← Quay lại trang sách

NGƯỜI GÁC ĐÈN BIỂN

Câu chuyện này dựa theo trường hợp có thực mà vào thời đó; J. Horain đã kể lại trong một bức thư của ông gửi về từ Mĩ.

⚝ 1 ⚝

Có lần đã xảy ra trường hợp là người gác đèn biển ở Aspinwall, cách Panama không xa, biến mất mà không để lại tin tức gì. Vì chuyện đó xảy ra trong giông bão, nên người ta cho rằng kẻ bất hạnh phải đi đến tận mép bờ đảo đá, nơi có cây đèn biển và đã bị làn sóng lớn cuốn trôi. Giả thuyết đó càng tỏ ra thuyết phục khi ngày hôm sau, người ta không tìm thấy con thuyền của ông ta vẫn neo trong hẻm đá. Lúc bấy giờ, vị trí của người gác đèn biển bị bỏ trống và cần tìm người thay vào đó càng nhanh càng tốt, do cây đèn biển có ý nghĩa không nhỏ, đối với việc đi lại của địa phương, cũng như đối với các tàu biển đi từ New York tới Panama. Vịnh Muỗi nổi tiếng vì có nhiều cồn cát ngầm và đụn cát, đường đi giữa chúng ngay cả vào ban ngày cũng đã khó khăn, còn về ban đêm, đặc biệt giữa làn sương mù thường xuyên dâng cao trên vùng nước bị mặt trời nhiệt đới sưởi nóng thì gần như không thể qua nổi. Tín hiệu dẫn đường duy nhất đối với hàng loạt tàu thuyền thường là ánh sáng của cây đèn biển.

Nỗi lo phải tìm được người gác đèn biển mới đổ lên đầu vị lãnh sự Hợp chúng quốc Hoa Kì đóng trụ sở tại Panama, và đó là nỗi lo không nhỏ, một là vì dứt khoát phải tìm được người thay thế trong vòng mười hai tiếng đồng hồ; hai nữa, người thay thế phải là người cực kì tận tâm, cho nên không thể nhận kẻ bất kì nào; và cuối cùng là thực ra không có người nào ứng cử vào vị trí đó cả. Cuộc sống trên tháp hết sức khó khăn và ít nhất cũng không mỉm cười đối với những con người phương Nam vốn chây lười và yêu thích cuộc sống lêu lổng tự do. Cây đèn biển gần như là tù ngục. Trừ những ngày Chủ nhật, hắn ta hoàn toàn không thể rời khỏi hòn đảo đá của mình. Mỗi ngày một lần, con thuyền từ Aspinwall chở đến cho hắn lượng dự trữ thực phẩm và nước ngọt, sau đó những người vận chuyển lập tức rời xa, trên hòn đảo rộng khoảng một morga* này không còn một người nào. Người gác đèn sống ở chỗ cây đèn biển, trông coi nó; ban ngày đưa ra tín hiệu bằng cách treo những lá cờ màu sắc khác nhau theo kim chỉ của phong vũ biểu, còn ban đêm thì thắp sáng đèn. Đó không phải là công việc nặng nhọc, trừ chuyện muốn từ dưới đất leo lên đến đỉnh tháp phải đi qua bốn trăm bậc thang vừa xoắn ốc vừa rất cao, mà người gác đèn biển phải thực hiện cuộc hành trình đó đôi lúc vài lần trong một ngày. Nói chung, đó là cuộc sống tu hành, thậm chí còn hơn cả tu hành, vì đó là nhà tu kín. Vì vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi ông Izaak Falconbridge rơi vào tình trạng hết sức lo lắng, tìm đâu được người thay thế cho kẻ bạc mệnh, và cũng dễ dàng hiểu được niềm vui mừng của ông ta, khi bất thình lình có người đến trình diện xin việc ngay trong ngày hôm ấy. Đó là một người đã khá già, khoảng bảy mươi tuổi hoặc hơn một chút, nhưng rắn chắc, cao lớn, nhanh nhẹn và có vóc dáng người lính. Tóc ông ta trắng phau, da bánh mật, giống như người lai da đen, song căn cứ vào màu xanh của đôi mắt thì đoán biết ông ta không phải người phương Nam. Khuôn mặt ông có vẻ chán nản và buồn rầu, nhưng nhân hậu. Mới thoáng nhìn, Falconbridge đã cảm thấy thích. Chỉ còn lại việc kiểm tra, do đó đã có cuộc nói chuyện sau đây:

Morga: đơn vị diện tích bằng khoảng 5600 mét vuông (ND).

- Ông từ đâu tới?

- Tôi là người Ba Lan.

- Cho tới nay ông đã từng làm việc gì rồi?

- Tôi sống tha phương.

- Người gác đèn biển phải thích ngồi yên một chỗ.

- Tôi cần nghỉ ngơi.

- Ông đã phục vụ trong quân ngũ bao giờ chưa? Ông có giấy tờ gì xác nhận đã phục vụ một cách lương thiện công việc của Chính phủ?

Ông già lôi từ túi áo ngực ra một gói vải lụa đã phai màu trông giống như mảnh cờ đuôi nheo cũ. Ông mở ra và nói:

- Đây là những chứng chỉ. Huy chương chữ thập này tôi nhận được năm ba mươi. Cái thứ hai của Tây Ban Nha từ cuộc chiến ở Carlista; cái thứ ba là Lê dương Pháp; cái thứ tư tôi nhận được ở Hungary. Sau đó, tôi đánh nhau ở Hợp chúng quốc chống lại bọn phương Nam, nhưng ở đó người ta không tặng huy chương - vì vậy đây là giấy chứng nhận.

Falconbridge cầm tờ giấy lên và bắt đầu đọc.

- Hừm! Skawinski à? Đây là họ của ông ư?... Hừm!... Chính tay ông đoạt được hai lá cờ đuôi nheo trong trận đánh giáp lá cà... Ông từng là một dũng sĩ!

- Tôi cũng có thể trở thành một người gác đèn biển tận tâm.

- Ở đó mỗi ngày phải leo lên tháp vài lần. Chân ông có khỏe không?

- Tôi đã đi bộ khi bị bắt làm “tù binh”.

- All right! Ông có quen với công việc trên biển hay không?

- Tôi đã làm việc ba năm trên tàu săn cá voi.

- Ông đã thử làm nhiều nghề khác nhau rồi à?

- Chỉ có điều tôi chưa được nếm trải sự yên tĩnh.

- Tại sao vậy?

Ông già nhún vai.

- Số phận như vậy...

- Mặc dù vậy, đối với một người gác đèn biển tôi nghĩ là ông hơi già.

- Sir, - bỗng nhiên người xin việc lên tiếng bằng giọng xúc động - tôi rất buồn và lo lắng. Như ông thấy đấy, tôi đã trải qua nhiều việc làm. Vị trí này là một trong những công việc mà tôi mong muốn nhận được nhất. Tôi già rồi, tôi cần sự yên tĩnh! Tôi phải nói với mình rằng: Mi phải ngồi lại đây, đây là bến đỗ của mi. Ôi, thưa ngài! Điều này chỉ phụ thuộc vào ngài. Chỗ làm ấy có thể không còn lần thứ hai. Thật là may mắn vì tôi đã có mặt ở Panama... Tôi cầu xin ngài... Quả là Chúa yêu thương tôi, tôi như một con tàu, nếu không ghé vào cảng thì sẽ chìm... Nếu như ngài muốn làm cho một người già được hạnh phúc... Tôi thề rằng tôi là người lương thiện, song... tôi đã chán ngấy cuộc sống tha phương này rồi...

Đôi mắt xanh của ông già biểu lộ lời khẩn cầu chân thành đến mức Falconbridge, kẻ vốn có trái tim nhân từ và ngay thẳng, cảm thấy xúc động.

- Well! - Ông ta nói - Tôi nhận ông. Ông là người gác đèn biển.

Khuôn mặt ông già giãn hẳn ra bởi niềm vui không nói nên lời.

- Tôi xin cảm ơn.

- Ngày hôm nay ông có thể đi ra tháp được không?

- Vâng, được ạ.

- Vậy thì good bye !... Thêm một câu nữa: Chỉ cần một lần sai phạm là ông sẽ bị mất việc.

- All right!

Ngay tối hôm đó, khi mặt trời lặn xuống phía bên kia eo đất, và sau một ngày đầy nắng, màn đêm buông xuống không ánh hoàng hôn, người gác đèn biển mới rõ ràng đã đến địa điểm, vì cây đèn biển như thường lệ đã tỏa xuống nước luồng ánh sáng chói ngời của mình. Đêm hoàn toàn yên tĩnh, êm đềm, đúng thực là đêm nhiệt đới, ngập tràn những làn mây trắng, tạo một đường tròn lớn màu sắc cầu vồng quanh mặt trăng với mép viền mềm mại nhạt nhòa. Chỉ có biển là sôi sục, vì thủy triều đang lên. Ông Skawinski đứng trên ban công, ngay bên cạnh ngọn đèn lớn, ở phía dưới nhìn lên trông giống như một điểm đen nhỏ bé. Ông ta đang cố gắng tập trung suy nghĩ để thấu hiểu vị trí mới của mình. Nhưng ý nghĩ của ông bị quá nhiều sức ép không thể tập trung được. Ông cảm thấy một điều gì đó giống như con thú bị xua đuổi cảm nhận được cuối cùng nó cũng tìm được chỗ ẩn nấp trước cuộc săn đuổi tại một tảng đá hoặc hang động không ai đi đến được. Cuối cùng thì thời điểm yên bình đã đến với ông. Cảm giác an toàn đã lấp đầy tâm hồn ông bằng một khoái cảm khó nói nên lời. Bây giờ đây, trên tảng đá này, ông có thể miệt thị cuộc sống tha phương xưa kia, những nỗi bất hạnh và thất bại xưa kia. Ông thực sự giống như con tàu mà bão táp đã đánh hỏng cột buồm, làm đứt dây chằng, cánh buồm đã bị bão quật từ trên mây xuống đáy biển, bão đã táp sóng vào, nhổ bọt vào - nhưng con tàu đó đã ghé được vào cảng. Những hình ảnh của cơn bão ấy giờ đây đang lướt nhanh trong tâm trí ông, trái hẳn với tương lai yên tĩnh bắt đầu có được từ giây phút này.

Một phần các trình tự lạ lùng của cuộc đời mình ông đã kể cho Falconbridge nghe, tuy vậy, ông không nhắc đến hàng ngàn cuộc phiêu lưu khác. Ông gặp chuyện bất hạnh, biết bao nhiêu lần ông đã từng cắm trại và nhóm bếp lửa ở đâu đó để sống cuộc sống định cư, nhưng một cơn gió lại nhổ phăng cọc trại, thổi tắt ngọn lửa, còn bản thân ông thì bị cuốn trôi đi. Bây giờ, khi nhìn từ ban công tháp xuống những con sóng biển sáng long lanh, ông nhớ về những chuyện đã trải qua. Ông từng bôn ba chinh chiến khắp bốn phần của thế giới - và đã thử sức mình hầu như với mọi nghề nghiệp trong cuộc sống tha phương, cần cù và lương thiện, nhiều lần kiếm được kha khá và luôn đánh mất nó mặc dù đã lường trước và hết sức giữ gìn. Ông là thợ đào vàng ở Úc, thợ tìm kim cương ở châu Phi, xạ thủ của chính phủ ở Đông Ấn. Có lúc ông lập trang trại ở California, hạn hán đã tiêu hủy nó; ông thử buôn bán với những bộ tộc hoang dã sống ở Brazil, bè hàng của ông bị vỡ trên sông Amazon, bản thân ông không vũ khí và không mảnh vải che thân đi lang thang trong rừng mấy tuần liền, sống bằng quả dại, từng phút từng giây bị cái chết đe dọa trong rừng sâu đầy mãnh thú hung dữ. Ông lập xưởng rèn ở Helena, bang Arkansas, xưởng bị cháy trụi trong cơn hỏa hoạn lớn trên toàn thành phố. Tiếp đó, trên dãy Thạch Sơn ông rơi vào tay bọn da đỏ và chỉ nhờ vào phép nhiệm màu mới được các xạ thủ Canada giải thoát. Ông làm thủy thủ trên tàu đi lại giữa Bahia và Bordeaux, sau đó làm thợ xỉa lao trên tàu săn cá voi: cả hai tàu đều bị chìm. Ông có nhà máy thuốc lá xì gà ở Havana, nhà máy bị tên chung vốn làm ăn đánh cắp trong lúc bản thân ông bị sốt rét nằm liệt trên giường. Cuối cùng, ông đến Aspinwall - và đây sẽ là nơi chấm dứt mọi nỗi thăng trầm của ông. Cái gì còn có thể xảy đến với ông trên hòn đảo đá nhỏ bé này nữa chứ? Không nước, không lửa, không người. Thực ra, ông Skawinski không gánh chịu nhiều rủi ro từ phía con người. Ông thường gặp người tốt nhiều hơn kẻ xấu.

Ngược lại, hình như là cả bốn thứ thiên tai đều truy quét ông. Những người biết ông đều nói rằng ông không gặp may mắn và họ dùng điều đó giải thích cho mọi thứ. Cuối cùng, chính bản thân ông cũng trở nên hơi cuồng tín. Ông tin rằng có một bàn tay mạnh mẽ và thù hận nào đó luôn tìm kiếm ông ở mọi nơi, ở tất cả các lục địa và biển khơi. Tuy nhiên, ông không thích nói đến điều đó; chỉ đôi lúc, khi người ta hỏi ông rằng bàn tay đó là của ai, ông chỉ lên ngôi sao Bắc Đẩu với vẻ bí ẩn và kể rằng điều đó đến từ đấy... Đúng rồi, những rủi ro của ông xảy ra thường xuyên đến mức thật kì lạ và những điều không may ấy có thể dễ dàng đóng đinh vào đầu, đặc biệt đối với người gặp phải nó. Cũng may ông có sự kiên nhẫn của một người da đỏ và sức phản kháng bình thản thật lớn lao, sức mạnh đó xuất phát từ sự trung thực của con tim. Trong thời gian ở Hungary, ông đã bị đâm mười mấy nhát lưỡi lê vào mình, vì không muốn cầm cái bàn đạp ở yên ngựa mà người ta chỉ cho làm phương tiện chống đỡ và kêu xin tha tội. Ông cũng không chịu đầu hàng cả nỗi bất hạnh nữa. Ông bò lên núi cần mẫn như con kiến. Một trăm lần bị đẩy lùi, song ông vẫn bình thản bắt đầu lại cuộc hành trình của mình lần thứ một trăm lẻ một. Đó là con người kì lạ đặc biệt hiếm thấy. Người lính già ấy, tắm mình trong những ngọn lửa như thế nào chỉ có Chúa mới biết, được tôi luyện trong khổ đau, bị đánh đập và rèn giũa, nhưng luôn có trái tim của một trẻ thơ. Trong thời gian bệnh dịch hoành hành ở Cuba, ông bị lây bệnh là do đã đưa cho bệnh nhân toàn bộ số thuốc kháng sinh của mình, số thuốc khá lớn mà ông dự trữ, không để lại cho mình một gam nào.

Trong con người ông ta còn một điều kì lạ nữa, là sau bao nhiêu lần bị lừa dối như vậy, ông vẫn luôn đầy ắp lòng tin và không đánh mất hi vọng rằng tất cả mọi thứ rồi sẽ tốt đẹp. Vào mùa đông, ông luôn tỏ ra sôi nổi và dự đoán về những trường hợp lớn lao sẽ xảy ra. Ông nhẫn nại chờ đợi nó và bằng ý nghĩ về nó, ông sống hàng năm dài đằng đẵng... Nhưng mùa đông trôi qua hết lần này đến lần khác và ông Skawinski chỉ chờ được một điều là đầu ông đã bạc trắng. Cuối cùng, ông cũng đã già - ông bắt đầu mất năng lượng. Lòng kiên nhẫn của ông bắt đầu càng lúc càng mất dần. Sự bình yên xưa kia biến thành một thứ gì đó có khuynh hướng dễ lung lay và người lính được rèn luyện kia bắt đầu biến thành kẻ hay khóc, sẵn sàng chảy nước mắt vì một lí do vớ vẩn. Ngoài ra, thỉnh thoảng trong ông, nỗi nhớ quê hương xứ sở đến quặn đau lại vỡ òa, chỉ cần một tình huống bất chợt nào cũng có thể kích động: thấy đàn chim én, những chú chim màu tro giống như chim sẻ, tuyết trên núi hoặc một nốt nhạc chợt nghe được giống với những nốt nhạc đã từng nghe xưa kia...

Cuối cùng, chỉ còn một ý nghĩ chế ngự ông: ý nghĩ được yên nghỉ. Ý nghĩ đó chế ngự ông già hoàn toàn và hút vào đó toàn bộ những niềm mong ước và hi vọng khác. Con người luôn sống tha phương không thể mơ ước cho mình điều gì thèm khát hơn, quý giá hơn là một góc khuất yên bình, tại đó ông có thể nghỉ ngơi và lặng lẽ đợi chờ cái chết. Cũng có thể chính vì thế nên một sự khó hiểu đặc biệt của số phận đã quăng quật ông trên các đại dương và đất nước đến nỗi gần như ông không còn kịp thở, ông mường tượng rằng điều hạnh phúc lớn lao nhất của con người là chỉ cần không phải sống tha phương. Đúng ra là ông cũng đáng được hưởng niềm hạnh phúc nhỏ nhoi đó, song ông đã quen với những nỗi thất vọng đến mức nghĩ về điều đó như người ta mơ ước về một cái gì không thể vươn tới được. Ông không dám mong đợi. Đột nhiên, trong vòng mười hai tiếng đồng hồ, ông nhận được công việc giống như đã lựa chọn cho mình từ tất cả mọi thứ có được trên thế giới này. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi thắp sáng ngọn đèn biển vào buổi tối, ông đã cảm thấy choáng váng đến mức phải tự hỏi đây có phải là sự thật hay không và không dám nói rằng đúng là như vậy. Sự thật đã truyền đạt đến ông những bằng chứng không thể phủ nhận được; vậy là hết giờ này đến giờ khác trôi qua với ông trên ban công.

Ông nhìn, thỏa thích nhìn, và tự thuyết phục mình. Cũng có thể tưởng rằng đây là lần đầu tiên trong đời ông nhìn thấy biển, vì tiếng chuông 12 giờ đêm đã điểm trên đồng hồ ở Aspinwall, còn ông vẫn không rời điểm cao trong không gian của mình - và ông nhìn. Ở phía dưới chân ông, biển vẫn đang trào sóng. Thấu kính của cây đèn biển hắt vào màn đêm chùm sáng chói lòa, mắt ông già chìm vào miền xa thẳm đen ngòm dày đặc, bí ẩn và đáng sợ ngoài chùm sáng ấy. Nhưng miền xa thẳm ấy có lẽ kéo dài về hướng ánh sáng. Những làn sóng dài hàng dặm nổi lên từ trong màn đêm và vừa gào thét vừa kéo đến tận mép đảo, lúc đó nhìn rõ cả những chỏm sóng đầy bọt lấp lánh hồng hồng trong ánh sáng đèn biển. Thủy triều dâng lên mỗi lúc một cao và tràn ngập cồn cát ngầm. Tiếng nói bí mật của đại dương vọng đến mỗi lúc một mạnh mẽ và rõ ràng hơn, đôi khi giống như tiếng đại bác nổ, có khi giống tiếng thét gào của những khu rừng lớn, có lúc lại giống tiếng ồn ào xa thẳm của giọng người vẳng đến. Đôi khi lại im lặng. Sau đó, vọng đến tai ông già tiếng thở dài thật lớn, rồi tiếng khóc nức nở - và tiếp đến những tiếng nổ dữ tợn. Cuối cùng, gió xua tan sương mù, nhưng lại thổi đến những đám mây đen rách bươm, che khuất mặt trăng. Từ phía tây, gió thổi mỗi lúc một mạnh lên. Những làn sóng lớn điên cuồng chồm lên ghềnh đá của cây đèn biển, phủ bọt đến tận chân tường. Ở phía xa, bão đang gầm gừ. Giữa không gian đen ngòm đầy sóng gió lóe lên vài ánh đèn xanh ngắt treo trên cột buồm các con tàu. Những điểm sáng xanh nọ có lúc dâng lên cao, có lúc chìm xuống thấp, có lúc lắc lư sang phải sang trái.

Ông Skawinski đi xuống phòng mình. Bão bắt đầu gào thét, ở đó, phía ngoài trời, mọi người trên những con tàu kia đang chống chọi với màn đêm, với bóng tối, với sóng; còn trong căn phòng này thì yên tĩnh và câm lặng. Thậm chí tiếng vọng của bão cũng chỉ thấm qua những bức tường dày một cách yếu ớt và chỉ nghe thấy tiếng đồng hồ kêu tích tắc! Tiếng đồng hồ như đang ru ông già mỏi mệt vào giấc ngủ.

⚝ 2 ⚝

Thời gian bắt đầu trôi, từng giờ, từng ngày và từng tuần... Những người thủy thủ khẳng định rằng đôi lúc, khi biển gầm thét rất lớn là lúc biển gọi tên họ giữa màn đêm và bóng tối. Nếu như biển mênh mang vô tận có thể lên tiếng gọi như vậy, thì có lẽ khi con người trở nên già nua cũng có cái gì đó lớn mênh mông vô tận khác, đen tối hơn và bí mật hơn lên tiếng gọi ông ta, và càng mệt mỏi vì cuộc sống bao nhiêu thì những tiếng gọi ấy càng đáng yêu hơn bấy nhiêu. Nhưng, để nghe thấy chúng cần sự tĩnh lặng. Ngoài ra, sự già nua thích cô lập giống như dự cảm nhà mồ. Cây đèn biển đối với ông Skawinski là một nửa nhà mồ như vậy. Không có gì đơn điệu hơn cuộc sống ở trên tháp. Những người trẻ tuổi, nếu như chấp thuận cuộc sống ấy thì sau một thời gian sẽ từ bỏ nhiệm vụ. Người gác đèn biển thông thường là người đứng tuổi, buồn rầu và khép kín. Khi tình cờ rời bỏ cây đèn của mình và rơi vào giữa mọi người, hắn ta sẽ đi lại giữa họ như một người chợt bừng tỉnh từ giấc ngủ sâu. Trên tháp không có các ấn tượng nhỏ bé, thứ mà trong cuộc sống thường ngày dạy ta thích ứng với nó. Mọi điều mà người gác đèn biển tiếp xúc đều lớn lao và không có hình dạng rõ rệt nhất định. Bầu trời - đó là một tổng thể, nước - đó là tổng thể thứ hai, còn giữa những cái vô tận ấy là tâm hồn cô đơn của con người! Đấy là cuộc sống, trong đó ý nghĩ dường như chỉ là một sự đăm chiêu liên tục, và từ trong chuỗi đăm chiêu đó không có gì đánh thức được người gác đèn biển, thậm chí kể cả các công việc của ông ta. Ngày này giống ngày khác như hai giọt nước và có lẽ chỉ có những thay đổi thời tiết là sự đa dạng duy nhất.

Tuy nhiên, ông Skawinski cảm thấy hạnh phúc đến mức chưa từng thấy trong cuộc đời. Buổi sáng thức dậy, ông ăn sáng, lau thấu kính của cây đèn biển, rồi ngồi xuống ban công, ngắm nhìn về phía biển xa và mắt ông không bao giờ có thể thỏa mãn trước những bức tranh hiện ra trước mặt mình. Thông thường, trên nền ngọc lam rộng lớn nhìn thấy hàng loạt cánh buồm rộng mở lấp lánh trong ánh mặt trời chói lọi đến nỗi mắt phải chớp lia lịa; đôi khi những con tàu lợi dụng sức gió, gọi là gió mậu dịch, nối đuôi nhau thành mũi tên giống như đàn chim hải âu hay đàn sếu đang bay. Những chiếc thùng phi chỉ đường màu đỏ lắc lư trên làn sóng chuyển động nhẹ nhịp nhàng; giữa các cánh buồm mỗi ngày lại xuất hiện giữa trưa một làn khói lớn màu đen thẫm. Đó là con tàu chạy bằng hơi nước đi từ New York chở hành khách và hàng hóa đến Aspinwall, kéo theo phía sau mình một đường dài đầy bọt. Từ phía kia của ban công, ông Skawinski nhìn rõ như trên lòng bàn tay thành phố Aspinwall và khu cảng tấp nập hoạt động của nó, còn trong đó là cả rừng cột buồm, thuyền lớn, thuyền nhỏ; xa hơn một chút là những căn nhà trắng và các ngôi tháp nhỏ của thành phố. Từ trên tháp cao của cây đèn biển, các ngôi nhà trông giống như tổ của lũ chim hải âu, các con thuyền như con bọ hung, còn con người chuyển động giống như những điểm trắng di động trên đại lộ làm bằng đá trắng. Từ sáng sớm, cơn gió đông thổi nhẹ mang tới tiếng ồn ào hỗn độn của cuộc sống con người, trong đó nổi bật lên là tiếng còi tàu thủy chạy bằng hơi nước. Giờ ngọ là giờ nghỉ trưa. Hoạt động của cảng tạm ngừng; hải âu ẩn mình ở các kẽ đá, sóng yếu hẳn đi và trở nên lười nhác, còn trên đất liền, trên biển và trên cây đèn biển có thể bắt gặp phút giây tĩnh lặng không bị cái gì quấy rầy. Dải cát vàng mà sóng bỏ lại tạo nên những vệt vàng lấp lánh trên các vùng nước; cột cao của tháp nổi lên sừng sững trong màu xanh da trời. Những dòng tia sáng mặt trời chảy tràn từ bầu trời xuống mặt nước, xuống cát và ghềnh đá hiểm trở.

Lúc bấy giờ, cả ông già cũng bị một sự bất lực đầy ngọt ngào chế ngự. Ông cảm thấy sự nghỉ ngơi mà mình đang được hưởng này thật đúng là tuyệt vời, và khi nghĩ rằng nó sẽ kéo dài lâu bền thì ông không còn thấy thiếu thốn cái gì nữa. Ông Skawinski mơ ước về niềm hạnh phúc của chính mình, nhưng vì con người dễ làm quen với số phận tốt hơn, ông dần dần nuôi dưỡng niềm tin và sự tin cậy, vì ông nghĩ rằng nếu như con người xây dựng những ngôi nhà cho kẻ tàn tật, thì tại sao Chúa trời không che chở cho những kẻ tàn tật của mình? Thời gian cứ trôi đi và định hình ông trong niềm tin đó. Ông già quen dần với ngọn tháp, với cây đèn biển, với ghềnh đá hiểm trở, với những cồn cát ngầm và với sự cô đơn. Ông cũng làm quen cả với những con chim hải âu thập thò trên những tảng đá nhọn, còn buổi tối chúng tụ tập cả đàn trên nóc cây đèn biển. Ông Skawinski thường ném cho chúng những mẩu thức ăn thừa của mình, vì thế về sau chúng nhanh chóng hiểu ra, khi ông làm việc này thì cả rừng cánh trắng bao bọc xung quanh, còn ông già thì đi đi lại lại giữa đàn chim như người chăn gia súc đi giữa bầy cừu. Khi thủy triều rút, ông chuyển đến đứng ở những cồn cát thấp, lượm được những con ốc sên ngon lành và những vỏ sò, ốc, trai rất đẹp mà sóng biển rút đi để lại trên cát. Ban đêm, nhờ ánh trăng và cây đèn biển, ông đi bắt những con cá nằm đầy rẫy trong các khe đá. Cuối cùng, ông yêu thích những khối đá và hòn đảo nhỏ không cây cối của mình, nơi chỉ có những loài thực vật nhỏ bé phủ đầy lớp dầu mỡ nhầy nhớt. Hơn nữa, sự nghèo nàn của hòn đảo đã thưởng cho ông những quang cảnh ở phía đằng xa. Trong những giờ buổi chiều, khi bầu khí quyển trở nên trong suốt, có thể nhìn thấy cả eo đất, cho đến tận Thái Bình Dương, phủ bên trên là lớp cây cối mọc hết sức um tùm. Ông Skawinski có cảm giác như nhìn thấy một vườn cây cực lớn. Những cụm dừa và các khóm chuối khổng lồ ở ngay phía sau các căn nhà của Aspinwall đan xen vào nhau như tạo nên những đĩa hoa quả thơm ngát ngon lành. Xa hơn, giữa Aspinwall và Panama nhìn thấy cánh rừng khổng lồ, trên đó mỗi buổi bình minh và lúc hoàng hôn, một làn sương mù màu đỏ thắm bốc lên treo lơ lửng - khu rừng là rừng nhiệt đới đích thực, phía dưới đọng đầy nước, dây leo chằng chịt, làn sóng phong lan, cọ, vú sữa, gỗ quý và cao su luôn rì rào.

Qua ống kính viễn vọng chuyên dụng của mình, ông già có thể phát hiện không chỉ cây cối, không chỉ những tầu lá chuối trải rộng mà thậm chí cả những bầy khỉ, những con hạc lớn và đàn vẹt thỉnh thoảng hiện lên bên trên cánh rừng như đám mây ngũ sắc. Ông Skawinski biết tường tận những cánh rừng như vậy, vì sau khi bè đắm trên sông Amazon, ông đã lạc hàng tuần liền giữa những dây leo và bụi rậm. Ông biết ở phía dưới bề mặt đẹp đẽ và rác rưởi của khu rừng ẩn chứa bao nhiêu hiểm nguy và chết chóc. Giữa những đêm dài mà ông trải qua, ông đã nghe thấy những giọng nói đầy chết chóc của khỉ mũi rộng và tiếng gầm của báo thật gần, nhìn thấy những con trăn khổng lồ đung đưa như những sợi dây vắt vẻo trên cây; biết những hồ nước trong rừng như mơ ngủ mà đầy cá chình điện và cá sấu. Ông biết con người sống kinh khủng như thế nào trong những khu rừng rậm nông choèn, nơi từng chiếc lá đơn chiếc có thể nhấc bổng vật nặng gấp mười lần mình, trong đó nhung nhúc những con muỗi hút máu, những con vắt trên cành cây và những con nhện độc khổng lồ. Chính ông đã cảm nhận được, chính ông đã trải qua, chính ông đã chịu đựng tất cả mọi chuyện; vì vậy bây giờ chúng càng mang lại cho ông niềm khoái cảm được nhìn từ trên cao khu rừng cận xích đạo đó, được thưởng thức cái đẹp của nó, mà lại được che chở trước mọi bất trắc.

Tháp của ông bảo vệ ông trước mọi sự rủi ro. Ông chỉ rời xa nó đôi khi vào buổi sáng Chủ nhật. Lúc bấy giờ, ông mặc chiếc áo choàng màu tím than của người gác với hàng khuy bạc, trên ngực đeo huy chương chữ thập của mình và cái đầu tóc trắng ngẩng cao với niềm tự hào, khi bên cạnh lối vào nhà thờ nghe thấy những người lai da đen nói với nhau: “Chúng ta có một người gác đèn biển lương thiện”. - “Và không phải là người theo tà giáo, mặc dù là một gã người Mĩ!” Sau buổi lễ cầu kinh, ông lập tức trở về đảo với cảm giác hạnh phúc, bởi ông luôn luôn không tin vào đất liền. Ngày Chủ nhật ông cũng đọc tờ báo Tây Ban Nha mà ông mua trong thành phố hoặc tờ Herald của New York ông mượn ở chỗ Falconbridge - và ông hấp tấp tìm trong đó những tin tức từ châu Âu. Ôi trái tim già khốn khổ! Trên đảo canh này và ở nửa bên kia bán cầu trái tim đó vẫn hướng về quê hương...

Đôi khi cũng xảy ra trường hợp, khi con thuyền hằng ngày chở thực phẩm và nước ra cho ông cập bến vào hòn đảo nhỏ, từ trên tháp ông lần xuống dưới để nói dăm ba câu với người lính gác tên John. Nhưng về sau, rõ ràng là ông trở nên hoang dã. Ông thôi không đi vào thành phố, không đọc báo chí và không xuống mạn đàm chính trị với John nữa. Hàng mấy tuần liền trôi qua như vậy, không ai nhìn thấy ông và ông cũng không nhìn thấy ai cả. Dấu hiệu duy nhất để biết ông còn sống là sự biến mất của số thực phẩm để trên bờ và ánh sáng ngọn đèn biển thắp vào mỗi buổi tối với độ đều đặn giống như mặt trời từ dưới nước nhô lên mỗi buổi sáng ở những vùng đất ấy. Ông già cảm thấy dửng dưng đối với thế giới. Nguyên nhân của tình trạng đó không phải là nỗi nhớ quê hương xứ sở mà là vì nỗi nhớ đó đã trôi qua, thậm chí cố tình bị chối bỏ. Giờ đây, cả thế giới đối với ông già bắt đầu và cũng kết thúc ngay trên hòn đảo nhỏ của ông. Ông quen dần với ý nghĩ rằng cho đến chết sẽ không rời ngọn tháp, và đơn giản là ông quên mất còn có một cái gì nữa tồn tại ngoài hòn đảo. Hơn nữa, ông trở thành kẻ mê tín. Đôi mắt màu xanh da trời hiền dịu của ông bắt đầu giống mắt trẻ thơ, luôn ngơ ngác và như đắm đuối vào miền xa thẳm nào đó. Trong cảnh cô đơn triền miên và đứng trước môi trường xung quanh hết sức đơn sơ, rộng lớn, ông già bắt đầu đánh mất cảm giác khác biệt của bản thân, không còn tồn tại như một cá thể, mà hòa mình ngày càng nhiều vào những thứ bao bọc quanh ông. Ông không suy nghĩ gì về điều đó, chỉ cảm thấy một cách vô thức, nhưng cuối cùng ông cũng cho rằng, cả bầu trời, mặt nước, hòn đảo đá của ông, ngọn tháp và những cồn cát vàng óng, những cánh buồm rộng mở, những con chim hải âu, thủy triều lên và xuống là một khối thống nhất vĩ đại duy nhất, một linh hồn bao la bí ẩn; còn ông đắm chìm vào linh hồn bí ẩn đó và cảm nhận được linh hồn đó, linh hồn đang sống và làm ta trấn tĩnh. Ông đắm chìm, mơ màng, ghi nhớ - và trong giới hạn cuộc sống riêng tư của mình, trong cảm giác nửa tỉnh nửa mơ, ông tìm được sự bình yên lớn lao đến mức gần như đang đến với nửa cái chết.

⚝ 3 ⚝

Nhưng sự thức tỉnh cũng xuất hiện.

Một lần, khi chiếc thuyền chở nước và dự trữ thực phẩm đến, sau một tiếng đồng hồ từ trên tháp Skawinski đi xuống, ông phát hiện ra rằng ngoài lượng hàng thông thường còn có thêm một gói nữa. Trên mặt gói có dấu bưu điện Hợp chúng quốc Hoa Kì và địa chỉ rõ ràng “Skawinski Esq.*” viết trên tấm vải bố dày. Vô cùng ngạc nhiên, ông già rọc ngay lớp vải và nhìn thấy những quyển sách. Ông cầm một cuốn lên tay, ngắm nghía và để trở lại, hai bàn tay ông bắt đầu run rẩy mạnh. Ông che mắt lại, như thể không tin vào chúng nữa; ông có cảm giác như mình mơ ngủ - cuốn sách ấy là sách Ba Lan. Điều này có nghĩa là thế nào? Ai có thể gửi sách đến cho ông? Trong giây phút đầu tiên, rõ ràng ông đã quên là ngay từ khi mới khởi nghiệp đèn biển của mình có lần ông đã đọc trong tờ Herald mượn ở chỗ lãnh sự về việc thành lập Hội Ba Lan ở New York và ngay sau đó ông đã gửi cho Hội một nửa số tiền lương tháng của mình, số tiền mà thực ra ông không biết dùng để làm gì trên tháp. Để tỏ lòng biết ơn ông, Hội đã gửi tặng sách. Những cuốn sách ấy đã đến theo con đường tự nhiên, nhưng ở giây phút đầu tiên ông già không thể nhận ra điều ấy. Những quyển sách Ba Lan ở Aspinwall, trên tháp của ông, giữa sự cô đơn của ông, đối với ông đó là một cái gì đó khác thường, một hơi thở của những ngày tháng quá khứ, một phép màu nào đó. Giờ đây ông cảm thấy giống như những thủy thủ nọ giữa đêm đen, rằng có cái gì đó đang gọi tên mình bằng một giọng vô cùng trìu mến, mà gần như đã bị lãng quên. Ông nhắm mắt lại ngồi trong giây lát và gần như tin chắc rằng khi mở mắt ra giấc mơ sẽ biến mất. Không! Gói bưu phẩm đã mở vẫn hiện ra lồ lộ ngay trước mặt ông, rực sáng trong ánh nắng chiều, còn trên gói ấy là một quyển sách đã mở. Khi đưa tay chạm vào nó một lần nữa, ông nghe giữa sự tĩnh lặng tiếng đập của chính trái tim mình. Ông nhìn: đó là một tập thơ. Ở trang bìa, tên sách được viết bằng những chữ cái lớn, còn ở phía dưới là tên tác giả. Tên này đối với Skawinski không còn xa lạ; ông đã thấy đó là của một nhà thơ vĩ đại, nhà thơ mà các tác phẩm của ông ta ông đã đọc từ sau năm ba mươi ở Paris. Sau đó khi đánh nhau ở Algeria và Tây Ban Nha, ông đã nghe những người đồng hương kể về tiếng tăm ngày càng nổi hơn của nhà thơ vĩ đại đó, nhưng lúc bấy giờ ông đã quen với khẩu súng trường đến mức không cầm quyển sách nào lên tay nữa. Năm bốn mươi chín, ông đi đến châu Mĩ và trong cuộc sống phiêu lưu mà ông trải nghiệm, gần như ông không gặp người Ba Lan, và không bao giờ gặp sách Ba Lan nữa. Vì vậy, ông càng tỏ ra vội vàng hơn và với nhịp tim đập càng mạnh hơn, ông lật giở trang bìa.

Esq. là viết tắt của esquire: Ông, ngài, thường đề ngoài bì thư sau tên họ của người nhận (ND).

Bây giờ, ông cảm thấy rằng trên hòn đảo đá đơn côi của ông bắt đầu có một cái gì đó trịnh trọng đang xảy ra. Đây là giây phút bình yên và tĩnh lặng lớn lao kì diệu. Đồng hồ ở Aspinwall điểm chuông năm giờ chiều. Bầu trời sáng sủa không bị bất cứ đám mây nào che phủ, chỉ vài con hải âu chấp chới giữa bầu trời xanh ngắt. Đại dương sóng dập dềnh. Những cơn sóng vỗ bờ chỉ bật ra tiếng xạc xào, chờm vào bờ cát dịu dàng. Ở phía xa kia những căn nhà trắng và hàng cọ tuyệt vời cất tiếng reo vui. Quả là đã diễn ra một cái gì đó thật vui tươi, mà tĩnh lặng và trịnh trọng. Bỗng nhiên, giữa sự bình yên của tự nhiên đó vang lên giọng run rẩy của ông già, người cất tiếng đọc thật to để bản thân mình hiểu rõ hơn:

Litva, Tổ quốc ơi, Người giống như sức khỏe

Quý nhường bao, khi mất rồi mới càng thấm thía

Vẻ đẹp Người hiển hiện trong con tráng lệ huy hoàng

Khi con miêu tả Người đầy khắc khoải, nhớ thương...*

Chàng Tadeush : kiệt tác thơ của Adam Mickiewicz, Nguyễn Văn Thái dịch, NXB Hội Nhà Văn, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008 (ND).

Skawinski hụt hơi. Những con chữ nhảy múa trước mắt ông; trong lồng ngực ông, một cái gì đó bật ra và bay lên như hình con sóng từ trái tim lên cao và cao mãi, vừa làm nghẹn giọng vừa bóp chẹt yết hầu... Thêm giây lát nữa, ông trấn tĩnh lại và đọc tiếp:

Hỡi Thánh đồng trinh bảo vệ Czestochowa tươi sáng

Và trên cổng Ostra Brama lung linh tỏa rạng

Che chở châu thành Novogrodek cùng dân chúng trung trinh

Giống như xưa, phép nhiệm màu đã cho con hồi sinh

(Khi người mẹ chỉ còn biết khóc

Dâng con lên Người mong chở che đùm bọc

Một sinh linh thơ ngây đang mở to đôi mắt chết của mình

Lê bước đến Người - nữ Thánh đồng trinh

Để cảm ơn Chúa nhân từ cứu con sống lại)

Người hẳn đưa chúng con về giữa lòng Tổ quốc bằng phép màu như vậy...

Đợt sóng trào lên vượt qua đập cản của ý chí. Ông già hét lên và đổ gục xuống đất; mớ tóc màu sữa của ông nằm xen kẽ với những hạt cát trên bờ biển. Thế đấy, bốn mươi năm đã trôi qua kể từ lúc ông không nhìn thấy đất nước, và chỉ Chúa mới biết đã bao lâu ông không được nghe tiếng nói của quê hương, thế mà giờ đây, ở tại nơi này, tiếng nói ấy đã tự tìm đến với ông - đã vượt qua đại dương và tìm đến với ông, một kẻ cô đơn, ở nửa bên kia bán cầu, tiếng nói thân thương, quý báu, tuyệt vời đến vậy! Trong tiếng khóc nức nở, tiếng khóc khiến ông rung động, không có sự đau đớn, chỉ có một tình yêu vô bờ bến bất chợt được đánh thức, mà bên cạnh nó mọi thứ đều không là cái gì cả... Đơn giản là bằng tiếng khóc lớn đó, ông muốn xin lỗi mảnh đất yêu thương xa cách kia vì mình đã quá già, đã quen thân với hòn đảo đá cô đơn và đã nhớ đến nỗi trong mình ngay cả sự nhớ nhung cũng bắt đầu mờ nhạt. Còn giờ đây, tình yêu ấy “đã quay trở lại bằng một sự diệu kì” - vì vậy trong ông trái tim bật dậy. Thời gian cứ trôi qua hết giây này sang giây khác: ông vẫn nằm nguyên một chỗ. Những con chim hải âu bay đến ngọn đèn biển, vừa bay vừa kêu ầm ĩ như lo lắng cho người bạn già của mình. Đã đến giờ ông phải cho chúng ăn bằng những đồ ăn thừa của mình, vài con chim bay từ trên nóc ngọn đèn biển xuống đến tận chỗ ông nằm. Mỗi lúc một nhiều chim bay xuống và bắt đầu mổ nhẹ vào ông và vỗ cánh trên đầu ông. Tiếng động của cánh chim đánh thức ông dậy. Khóc xong, khuôn mặt ông giờ đây thể hiện một sự bình yên và rạng rỡ hẳn ra, còn đôi mắt trở nên sống động. Ông đã cho đàn chim toàn bộ số thực phẩm của mình một cách vô thức và đàn chim ồn ào lao đến, còn bản thân ông lại cầm quyển sách lên. Mặt trời đã đi qua bên trên khu vườn cây và trên khu rừng nguyên sinh Panama rồi từ từ hạ xuống sau eo đất, hạ dần xuống đại dương thứ hai, song cả Đại Tây Dương còn đầy ánh sáng, trong không trung vẫn nhìn rõ hoàn toàn, vì vậy ông đọc tiếp:

Còn giờ đây xin hãy mang một tâm hồn nặng trĩu nhớ thương

Bay về những vạt rừng và thảm cỏ xanh rờn...

Hoàng hôn bây giờ mới làm nhòa con chữ trên tờ giấy trắng, hoàng hôn ngắn như một tia chớp mắt. Ông già tựa đầu vào tảng đá và nhắm nghiền mắt lại. Lúc bấy giờ, “Thánh đồng trinh, Người bảo vệ Czestochowa tươi sáng” đã nâng tâm hồn ông và mang nó đến “những cánh đồng lúa mì vàng óng”. Trên bầu trời vẫn cháy sáng những đường dài màu đỏ và vàng, còn trong ánh sáng ấy, ông đang bay về mảnh đất quê hương. Bên tai ông ầm vang tiếng reo của những cánh rừng thông, tiếng kêu róc rách của những con sông quê. Ông nhìn thấy mọi thứ cứ như chúng đang ở trước mặt. Mọi thứ đều lên tiếng hỏi ông: “Còn nhớ hay không?” Ông vẫn nhớ! Hơn nữa, ông còn đang nhìn thấy: những cánh đồng thênh thang, bờ ruộng, đồng cỏ, cánh rừng và làng mạc. Đêm đã buông! Giờ này thông thường cây đèn biển của ông đã tỏa sáng trong màn đêm của biển - nhưng ông đang đắm mình trong làng quê. Mái đầu già cúi xuống ngực và mơ màng. Những hình ảnh chuyển dịch trước mắt ông nhanh chóng và tương đối hỗn độn. Ông không nhìn thấy ngôi nhà gia đình mình, vì nó bị chiến tranh phá hủy, không nhìn thấy cả bố lẫn mẹ, vì họ đã mất từ khi ông còn nhỏ; nhưng làng quê thì như mới rời xa nó ngày hôm qua: hàng loạt mái nhà tranh với ánh sáng lập lòe trên cửa sổ, cái đập, chiếc cối xay, hai ao nước nối với nhau và dàn hợp xướng ếch nhái ầm ĩ suốt đêm dài. Ngày xưa, nơi làng quê ấy của mình, đêm đêm ông đã đứng trên trạm gác, còn giờ đây quá khứ đó bỗng hiện lên trước mắt ông. Đây rồi, ông lại là một kị binh và đang đứng trên trạm gác: từ phía cách khá xa quán ăn, ông đang nhìn bằng đôi mắt và cặp lông mày rực cháy, và ông hát, và vang lên trong đêm tối tiếng giậm chân thình thịch, tiếng vĩ cầm và đàn bốn dây. “U-ha! U-ha!” Đó là những lính kị binh đang dùng gót giày nhóm lửa, thế mà ông buồn chán ở đó một mình trên lưng ngựa!

Hàng giờ trôi qua một cách lười nhác; cuối cùng ánh sáng tắt ngấm. Bây giờ, ngước mắt nhìn ra xa, ông chỉ thấy sương mù và sương mù dày đặc: sương mù rõ ràng đang dâng cao từ phía đồng cỏ và bao trùm cả thế gian bằng màn sương trắng đục. Bạn có thể nói: đúng là một đại dương. Nhưng đó là đồng cỏ: chờ đợi giây lát thôi, tiếng chim cuốc sẽ xé tan màn đêm và những con bọ cánh lại vi vu trong lau sậy. Đêm tĩnh mịch và khá lạnh, đúng thực là đêm Ba Lan! Ở phía xa rừng thông đang kêu vi vu mà không có gió... giống như sóng biển. Ngay sau đó, bình minh nhuộm hồng phương đông: hình như cả lũ gà cũng đang gáy trong chuồng. Con này gọi con kia từ nhà này sang nhà khác; cùng lúc đó cả những con hạc cũng đã lên tiếng từ đâu đó phía trên cao. Người lính kị binh cảm thấy lanh lợi và khỏe mạnh hẳn lên. Đằng kia người ta đang nói gì đó về trận đánh ngày mai. Hây! Thế thì ông sẽ đi giống như những người khác, ra đi với tiếng thét gào và cờ bay phấp phới. Dòng máu trẻ trung đập mạnh như tiếng kèn đồng, mặc dù hơi gió đêm có làm cho nó lạnh lại. Nhưng trời đã sáng, đã sáng rồi! Đêm tàn dần: từ trong bóng đêm lộ ra những cánh rừng, bụi rậm, hàng loạt căn nhà, cối xay, hàng dương. Giếng nước cót két kêu giống như cây cờ đuôi nheo bằng bạc trên đỉnh tháp. Mảnh đất này sao thân thương, tuyệt vời đến thế trong ánh hồng ban mai! Ôi, mảnh đất duy nhất, duy nhất!

Im lặng! Trạm gác cảnh giác nghe thấy ai đó đang đến gần. Chắc người ta đến đổi gác.

Bỗng nhiên, một giọng nói vang lên phía trên Skawinski.

- Hây, ông già! Thức dậy ngay. Ông làm sao thế?

Ông già mở mắt và nhìn với nỗi ngạc nhiên lên người đang đứng trước mặt mình. Những hình ảnh còn lại của giấc mơ chập chờn trong đầu ông đang chiến đấu với hiện thực. Cuối cùng, những ảo ảnh nhạt nhòa dần và tàn lụi. Trước mặt ông, gã lính gác cảng tên là John đang đứng.

- Cái gì xảy ra thế? - John hỏi - Ông bị ốm à?

- Không.

- Ông không thắp đèn biển. Ông hãy đi khỏi đây ngay. Một chiếc thuyền từ San-Gerono bị vỡ trên bãi cạn, may mà không ai bị chết chìm; nếu không thì ông sẽ phải ra hầu tòa. Ông hãy ngồi cùng tôi, phần còn lại ông sẽ được nghe tại tòa lãnh sự.

Ông già mặt mày nhợt nhạt: đúng là ông đã không thắp ngọn đèn biển đêm qua.

Vài ngày sau, người ta nhìn thấy Skawinski trên boong tàu khởi hành từ Aspinwall đi New York. Ông già đáng thương bị mất việc làm. Phía trước ông mở ra những con đường du thủ du thực mới; gió lại ngắt chiếc lá đó quăng nó ra khắp các lục địa và biển khơi, để thoải mái dập vùi cho thỏa thích. Mấy ngày nay, ông già dịch chuyển rất nhiều và cúi gằm người xuống; chỉ có đôi mắt là sáng long lanh. Trên những con đường mới của cuộc sống, ông còn có trên ngực quyển sách của mình, quyển sách mà thỉnh thoảng ông lại phải chạm tay vào, như sợ hãi rằng rồi cả nó cũng sẽ rời xa ông...