cậu bé ngồi bên cạnh chiếc bàn gỗ thông mộc mạc, lôi từ trong cặp ra những cuốn sách và vở, còn ông già Mười Lăm bắt tay vào công việc của mình. Mặc dù cậu bé ngồi lặng lẽ và chỉ thầm thì ôn lại bài học, thỉnh thoảng lắm mới đung đưa chiếc ghế mà nó ngồi, tì hai khuỷu tay gầy guộc của mình lên bàn, nhưng nó vẫn biết rằng ông già đóng sách đang bị điều gì đó cản trở trong công việc. Thỉnh thoảng, ông quay đầu lại để nhìn cậu bé, và mặc dù có thể đưa tay ra với lấy lọ hồ dán, ông vẫn đi vòng quanh bàn khi cần đến nó, để dọc đường véo vào đôi má nhợt nhạt trong suốt của đứa cháu hoặc xoa mớ tóc cắt ngắn, mềm mại và đen nhánh giống như lông chuột. Rõ ràng, cậu bé đã quen với những cử chỉ vuốt ve đó, không vì thế mà cậu ngừng việc thầm thì sốt sắng của mình, cũng không dừng việc đung đưa chiếc ghế. Ông già đóng sách cảm thấy hoàn toàn mãn nguyện vì điều đó, bước rón rén trên đôi dép đi trong nhà, nhón chân quay trở lại bàn làm việc của mình.

Tối ngày thứ Sáu, cảnh tượng đảo ngược lại: cậu bé ngồi học bên cửa sổ, vừa ngồi vừa đung đưa một cách vất vả chiếc ghế vốn không có đà, còn trên chiếc bàn gỗ thông phủ tấm khăn trải bàn, bà láng giềng đặt một con cá, đĩa mì sợi và một con vịt đỏ au béo ngậy vừa mới mang từ lò quay về. Cái giá nến mạ thiếc có hai nhánh xoắn cong rất lạ chiếu sáng căn phòng một cách long trọng, đầy vẻ lễ hội.

Ông già Mười Lăm khoác trên người chiếc áo dài màu đen đã hơi sờn, song còn khá đẹp, bên ngoài thắt dải dây lưng to bản, thích thú đặt đôi bàn tay chai sạn lên trên đó. Chiếc mũ che mái tóc bạc của ông, còn tiếng cọt kẹt của ống đôi ủng mới đã đổ vào căn phòng tiếng rì rầm vui tươi. Khi bàn được bày biện chu đáo, cậu bé tắm rửa, chải lại mớ tóc lông chuột trên cái đầu nhỏ nhắn dài ngoẵng của mình, cài khuy cổ áo mới và cổ tay áo vừa giặt sạch sẽ, đặt hai tay ra sau lưng, đứng ưỡn thẳng người với vẻ nghiêm trang, trong khi người ông vươn tay lên giá lấy chiếc khăn có sọc đen trắng cuộn tròn và quyển sách kinh.

Giây lát sau vang lên tiếng tụng kinh bằng âm môi trầm bổng của ông già Do Thái; giọng ông biến đổi qua tất cả các cung bậc, từ âm thấp đến âm cao, vì thế tiếng hát của ông biến thành tiếng rền rĩ và than vãn não nề, lúc thiết tha van xin, lúc khóc lên nức nở. Do ảnh hưởng của tiếng hát đó, cậu bé học sinh trường trung học cảm thấy kích động rùng mình, mặt mày vốn nhợt nhạt của cậu càng trở nên vàng vọt hơn, đôi mắt to của cậu giương hết cỡ, lúc lúc lại chớp chớp và tràn đầy nước mắt; cậu nhìn lên ông mình như bị thôi miên, cái ngáp như bị chứng động kinh làm miệng cậu há hốc ra. Cũng may là sau đó không lâu, người ông đã đóng quyển kinh cũ lại và bắt đầu lễ Giáng phước bằng bữa tiệc của người Do Thái.

Có một lần vào mùa hè đã xảy ra trường hợp là những cậu bé con ông thợ nguội Kolodziejski và thợ giày Pocieszka tụ tập trước cửa sổ mở toang của ông thợ đóng sách già và nhìn vào căn phòng đang sáng đèn của lễ Do Thái nọ, chúng biến buổi cầu kinh đó thành trò khôi hài và trò đùa ngu ngốc.

Đúng lúc ấy, một cha xứ quản hạt già đi ngang qua con đường đó. Sau khi lướt nhìn qua cửa sổ, thấy ông già Do Thái đang làm lễ cầu kinh và rền rĩ cầu Chúa theo kiểu của mình, cha liền ngả mũ xuống. Cảnh tượng ấy diễn ra câm lặng, nhưng lại nói lên rất nhiều điều. Bọn trẻ con lủi mất khỏi đó cứ như gió cuốn chúng bay đi và kể từ đó, không còn xảy ra trường hợp nào mà sự yên tĩnh của căn phòng nghèo nàn này bị khuấy động nữa.

Mãi cho đến ngày hôm kia...

Đúng ra thì kể cả hôm kia cũng không có gì xảy ra. Chỉ có điều cậu bé từ trường về không có mũ, thở hổn hển giống như con thỏ bị săn đuổi. Ngay lúc đó, cậu không muốn nói gì; chỉ sau khi bị tra hỏi rất lâu, cậu mới thừa nhận rằng một kẻ rách rưới đã hét to với cậu: “Thằng Do Thái!... Thằng Do Thái!...”, vì vậy cậu chạy trốn và đánh rơi mất mũ rồi không dám quay trở lại đó để lấy.

Cơn giận dữ sôi trào, dồn lên tận mặt ông Mười Lăm. Ông ưỡn thẳng người, như bỗng nhiên cao lớn hơn, nhổ nước bọt, sau đó ôm chặt vai cậu bé, ấn cậu ngồi xuống bàn và ăn bữa trưa trong im lặng.

Sau bữa ăn, ông không trở lại bàn làm việc và không ngậm tẩu thuốc mà chỉ hít thở mạnh và đi lại trong phòng. Thằng bé cũng không học bài, chỉ nhìn lên người ông với ánh mắt sợ sệt. Chưa bao giờ nó thấy ông giận dữ như vậy.

- Cháu hãy nghe đây! - Cuối cùng đứng trước mặt cậu bé, ông Mười Lăm lên tiếng - Nếu như ông nhận cháu từ hồi cháu còn là đứa bé côi cút, trở thành người vú nuôi của cháu, đồng thời cũng là mẹ cháu, vậy thì, không phải ông dạy dỗ và chăm sóc cháu để cháu trở thành một thằng ngu ngốc! Và nếu như ông để cho cháu đi học, để cháu được đến trường, mua sách cho cháu, thì không phải để cháu trở thành một đứa ngu ngốc! Thế mà cháu lớn lên thành một đứa hoàn toàn ngu ngốc và cháu không có tí chút thông minh nào! Nếu như cháu có chút thông minh, thì cháu sẽ không phải xấu hổ vì điều đó, không phải khóc lóc, không phải chạy trốn khi ai đó hét lên với cháu: “Thằng Do Thái”. Còn nếu vì thế mà cháu khóc, cháu chạy trốn và lại còn đánh mất chiếc mũ đẹp và mới như vậy, chiếc mũ trị giá chỉ còn thiếu sáu xu là đầy năm zloty* tiền mặt, thì cháu là đứa ngu ngốc nhất trong số những đứa ngu ngốc, và vậy là cả trường lớp, cả sách vở, cả việc học hành cũng chẳng mang lại cái gì!

zloty: đơn vị tiền tệ của Ba Lan.

Ông hít mạnh một hơi và lại bắt đầu nói tiếp:

- Vậy, Do Thái là cái gì? Vậy, cháu là thằng Do Thái như thế nào? Ông đã nói bằng giọng dịu dàng hơn - Cháu sinh ra ở thành phố này, cháu không phải là người ngoài, cháu là người mình, người ở đây, vì vậy cháu có quyền yêu thành phố này, khi cháu sống lương thiện. Cháu không phải xấu hổ vì cháu là người Do Thái. Nếu như cháu xấu hổ vì mình là người Do Thái, nếu như cháu tự cho mình là đứa hèn hạ vì cháu là người Do Thái, vậy thì cháu có thể làm điều gì có ích cho thành phố này, nơi cháu sinh ra, làm sao cháu có thể yêu nó?... Nào?...

Hít mạnh một hơi rồi ông lại đứng trước cậu bé. Lần này, ông nhìn khuôn mặt sợ sệt của nó với thái độ mủi lòng. Ông đặt tay lên đầu nó và nhấn mạnh từng lời:

- Trở thành một người Do Thái lương thiện là một điều đẹp đẽ! Cháu hãy nhớ điều đó! Còn bây giờ thì hãy học đi, để cháu không trở thành kẻ ngu ngốc, còn ông sẽ mua cho cháu chiếc mũ khác, ông sẽ mua, cháu không phải khóc nữa, vì đó là điều ngu ngốc.

Thằng bé hôn tay người ông và bắt đầu cầm sách lên học. Ông thợ đóng sách già bị chuyện ấy tác động mạnh hơn so với điều muốn biểu thị cho cháu hiểu, bởi ông đi lại rất lâu trong căn phòng, không thể hoàn thành công việc cần kíp mình mới bắt đầu và nhổ nước bọt phì phì vào góc nhà, như vừa nuốt phải thứ gì đó đắng ngắt. Ông không tiêu hóa nổi vị đắng đó trong mình suốt cả đêm, sáng hôm sau ngủ dậy ông trở nên gù hơn và già hẳn đi so với bình thường. Khi cậu bé đeo cặp sách lên vai để đến trường, ông già đi đến bên cửa sổ và nhìn theo cậu rất lâu với vẻ bất an.

Vẻ bất an đó không rời bỏ ông ngay cả khi ông làm việc. So với mọi hôm, ông thường xuyên ngậm tẩu thuốc hơn và hay đến gần cửa sổ hơn do ảnh hưởng của cơn tức giận và ông nhìn với vẻ nghi ngờ ra con phố mà mình đã biết tường tận và rõ ràng từ ngày xa xưa. Cũng do ảnh hưởng của cơn tức giận đó, những chuyển động của con phố, giọng nói của nó, nhịp đập của nó bỗng trở nên khác lạ đối với ông so với thông thường.

Khi thằng bé từ trường học vui vẻ trở về vì nhận được điểm 5, cởi chiếc mũ mới che khuất cả mắt nó ra, ông già quên những ảo giác của mình, và huýt sáo lúc làm việc để mình hay cả thằng bé được vui vẻ, giống hệt như thời còn trẻ.

Sau bữa trưa, viên thư kí xức đầy nước hoa bước vào nhận lại tập hồ sơ.

- Có gì mới không? - Hắn hỏi.

- Mọi chuyện đều tốt đẹp, xin Chúa phù hộ để tránh điều xấu xa! - Ông Mười Lăm Gdansk đáp.

- Hình như người ta sắp đánh bọn Do Thái hay sao ấy?... - Gã thư kí sực nức mùi nước hoa ném ra câu ấy với nụ cười ngu ngốc.

- Nào, nếu đánh nhau thì đánh nhau! - Ông Mười Lăm đáp và che giấu cảm xúc mà những lời nói đó gây ra đối với ông - Thế ai đánh họ? Chính quyền à?...

- Chính quyền ai lại dây vào. - Gã thư kí nhỏ nhắn bật cười.

- Ôi, nếu không phải chính quyền thì đội ơn Chúa! - Ông Mười Lăm nói.

Cả hai cùng cười. Gã thư kí trẻ cười với vẻ ngu ngốc, còn ông già Do Thái thì với thái độ gượng gạo lộ rõ.

Ông tức giận vì câu chuyện lại diễn ra bên cạnh đứa bé. Ông nhìn cậu bé từ dưới cặp lông mày nhíu lại. Thằng bé găm cặp mắt trợn tròn của mình vào gã thư kí và khi gã đó đã đi khuất sau ngưỡng cửa, nó mới hạ đôi mắt tối sầm và bừng cháy xuống những trang sách. Ông già Mười Lăm như không nhìn thấy điều đó, lại bắt đầu huýt sáo. Nhưng bên trong tiếng huýt đó chứa đựng tiếng rít của bộ ngực bị sức nặng kinh hoàng đè nén, nốt nhạc bị kìm nén, lặng lẽ, buồn ngủ, cho đến khi bỗng dưng tắt lịm với một tiếng nấc hay tiếng rên rỉ.

Trong nhà đã nhập nhoạng tối. Qua cánh cửa thấp, gã thợ chữa đồng hồ to béo lao vào trong chiếc áo choàng không tay màu tro thường dùng vào dịp này.

- Ông đã nghe thấy tin mới chưa? - Gã hỏi và ngồi xuống bên bàn, nơi thằng bé đang học.

- Ôi, - ông Mười Lăm đáp - tôi thì cần gì tin mới? Nếu như tin đó tốt lành thì đằng nào nó cũng sẽ tốt lành, còn khi nó là tin tồi tệ thì tôi cần gì phải nghe nó cơ chứ?

- Hình như người ta sắp đánh bọn Do Thái. - Gã thợ đồng hồ béo vừa nói vừa lắc lắc chân xỏ trong chiếc giày có gắn mắt khóa kim loại sáng lóng lánh.

Ông già Mười Lăm nhấp nháy mắt mấy lần với vẻ bực tức, môi bỗng nhiên run rẩy, nhưng ông ngay lập tức trấn tĩnh lại và lấy giọng nói hiền hậu đáp:

- Đánh bọn Do Thái? Bọn Do Thái nào? Nếu như bọn ấy là bọn ăn cắp, bọn làm hại người, bọn gây sự ở ngoài đường, bọn lột da người nghèo, thì sao lại không? Chính bản thân tôi cũng đi đánh!

- Song không phải thế! - Gã thợ chữa đồng hồ cười - Đánh tất cả bọn Do Thái...

Bất chợt, trong con ngươi mắt bạc trắng của ông Mười Lăm bỗng cháy lên một tia sáng. Ông dập tắt nó bằng việc hạ mí mắt xuống đến lưng chừng và gần như hỏi với thái độ thờ ơ:

- Nào, vì cái gì họ đánh tất cả người Do Thái nhỉ?

- Còn vì cái gì nữa? - Gã thợ chữa đồng hồ đáp lại với vẻ thoải mái - Vì đó là bọn Do Thái!

- Ôi, - ông Mười Lăm nói và chớp chớp đôi mắt bạc trắng - thế tại sao họ không đi vào rừng và không đánh đám bạch dương vì đó là bạch dương, hoặc đánh đám tùng bách vì đó là tùng bách?...

- Ha! Ha! - Gã thợ đồng hồ cười - Mỗi gã Do Thái đều có thủ đoạn của mình! Còn cây tùng bách và cây bạch dương kia là của chúng ta, ở trong rừng của chúng ta, mọc lên từ đất của chúng ta!

Ông Mười Lăm cảm thấy chóng mặt đến nghẹt thở, câu trả lời bỗng như sôi trào ra khỏi miệng. Ông cúi đầu về phía gã thợ đồng hồ và nhìn sâu vào mắt hắn.

- Vậy tôi lớn lên từ đâu? Tôi lớn lên từ mảnh đất nào? Ân nhân biết tôi chắc từ lâu rồi nhỉ? Hai mươi bảy năm ân nhân biết tôi! Có phải tôi đến đây như đến quán ăn không? Ăn, uống và không trả tiền? Đấy, tôi không đến đây như đến quán ăn! Tôi lớn lên từ thành phố này, giống như cây bạch dương kia trong rừng! Tôi ăn ở đây mẩu bánh mì, đúng như vậy. Cũng uống nước, và đó là sự thật. Nhưng vì miếng bánh mì ấy và ngụm nước ấy tôi đã trả tiền. Tôi trả bằng cái gì? Ân nhân muốn biết tôi trả bằng cái gì không?

Ông chìa đôi bàn tay lam lũ, gầy còm và đầy mạch máu của mình ra trước mặt.

- Đấy, - ông lên tiếng bằng giọng nói có phần nổi nóng - tôi đã trả bằng mười ngón tay này! Ân nhân có nhìn thấy đôi tay này không?

Ông lại cúi xuống và lắc lư đôi bàn tay gầy còm của mình trước cặp mắt lấp lánh của gã thợ chữa đồng hồ.

- Đấy, đó là đôi bàn tay như vậy, vì thế miếng bánh mì và ngụm nước kia không phải là tự nhiên được đưa đến miệng đâu! Đó là đôi bàn tay như vậy, đôi bàn tay đã bị cong lại vì con dao, vì cái kìm, vì chiếc đinh ốc, vì chiếc búa. Đấy, tôi đã phải trả bằng những thứ đó cho mỗi mẩu bánh mì và mỗi cốc nước mà tôi ăn và uống ở đây. Tôi còn đưa thêm vào đấy đôi mắt này, đôi mắt giờ đây không còn nhìn rõ nữa, đưa thêm cột xương sống này, cột sống mà giờ đây không còn duỗi thẳng ra được nữa và đôi chân này, đôi chân không còn muốn mang tôi đi nữa!

Gã thợ chữa đồng hồ nghe với vẻ thờ ơ, vừa nghe vừa lúc lắc chiếc dây đeo đồng hồ. Ông già Do Thái tự thấy phấn khích với lời nói của mình.

- Nào, thế còn tiền trả công cho tôi thì nằm ở đâu? Tiền trả công cho tôi nằm ở trường học chỗ bọn trẻ, chỗ những cậu ấm, cô chiêu, những kẻ học trong sách, những kẻ viết trên vở. Tiền đó có ở cả trong nhà thờ, khi mọi người đến đó với những quyển kinh... Đấy, tiền đó có cả ở chỗ cha xứ quản hạt quyền quý, vì tôi cũng đóng sách cho ông ta, cầu mong ông luôn mạnh khỏe!

Đến đây ông ngả mũ, rồi lại nói tiếp:

- Tiền trả công cho tôi nằm trong những bàn tay tốt!

- Người ta vẫn thường nói như vậy, - gã thợ đồng hồ thận trọng đáp - nhưng Do Thái luôn là Do Thái!...

Những tia lửa mới lại rực cháy trong mắt của người thợ đóng sách già.

- Nào, thế họ phải là cái gì? Phải là người Đức? Phải là người Pháp?... Có lẽ họ phải là loài ngựa? Nào, loài chó thì từ lâu họ đã phải làm rồi, họ đang là chó rồi!

- Không phải như vậy! - Gã thợ đồng hồ nói với vẻ trịnh trọng - Điều tôi muốn nói là họ không phải người ngoài!...

- Như vậy ư? - Ông già Do Thái đáp và ngửa người ra đằng sau rồi rút cùi tay lại - Đấy, lẽ ra ân nhân cứ nói thẳng ra như thế với tôi! Đấy là lời nói thông minh! Tôi thích nghe lời nói thông minh! Lời nói thông minh cũng giống như cha và mẹ của con người. Đấy, vì lời nói thông minh tôi có thể đi cả dặm đường. Khi tôi nghe thấy lời nói thông minh thì tôi đủ tiền mua bánh mì. Giống như tôi là người vô cùng giàu có, một chủ ngân hàng cỡ bự, đấy, tôi sẵn sàng trả cho mỗi lời nói thông minh một đồng tiền vàng. Ân nhân nói rằng người Do Thái không phải là người ngoài ư? Đấy, tôi cũng nói y như vậy. Tại sao lại không? Cứ coi hắn không phải là người ngoài đi. Hắn là người ngoài để làm gì, hắn làm cái gì khi là người ngoài, khi đằng nào hắn cũng là người mình? Ân nhân có nghĩ rằng nếu ở đây có mưa thì mưa ấy không làm ướt người Do Thái, vì người Do Thái là người ngoài? Hoặc giả ân nhân nghĩ rằng khi ở đây có gió thì gió không thổi cát vào mắt người Do Thái, vì người Do Thái là người ngoài? Hay có lẽ ân nhân nghĩ rằng viên gạch trên mái nhà khi bay thì nó sẽ tránh người Do Thái, vì người Do Thái là người ngoài? Đấy, thế thì tôi nói với ân nhân rằng nó sẽ không tránh hắn ta đâu. Cả gió cũng không tránh hắn, cả mưa cũng không tránh hắn! Ân nhân hãy nhìn lên mái tóc của tôi, lên bộ râu của tôi... Nó bạc, nó trắng... Điều đó có nghĩa gì? Có nghĩa là nó đã thấy nhiều chuyện và nhớ nhiều chuyện. Tôi nói với ân nhân rằng, nó đã nhìn thấy những ngọn lửa lớn và những đám cháy lớn*, cả những tiếng sét lớn đánh vào thành phố này, còn kẻ nói rằng những ngọn lửa ấy và đám cháy ấy, và cả những tiếng sét ấy không nhằm vào người Do Thái, thì họ chưa nhìn thấy chúng! Đấy, khi màn đêm ập xuống thành phố thì nó cũng ập xuống cả người Do Thái, và lúc đó, người Do Thái cũng không thấy mặt trời!

Ngọn lửa lớn, đám cháy lớn: ông Mười Lăm nghĩ đến biến cố xảy ra ở Warszawa vào những năm 1861 - 1864.

Ông hít thật sâu và nặng nhọc.

- Ân nhân có đi xem trò vui bao giờ chưa? Ân nhân có đi khiêu vũ bao giờ chưa?

Gã thợ đồng hồ béo gật đầu và lắc lư bên cạnh bàn, rồi gõ gõ vào dây đeo đồng hồ.

Điều làm gã vui là ông già đóng sách coi gã là con người của thế giới và còn có khả năng vui chơi khiêu vũ.

Bằng cặp mắt sáng quắc, ông già Do Thái nhìn vào khuôn mặt phẳng phiu, với cái mũi rộng đầy thịt của gã.

- Thế ngài không có nỗi buồn riêng nào, nỗi lo lắng riêng nào ư?

Gã thợ đồng hồ nhướn cặp lông mày lên, nét mặt tỏ vẻ do dự. Đúng ra thì gã muốn tỏ ra mình cao thượng hơn so với những chuyện vụn vặt, như chuyện lo lắng và buồn phiền chẳng hạn, nhưng vì không biết ông già Do Thái định hướng đến chuyện gì, nên gã im lặng một cách thận trọng.

Ông già đóng sách cũng không chờ câu trả lời, chỉ tiếp tục nói bằng giọng sôi nổi, sung sức:

- Nào, nếu như ân nhân có mặt tại các cuộc khiêu vũ và có nỗi buồn riêng của mình, thì ân nhân biết rằng mọi người đến với khiêu vũ, đến với trò vui và chia tay nhau vui vẻ, chẳng có gì phải nói. Còn nếu những người ấy ra về buồn bã, nếu họ ra về mà khóc lóc, thì không phải là chẳng có gì xảy ra. Lúc đó, người này sẽ trở thành anh em của người kia, lúc đó nỗi buồn ấy sẽ khoác chung cho họ một chiếc áo. Tôi nói với ân nhân rằng tôi đã nhìn thấy ở thành phố này nhiều chuyện đáng buồn hơn việc đi khiêu vũ và rằng cái áo khoác ấy rất lớn. Ôi chao, nó lớn như thế nào nhỉ?... Nó đủ che chung cho tất cả mọi người, cả những người Do Thái cũng vậy!

Ông quay nghiêng người và nhìn qua cửa sổ.

- Ông Mười Lăm của tôi ơi! - Gã thợ đồng hồ nói bằng giọng cao ngạo - Người ta nói chuyện nọ chuyện kia, song mỗi gã Do Thái chỉ cần có tiền...

Ông già đóng sách không cho gã kết thúc câu nói, đưa tay lên lắc lắc, giống như xua đuổi con sâu tởm lợm.

- Xin ân nhân đừng nói những lời đó với tôi! Đó là lời nói của tất cả bọn ngu ngốc. Cứ như thể tiền là tất cả đối với người Do Thái, thế thì Chúa sẽ ngay lập tức khâu chiếc túi vào da họ, hoặc có khi khâu cả hai cái túi. Còn nếu như Chúa không khâu túi vào da họ, thì điều đó chứng tỏ rằng, tiền đối với người Do Thái cũng phải có giống như bất cứ ai khác thôi.

- Phải có! - Gã thợ đồng hồ kêu to, nâng cái cằm béo phị của mình lên lấy tay vuốt ve nó - Nhưng sự thật không như vậy! Vấn đề nằm ở đó, rằng thực tế không như vậy...

Ông Mười Lăm nở nụ cười nửa buồn rầu, nửa tinh quái.

- Còn tôi thì nói với ân nhân rằng, ở đó chẳng có vấn đề gì, chỉ có một lỗ thủng. Ôi chao, lỗ thủng mới lớn làm sao!

Bỗng nhiên, ông nghiêm mặt lại và lắc đầu, rồi nhìn xuống đất.

- Ân nhân nghĩ rằng tôi không nhìn thấy lỗ thủng ấy ư? Tôi nhìn thấy nó. Và làm ra lỗ thủng ấy thì đúng là tồi tệ, nhưng từ trước đến nay nó chưa được lấp lại, điều đó lại càng tồi tệ hơn. Rất nhiều sức mạnh đã rơi vào những lỗ thủng đó và sự yếu đuối cũng quay vòng ở đó. Và rất nhiều trí khôn cũng rơi vào, còn sự ngu ngốc cũng quay vòng ở đó. Và rất nhiều cái tử tế rơi vào, còn sự tồi tệ quay vòng ở đó... Ân nhân có tin tôi hay không? Những lỗ thủng ấy không phải bọn Do Thái là người đầu tiên đào. Mà họ là người sau đó mới đào, điều này tôi biết, tôi không lừa đảo, tôi không bảo là họ không đào. Nhưng kẻ đầu tiên đào nó chính là sự quên lãng cái điều hiển nhiên là tất cả mọi người đều do cùng một Thượng đế sinh ra.

Ông đút ngón tay cái và ngón trỏ vào lòng bàn tay, như định nhón thuốc hút, và chìa ngón tay út ra, bằng cử chỉ ấy muốn nói đến sự chính xác trong luận chứng của mình.

- Đó là sợi chỉ đầu tiên, sợi chỉ bị đứt ở chỗ đó. Một số bắt đầu lôi kéo mọi người đến với mình, còn những kẻ khác lại lôi kéo đến với họ, và thế là chỉ tiếp tục bị đứt. Ân nhân nói rằng đối với người Do Thái, tiền là tất cả, đúng không? Nào, cứ cho là như vậy đi! Ân nhân có hiểu tại sao không? An nhân không hiểu chứ gì? Ân nhân nghĩ rằng là bởi vì người Do Thái láu cá phải không? Thế thì ân nhân lầm rồi. Ân nhân có biết cái cột ở Ujazdow không? Ồ, ân nhân cười à? Ở đấy, chỗ cái cột kia sẽ đặt danh dự và sự thông minh, cả tiếng tăm lớn, cả biểu tượng lớn, cả dòng họ lớn, cả những trụ sở lớn, cả những đồng tiền nữa. Đúng vậy! Nếu một người leo được lên cái cột để nhận danh dự, người thứ hai nhận sự thông minh, người thứ ba nhận biểu tượng, người thứ tư nhận tiếng tăm, sẽ tìm ra kẻ vì đồng tiền mà leo lên cột đó, mặc dù những cái khác cũng có ở trên đó. Nhưng nếu ở trên cây cột đó chỉ đặt tiền, mà không có danh dự, tiếng tăm, sự thông minh, thì vì cái gì mà mọi người leo lên cây cột đó? Ân nhân nghĩ sao? Người ta leo lên đó vì đồng tiền và không vì cái gì khác nữa hay sao? Thế còn những người ở phía dưới, những kẻ đứng nhìn, họ sẽ hét lên: Ôi chao, sao lại có thứ dân láu cá như thế chứ, chỉ leo lên vì đồng tiền, đồng tiền là tất cả đối với họ! Những kẻ nhỏ bé hơn hoặc đứng ở chỗ đất sâu hơn, nhìn thấy ít hơn, sẽ càng hét lớn hơn. Và chỉ có những người cao lớn, những người đứng ở trên cao mới nhìn thấy rằng trên cây cột kia chẳng đặt cái gì khác cả và với những kẻ leo lên vì thứ đặt trên đó, họ sẽ không ngạc nhiên, và sẽ không hét lên: Cái gì đặt trên cây cột của chúng tôi? Chỉ có những đồng tiền nằm ở đó, chúng tôi trèo lên đó vì đồng tiền. Song đó không phải là điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất là có hai cây cột tồn tại và trên đó đặt những thứ không bằng nhau.

- Lại còn thế nữa! - Gã thợ đồng hồ bật cười với vẻ xấc láo - Trên phương diện lí thuyết - gã bổ sung một cách nghiêm trang - có lẽ ông có lí. Nhưng trong thực tế thì khác đấy. Các người, lũ Do Thái nở ra như loài châu chấu, và đó luôn luôn là tai họa cho người khác...

Ông già đóng sách lại nhấp nháy mắt vài lần với vẻ nóng nảy và khép đôi mắt bạc đến lưng chừng bằng hàng lông mi.

- Một người thông minh, mặc dù trong tay có hai cục đá và dù cho có ba cục đi chăng nữa thì chỉ dùng một cục ném chó. Còn ân nhân ngay lập tức dùng hai cục đá ném vào lão già Do Thái... Nhưng điều đó chẳng hề gì. Tôi sẽ nhặt một cục đá lên và cục thứ hai tôi cũng nhặt lên. Xương sống tôi tự nó đã nghiêng xuống mặt đất rồi...

Ông vuốt bộ râu trắng phau của mình hai lần và nghĩ ngợi một hồi, sau đó nói:

- Ân nhân có biết tôi tên là gì không? Tôi là Mười Lăm Gdansk. Tôi là Mười Lăm bởi vì gia đình chúng tôi vốn có mười bốn người con, còn tôi là người con thứ mười lăm được sinh ra, ở đây, ở thành cổ này, ở con phố hẹp này, ngay phía sau căn hộ chung cư màu vàng kia, nơi có hiệu thuốc. Ân nhân có biết không? Đấy, tôi đã được sinh ra như thế ở chỗ ấy, lúc đó gia đình chúng tôi có đủ mười lăm... Vì vậy tên tôi là Mười Lăm. Liệu ông bố đã quá cố phải dìm chúng tôi chết ư? Ông không dìm chúng tôi chết! Thứ nhất là vì ông sợ Chúa, thứ hai là vì ông yêu mười lăm đứa con mình, đến mức khi bà mẹ mang cá mòi về, ông chỉ ngắt cái đầu, còn cả con cá mòi mang cho bọn trẻ, để chúng được ăn thỏa thích, để chúng không bị đói. Ông yêu chúng như vậy đấy.

Ông ngừng lời, mặt đỏ bừng, đôi mắt cháy lên với hồi ức chợt đến. Rồi ông trấn tĩnh lại và nói tiếp với nụ cười vui vẻ, trong đó có thể thấy cả vẻ mỉa mai cay đắng.

- Nhưng tôi, Mười Lăm, biết rằng toàn bộ mười lăm người chúng tôi trên thế gian này đang gặp cảnh tồi tệ, bản thân tôi có nửa tá con, còn con gái tôi, Liya, chỉ có một đứa con trai và đã bị chết vì cơn đau khủng khiếp. Giá như nó còn sống thì chắc sẽ có sáu con trai, và khi nhìn thấy cái mà tôi đang thấy, chắc nó sẽ phải chết sáu lần vì đau đớn!

Ông nói nhanh, mỗi lúc một nhanh hơn, bằng giọng thiết tha đã bị kìm nén bớt, vừa nói vừa cúi xuống gần gã thợ đồng hồ và nhìn xuyên qua hắn bằng ánh mắt nảy lửa. Giây lát sau, ông ưỡn thẳng người lên, hít vào bộ ngực già nua của mình một hơi thật sâu và nặng nhọc, rồi nở nụ cười buồn rầu, nói:

- Thế nên chúng tôi không gọi nó là Mười Lăm nữa, chúng tôi gọi nó là Jakub. Kubus*, đến đây nào! - Ông lên tiếng như lần đầu tiên nhớ đến sự có mặt của cậu bé. Và khi thằng bé đứng dậy khỏi ghế, lê đôi giày qua trước mặt gã thợ đồng hồ đến núp mình vào ông ngoại, ông già xoa đầu nó và nói:

Kubus: tên thân mật gọi Jakub (ND).

- Kubus là cái tên, mà cả ân nhân, trong trường hợp cần thiết cũng có thể đặt cho người con trai xứng đáng của mình. Đó là cái tên, mà như ở trên phiên tòa của vua Solomon* có nghĩa: Nếu không dành cho ta, thì cũng không dành cho mi. Đó là một cái tên tốt! Đặt tên ấy giống như đặt cây cầu mà mọi người đi qua từ thời khắc xấu đến thời khắc tốt, khi người nọ không tính đến người kia ở trong nhà, khi có cái nôi lớn... Bởi trong cái nôi lớn có nhiều công việc làm ăn và có cả nhiều đói kém, cả nhiều nấm mộ nữa... Và sự thông minh không thể hiện ở chỗ giá như chỉ có ít người, mà ở chỗ mọi người đều làm nhiều việc tốt, gieo cấy nhiều đất đai, đào đắp nhiều mương nước, trồng trọt nhiều cây cối. Họ đưa ra nhiều sáng kiến, làm nhiều điều thông minh, biết nhiều cái tốt đẹp trong lòng kẻ này kẻ kia. Một ông nông dân già nói với tôi rằng nếu như con cò có số con nhiều hơn số nó có thể nuôi, thì một hoặc hai con non sẽ bị vứt ra khỏi tổ. Vậy thì xin ân nhân đừng lo lắng về chuyện đó nữa. Ngay cả đối với con người, sức mạnh như vậy cũng phải tồn tại, chuyện phải tính đến số miệng ăn và số hạt lúa trên bông cũng vậy...

Tòa xử của vua Solomon: Theo Thánh kinh cổ, vua Israel trẻ tuổi đã xử vụ án tranh con như sau: Một lần có hai người đàn bà bế hai đứa con cùng sinh một giờ đến, trong đó một đứa đã chết, một đứa còn sống và cả hai đều khẳng định đứa sống là con mình, còn đứa kia đã bị đánh đổi. Vua liền hạ lệnh mang kiếm đến chém đứa còn sống ra làm đôi để chia đều cho hai người. Người mẹ thật sự của đứa bé còn sống xin với vua thôi cứ để bà kia nuôi chứ đừng chém đứa bé. Người đàn bà thứ hai nói: “Thôi, nếu không của ta, thì cũng không của mi, xin cứ chém nó.” Thế là vua xử cho người thứ nhất thắng kiện (ND).

Ông lắc lư bộ râu bạc và càng lúc càng xiết chặt hơn thằng nhỏ vào cạnh sườn mình.

- Ôi, tôi không chỉ có tên là Mười Lăm, tôi còn có tên là Gdansk. Ôi, thế Gdansk là cái gì nhỉ? Đó là con người hay là đồ vật xuất thân từ Gdansk mà ra... Ân nhân có biết không?... Có rượu Gdansk và có bia Gdansk, có cả cái tủ Gdansk... Chúng có thể mang tên Gdansk giống như tôi là người Gdansk. Tôi không phải là người Paris, không phải người Vienna, cũng không phải là người Berlin - tôi là người Gdansk. Ân nhân nói tôi là người ngoài. Nào, chuyện ấy tại sao lại như thế? Nếu tên tôi là Gdansk, thì tôi là người ngoài ư? Ân nhân nói như vậy ư? Liệu dòng sông Wisla đã cạn rồi ư? Liệu bè mảng từ thành phố của chúng ta không đi lại trên đó nữa ư? Liệu những chiếc thuyền phao rách của chúng ta không còn có ở đó nữa sao?... Tất cả những cái đó đều là của người ngoài ư?... Ân nhân có hào phóng quá hay không đấy? Ôi, thật tiếc rằng trước đây tôi không biết về điều đó, rằng ân nhân là kẻ hào phóng như vậy, vì tôi chỉ cần xin ân nhân một nửa số cửa hàng, hoặc một nửa số đồng hồ mà ở đó có...

Gã thợ đồng hồ bật cười và đưa tay ra sau lưng.

- A ha, đừng để lộ ra đó là ông đấy! À hóa ra chính ông đã chở ra khỏi đây cái đó, giỏi đến mức người làm trò tung hứng nổi tiếng Bosko cũng không thể hơn! Rằng tên là Gdansk thì đã là người mình! Ha, ha, ha!...

Ông già Do Thái lắc đầu và cũng cười. Sự hài hước của kẻ ngụy biện bừng sáng trong mắt ông, song nụ cười thì cay đắng, đau nhói...

- Mười Lăm Gdansk và Jakub Gdansk. - Sau giây lát, ông trịnh trọng lên tiếng và quay mặt về phía đứa cháu, như muốn truyền cho thằng bé sự tôn kính của họ tên mình và truyền thống dòng tộc mình - Ôi, gã Mười Lăm Gdansk này là ai vậy? Ông ta là người Do Thái, sinh ra từ thành phố này, sống tại thành phố này, sống bằng công việc của mình, ở thành phố này ông ta có mộ cha và mộ mẹ mình, cả mộ vợ mình, cả mộ con gái mình. Chính bản thân ông cũng sẽ đặt nắm xương của mình ở thành phố này. Nào, thế còn Kubus Gdansk là đứa nào vậy? - Ông nói tiếp, sau khi đẩy cậu bé ra phía giữa phòng, cách một đoạn bằng cánh tay, nhưng vẫn không buông tay khỏi vai cậu - Đây, nó là một học trò. Nó ngồi trong trường học, ngồi trên chiếc ghế bên cạnh bạn nó, nhìn vào sách, viết và học. Nào, nó học để làm gì? Nó học để có trí khôn. Nào, nếu như có trí khôn thì nó sẽ mang đi đâu? Nó sẽ không mang cái đó đến chỗ nào ở bên ngoài. Nó sẽ không mang cái đó đi dìm xuống nước hoặc đốt trong lửa, cũng không đem chôn dưới đất. Nó sẽ mang thông minh, trí khôn đó dành cho đất nước này, cho thành phố này. Toàn bộ trí khôn sẽ dành cho đất nước này, không có nó thì thằng bé là cái gì và trí khôn đó, cái mà Kubus sẽ có, sẽ phục vụ đất nước này. Ân nhân nghĩ rằng điều đó đã đủ chưa? Nhiều quá ư? Ôi, ân nhân không thể nghĩ ngu xuẩn như vậy chứ? Nào, thế nếu nó có trí khôn thì nó sẽ biết được những chuyện mà tôi không biết và ân nhân cũng không biết. Nó cũng có thể biết cả điều này nữa, là mọi trẻ em đều có chung một người Cha và mọi người phải yêu thương nhau như anh em ruột thịt...

Ông lại kéo thằng bé đến gần mình, và sau khi ôm cổ nó, ông liền cúi xuống gã thợ đồng hồ và lên tiếng thầm thì:

- Bởi đây là một đứa bé rất nhạy cảm... nó mồ côi... có trái tim mềm yếu...

Ông xoa mặt cậu bé và nói tiếp:

- Hãy đi đi, cháu yêu, đi ngủ đi, ngày mai cháu còn phải đến trường...

Thằng nhỏ lại lê đôi giày trước mặt gã thợ đồng hồ, nâng tay ông ngoại lên môi hôn và mất hút sau tấm rèm đỏ tía ngăn cách căn phòng với phòng ngủ.

Ông già Do Thái quắc mắt nhìn vài lần, hít mạnh một hơi, rồi nâng cằm đầy râu lên và hỏi:

- Nào, xin lỗi ân nhân tôi hỏi, ai nói là người ta sẽ đánh dân Do Thái? Bên cạnh thằng bé tôi không muốn hỏi, để nó khỏi sợ hãi, vì đó là đứa bé rất nhạy cảm, nhưng bây giờ tôi xin hỏi thẳng ân nhân không sợ xúc phạm...

Ông nở nụ cười tán dương, lôi cuốn, đôi mắt bạc của ông nhìn thật dễ chịu.

Gã thợ đồng hồ hơi bị mất bình tĩnh với những lập luận vừa rồi của ông già Do Thái, bây giờ ngay lập tức cảm nhận được uy lực của mình.

- Người ta nói... - Gã vừa ấp úng một cách cẩu thả vừa phồng mồm ra.

- Nào, thế ai nói? - Ông già Do Thái hỏi, đôi mắt từ êm ái như nhung chuyển sang gay gắt, sắc nhọn.

- Mọi người nói... - Gã thợ đồng hồ vẫn ấp úng bằng giọng như trước.

Ông già Do Thái bỗng nhảy ra hai bước, với sự nhanh nhẹn không ai có thể đoán được ở ông. Ánh mắt rực cháy, đôi môi lập bập.

- Mọi người?... Mọi người nói? - Ông hỏi bằng giọng rít lên, càng lúc càng lớn hơn - Mọi người?

Và cứ sau mỗi lời phát ra, càng lúc ông càng cúi thấp hơn về phía trước, gần như gập người xuống đất.

Gã thợ đồng hồ nhìn với vẻ thờ ơ, vừa đưa tay sờ mó chiếc dây đeo đồng hồ, vừa lúc lắc chân trong giày. Gã cho rằng thái độ đó của ông già Do Thái đối với hắn là không đúng đắn và thật tức cười.

- Cái gì làm ông ngạc nhiên như vậy? - Gã hỏi với giọng lạnh lùng.

Ông già đóng sách đã không còn bình tĩnh được nữa. Ông nhìn quanh, hai tay tì vào mông, ưỡn cằm lên, mắt nhấp nháy.

- Ân nhân nhầm rồi. - Ông nói - Mọi người không nói điều đó. Đó là do rượu vodka nói, đó là quán rượu nói, đó là cái xấu và cái ngu ngốc nói, đó là cơn gió tồi tệ đang thổi nói.

Ông nâng tay lên phẩy phẩy với vẻ miệt thị.

- Ân nhân hãy ngủ yên giấc. Cả tôi nữa cũng sẽ ngủ yên giấc, cả đứa bé cũng sẽ ngủ yên giấc! Thành phố của chúng ta có rất nhiều nỗi buồn và nhiều điều đen tối, và cũng có rất nhiều nỗi bất hạnh, nhưng thành phố này còn chưa lâm vào điều xấu xa là mọi người trong đó cắn xé lẫn nhau như loài chó. Về điều đó ân nhân có thể yên tâm!

Ông mím chặt môi lại và thận trọng đưa tay ra cầm cây giá nến nặng, tráng thiếc, như định thắp sáng hiên nhà cho khách. Gã thợ đồng hồ đứng dậy khỏi bàn, thắt chặt chiếc áo choàng, ấn lại lên đầu chiếc mũ đã tuột xuống tận gáy và sau khi buông ra câu nói: “Chúc ngủ ngon”, gã liền bước ra ngoài.

Lúc đó, ông già Do Thái quay người lại, đặt giá cắm nến xuống bàn, rón rén đi đến phòng ngủ, chỗ tấm rèm cửa màu đỏ tía, cúi xuống và lắng tai nghe.

Từ bên trong tấm rèm đỏ tía nghe rõ hơi thở của đứa bé như nó đang bị sốt, không đều, khò khè. Ngọn đèn nhỏ trong chiếc bóng thủy tinh xanh đang sáng lung linh ở trên bàn. Ông già tháo đôi dép trong nhà ra, đi đến bên giường và nhìn vào bộ mặt bị kích động của thằng bé với vẻ thăm dò bất an. Ông đứng như vậy trong giây lát, kìm nén hơi thở trên ngực lại, rồi thở dài và lùi khỏi tấm rèm màu đỏ tía, ngồi một cách khó nhọc xuống ghế, tì hai bàn tay xuống đầu gối và lúc lắc mái đầu bạc trắng của mình.

Giờ đây ông còng hẳn lưng xuống và trông già đi đến mươi tuổi. Môi ông mấp máy không thành tiếng, ngực thở nặng nhọc, mắt như bị găm xuống nền nhà. Ngọn nến cháy đến đoạn cuối đang leo lét trong cây giá nến tráng thiếc.

•••

Sáng hôm sau, con phố nhỏ thức giấc lặng lẽ như mọi khi và cũng yên tĩnh giống như mọi khi.

Từ sáng sớm tinh mơ, ông Mười Lăm Gdansk đã khoác chiếc tạp dề bằng da đứng bên cạnh bàn làm việc của mình. Chiếc kéo lớn của ông đang nghiến xuống tập giấy một cách nóng nảy, rắn chắc; cái đinh vít thếp báo kêu lên kèn kẹt, ấn đến tận vòng cuối cùng; con dao hẹp bản, dài ngoằng, lưỡi sáng quắc ánh lên dưới tia nắng sớm, đầu mép giấy rơi xuống cả bên phải lẫn bên trái kêu sột soạt. Ông thợ đóng sách già làm việc ráo riết, hăng hái; trên khuôn mặt khô héo, nhăn nheo có thể nhận biết đêm ông không ngủ. Mặc dù đã uống một cốc cà phê loại xoàng do bà láng giềng mang đến cho ông đựng trong một cái ấm sành to, hình như tim ông vẫn đập nhanh hơn, ông đưa tẩu lên miệng, châm thuốc hút và đến đánh thức đứa cháu.

Hôm nay thằng bé hình như ngủ quên. Đêm qua, nó trằn trọc trên giường khá lâu như một con cá, còn bây giờ lại ngủ giấc ngủ say sưa, lặng lẽ. Tia nắng mặt trời mảnh dẻ hắt vào phòng ngủ qua tấm màn che màu đỏ tía rọi vào mắt, vào miệng, vào bộ ngực nhỏ bé đang phanh áo ra; rồi những ngọn lửa nhỏ vàng óng, lấp la lấp lánh lại cháy bùng lên trên mớ tóc đen mềm mại và hàng mi dài đang buông xuống.

Ông già nhìn đứa bé đầy trìu mến. Trán ông giãn ra, miệng mở to, mắt nhấp nháy và lóe sáng. Cuối cùng ông nở nụ cười hạnh phúc, lặng lẽ, và sau khi phả ra một làn khói lớn từ tẩu thuốc, ông cúi xuống và phun khói vào tận mũi cậu bé. Thằng bé ngạt thở bật dậy, mở to đôi mắt và bắt đầu giụi giụi bằng đôi nắm tay gầy còm. Bây giờ, nó hết sức vội vã, tỏ ra rất lo lắng; còn một bài tập chưa làm xong, sách vở chưa xếp gọn vẫn đang nằm trên bàn. Nó không muốn mang theo cốc cà phê uống dở và chiếc bánh mì tròn dùng để ăn giờ giải lao có kẹp hai lát trứng tráng, chỉ nhét sách vào cặp, không biết liệu mình có bị muộn giờ vào học hay không. Khi đã khoác áo ca-pốt lên vai, nó định bước qua cửa thì cánh cửa đột ngột mở toang ra, chàng sinh viên gầy từ căn nhà trên tầng áp mái đẩy nó quay trở lại phòng:

- Chạy đi, họ đang đánh người Do Thái đấy!

Rõ ràng là anh đang rất tức giận. Khuôn mặt rỗ lốm đốm và hơi dài của anh trông có vẻ còn dài hơn và bị tàn phá nặng nề hơn; bước chân sải từ hiên vào phòng làm cẳng chân khẳng khiu của anh như lìa xa hẳn với thân xác, đôi mắt màu nâu xám quắc lên những tia lửa giận dữ. Thằng bé khiếp đảm vội vàng lao xuống gậm bàn, bỏ rơi áo ca-pốt và chiếc cặp...

Ông già chết lặng. Rồi ông lập tức bình tĩnh trở lại, ngọn lửa từ khuôn mặt ông cháy bùng lên. Như một con mèo rừng, ông nhảy xổ đến chàng sinh viên...

- Chạy là cái gì?... Nó phải chạy đi đâu?... Nó phải chạy trốn cái gì?... Có phải nó đã ăn cắp cái gì của ai ở đây, vì vậy phải chạy trốn?... Có phải nó đang ở trọ nhà người lạ hay không?... Đang ở nhà người ngoài?... Nó đang ở trọ nhà mình! Ở chính trong ngôi nhà của mình! Nó không ăn cắp của ai ở đây! Nó đang đi đến trường! Nó sẽ không phải chạy trốn...

Nhảy đến chàng sinh viên đang đứng ngoài cửa, người ông co rúm, ép mình lại, rít lên, thở phì phì, bộ râu run rẩy.

- Tùy ông muốn thế nào cũng được! - Anh sinh viên buông một câu cục cằn - Tôi nói rồi...

Anh ta sắp sửa rút cái chân dài ngoằng của mình khỏi căn phòng. Ông già đóng sách níu giữ vạt áo bành tô rách của anh ta.

- Tôi muốn thế nào?... Nào, anh nói kiểu gì thế, tôi muốn thế nào? Tôi muốn để tôi được yên thân. Tôi muốn được yên thân để ăn mẩu bánh mì của tôi, thứ mà tôi phải làm việc để có! Nào, tôi muốn nuôi dạy đứa trẻ mồ côi, thằng bé này, để nó lớn lên thành một con người, để không ai phỉ nhổ nó, khi nó không mắc lỗi lầm gì!... Đấy, tôi muốn không xảy ra điều xúc phạm đối với cả tôi cũng như bất cứ người nào khác, muốn sự công bằng, muốn mọi người đều sợ Chúa!... Đấy, tôi muốn điều đó! Còn chạy trốn thì tôi không muốn! Tôi sinh ra ở thành phố này, trong căn nhà này tôi sinh con đẻ cái, ở đây tôi không làm hại ai cả, ở đây tôi có xưởng làm việc của mình...

Ông chưa nói hết thì ở ngách phố vang lên tiếng ồn ào nặng nề, như từ đâu đó ở phương xa một cơn bão sắp ập đến. Trên khuôn mặt anh sinh viên đột nhiên xuất hiện chứng co rút, lời nguyền rủa lầm rầm bỗng bật ra khỏi miệng anh qua hàm răng nghiến chặt.

Ông già đóng sách ngừng lời, đứng thẳng lên và sau khi ngẩng cao chiếc cổ gầy ngoẵng của mình liền lắng tai nghe. Tiếng ồn ào nhanh chóng tiến đến gần. Đã nghe thấy những tiếng huýt sáo kéo dài, tiếng cười, tiếng gọi nhau, tiếng hò hét và tiếng khóc. Con phố nhỏ sôi sục. Người ta đóng các cánh cổng, đặt chướng ngại vật ở các cửa hàng, một số người chạy thẳng đến chỗ sôi động, những người khác lại chạy trốn khỏi đó.

Bỗng nhiên thằng bé hoảng sợ khóc to. Anh sinh viên đóng sập cửa lại và mất hút trong hiên nhà trống vắng.

Ông già Do Thái nghe ngóng. Hình như ông đều không nhận biết được cả tiếng khóc nức nở của thằng bé lẫn việc ra đi của anh sinh viên. Ánh mắt ông giống như đang thu vào mình, môi dưới trễ ra, tai dỏng lên. Mặc dù khoác chiếc tạp dề da vẫn thấy đầu gối già nua của ông đang run lên cầm cập; khuôn mặt ông chuyển từ đỏ sang nâu, rồi từ nâu sang vàng, từ vàng sang nhợt nhạt. Trông ông như người bị đạn bắn trúng vào. Chỉ một giây lát nữa thôi thì cái thân hình già nua, yếu ớt kia sẽ gãy gục và sụp đổ.

Tiếng ồn ào mỗi lúc một gần hơn, rõ ràng hơn và cuối cùng đã ập xuống con phố nhỏ với tiếng kêu thét khủng khiếp, tiếng huýt gió, tiếng cười, tiếng nguyền rủa, tiếng lăng mạ. Những giọng nói khản đặc, say xỉn hòa cùng tiếng la hét điên cuồng của bọn nhãi con. Không khí như cũng bị say bởi tiếng kêu thét của bọn dân đen; trò tinh nghịch hoang dã thống trị con phố, đè bẹp nó, lún ngập, bóp nghẹt nó. Tiếng kêu răng rắc của những cánh cửa sổ bị gãy, tiếng ầm ầm của những thùng phi bị lăn tròn, tiếng lẻng kẻng của thủy tinh bị đập, tiếng bay vù vù của những hòn đá, tiếng sột soạt của những chiếc gậy sắt hình như đang trực tiếp tham gia vào màn kịch khả ố này. Như những bông hoa tuyết của cơn mưa dày, lông chim từ những chiếc gối cùng giường đệm bị xé bay tới tấp và rơi đầy. Đám đông phóng túng đó chỉ còn cách nhà ông Mười Lăm vài quán hàng nữa. Thằng bé ngừng nức nở, cả người run lẩy bẩy như lên cơn sốt rét, chuyển đến ngồi cạnh ông ngoại. Đôi mắt to và đen ngòm của nó càng đen hơn và phát ra tia sáng ảm đạm từ khuôn mặt tái nhợt. Thật kì lạ! Sự ôm ấp của đứa bé và mối hiểm nguy đang đến gần lại làm ông già Do Thái cứng rắn thêm lên. Ông đặt tay lên đầu đứa cháu, hít một hơi thật sâu vào lồng ngực. Mặc dầu khuôn mặt vẫn còn trắng như bông tuyết, ngọn lửa và sự sống đã hiện về trong con ngươi mắt ông.

- Sì... - Ông thầm thì vẻ yên tâm.

Tiếng khóc im bặt, nó tự nín lại vì bị mối sợ hãi kinh hoàng bóp nghẹt. Mãi đến bây giờ, tiếng khóc nức nở lúc nãy của đứa bé mới hiện về trong tiềm thức của ông.

Vài người đàn bà đi vào hiên nhà dài và hẹp: đó là bà thầy bói với đứa bé trên tay, bà gác cổng, bà bán hàng ngoài quán chợ.

- Này, ông Mười Lăm! - Từ ngưỡng cửa, bà gác cổng hét to - Hãy đi khuất khỏi mắt họ! Tôi sẽ đặt bức hình Chúa hoặc một cây thánh giá lên cửa sổ. Ở những nhà khác đã đặt rồi... Lúc đó họ sẽ không đến nữa!... Bà nắm tay thằng bé.

- Này, Kubus! Đi vào phòng ngủ!...

Mọi người vây quanh họ, người nọ che lấp người kia, đẩy nhau về phía tấm rèm đỏ tía. Họ biết ông già Do Thái này đã từ lâu, ông ta luôn là người biết điều, tốt bụng. Sau đám đàn bà, các cư dân sống trong chung cư nhỏ này cũng bắt đầu len vào. Căn phòng chật ních người.

Ông Mười Lăm một tay tì lên vai đứa bé, tay kia đẩy đám phụ nữ. Ông đã hoàn toàn tỉnh táo trong giây phút này.

- Bà Janowa hãy để yên nào! - Ông nói bằng giọng cứng rắn, âm vang như tiếng chuông - Mọi người hãy để yên nào! Tôi cảm ơn các người, bởi các người muốn ban điều thiêng liêng cho tôi, muốn làm cho tôi vui, nhưng tôi không muốn đặt cây thánh giá trên cửa sổ của mình! Tôi không muốn hổ thẹn vì mình là người Do Thái. Tôi không muốn sợ hãi! Nếu họ không có trong mình lòng nhân từ